Luận án Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môI trường sinh tháI ở nước ta hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Các công trình nghiên cứu về kết hợp tăng trưởng kinh tế với

bảo vệ môi trường sinh thái 6

1.2. Các công trình nghiên cứu về vai trò của nhà nước trong tăng trưởng

kinh tế và vai trò của nhà nước trong bảo vệ môi trường sinh thái 20

Chương 2: KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI

TRƯỜNG SINH THÁI - YÊU CẦU CỦA SỰ PHÁT TRIỂN

BỀN VỮNG VÀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG SỰ

KẾT HỢP ĐÓ 28

2.1. Kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái -

yêu cầu của sự phát triển bền vững 28

2.2. Vai trò của Nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh tế với bảo

vệ môi trường sinh thái 49

Chương 3: VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC NÂNG CAO VAI TRÒ

CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG

KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY 70

3.1. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi cần phải có tính đồng bộ về chính

sách, chiến lược, pháp luật trong kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo

vệ môi trường sinh thái, với tình trạng còn thiếu, chưa đồng bộ 70

3.2. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện, kiểm

tra, giám sát việc kết hợp tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường

sinh thái, với hiệu quả thực tế còn bất cập, nhiều hạn chế 84

3.3. Mâu thuẫn của việc đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa

nhà nước cùng các tổ chức, các lực lượng xã hội trong kết hợp

tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái, với tình

trạng phối hợp còn lỏng lẻo, chưa chặt chẽ 97

Chương 4: MỘT SỐ NHÓM GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG KẾT HỢP TĂNG

TRƯỞNG KINH TẾ VỚI BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH

THÁI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 113

4.1. Nhóm giải pháp nâng cao hiệu quả xây dựng hệ thống chính

sách, chiến lược, pháp luật của nhà nước trong kết hợp tăng

trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái 113

4.2. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả quản lý,

điều hành của bộ máy nhà nước trong kết hợp tăng trưởng kinh

tế với bảo vệ môi trường sinh thái 126

4.3. Nhóm giải pháp nâng cao vai trò của nhà nước trong việc tạo ra

sự đồng thuận của toàn xã hội nhằm thực hiện tốt việc kết hợp

tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái 136

KẾT LUẬN 149

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 153

PHỤ LỤC 165

pdf176 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 629 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của nhà nước trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môI trường sinh tháI ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à nước đã đề ra và tổ chức thực hiện nhiều chiến lược khác nhau. Ở một mức độ nhất định các chiến lược này đều đề cập đến vấn đề bảo vệ MTST nói chung và gắn TTKT với bảo vệ MTST nói riêng. Tiêu biểu là: Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 (2003), Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020 (2006), Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (2011), Chiến lược phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (2012), Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh (2012), Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 tại Đại hội XI, Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (2012) Sự ra đời của các chiến lược trên tạo ra những điều kiện cần thiết, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong, ngoài nước đầu tư lao động, vốn, áp dụng các thành tựu KH và CN vào khai thác, bảo vệ TNTN để thúc đẩy TTKT. Càng về sau, vấn đề kết hợp TTKT với bảo vệ MTST càng được các chiến lược đề cập rõ nét hơn, gắn với thực tiễn hơn. Những vấn đề như: yêu cầu các tổ chức, cá nhân, khi phát triển kinh tế phải đảm bảo hạn chế đến mức thấp nhất việc làm suy giảm các nguồn TNTN, nhất là các loại tài nguyên không tái tạo; khôi phục tài nguyên tái tạo được; duy trì khả năng chịu đựng cũng như tính đa dạng của Trái Đất; thay đổi thái độ, thói quen của mỗi người khi sử dụng TNTN đã trở thành các 78 mục tiêu cụ thể trong các chiến lược. Chính điều này đã dẫn tới các kết quả khả quan: một số chiến lược sau khi ban hành và tổ chức thực hiện đã có tác dụng trực tiếp, tác động mạnh tới lợi ích của các chủ thể kinh tế, nhờ đó, có tác dụng rõ trong việc nâng cao khả năng sử dụng hợp lý và tiết kiệm tối đa các nguồn tài nguyên, làm giảm thiểu tới mức thấp nhất những tác động gây ô nhiễm MT và sử dụng lãng phí TNTN. Các Chiến lược về Phát triển bền vững, Tăng trưởng xanh, Bảo vệ môi trường quốc gia đã khuyến khích các chủ thể kinh tế và mọi người dân có ý thức, thái độ và hành vi tích cực, thân thiện hơn trong việc bảo vệ MTST. Như vậy, việc nhà nước xây dựng và triển khai thực hiện các chiến lược về bảo vệ MTST nói chung, chiến lược gắn TTKT với bảo vệ MTST nói riêng, nhìn chung là đạt hiệu quả đối với công tác bảo vệ MTST. Tuy nhiên, vẫn còn có một số hạn chế nhất định trong công tác ban hành, tổ chức thực hiện các chiến lược. Chất lượng của các chiến lược mặc dù được nâng cao, song vẫn còn tồn tại một số hạn chế, còn có sự chồng chéo lên nhau. Bên cạnh đó, việc tổ chức thực hiện các chiến lược chưa được đồng đều giữa các địa phương trong toàn quốc. Công tác soạn thảo, ban hành các chiến lược còn chậm so với yêu cầu của thực tế, dẫn tới tình trạng nhiều chiến lược vừa mới ban hành nhưng chỉ được thực hiện trong một thời gian ngắn đã không còn phù hợp nữa. Ngoài ra, công tác thanh tra kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chiến lược còn chưa nghiêm minh, nhiều sai phạm chưa được xử lý kịp thời Những thiếu sót trên đòi hỏi Nhà nước phải nhìn nhận lại một cách khách quan, nghiêm túc, trên cơ sở đó có sự điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tế đặt ra, nhằm từng bước hoàn thiện mục tiêu gắn TTKT với bảo vệ MTST mà Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đặt ra. 3.1.2. Sự bất cập và thiếu đồng bộ của hệ thống pháp luật trong việc kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường sinh thái Những thảm họa về MTST xuất hiện do TTKT gây nên đòi hỏi Nhà nước ta phải tiếp tục củng cố công cụ pháp luật và sử dụng một cách có hiệu 79 quả công cụ này để quản lý, kiểm soát quá trình phát triển. Chỉ có như vậy với đảm bảo được nguyên tắc vừa TTKT, vừa đảm bảo sử dụng hiệu quả, tiết kiệm TNTN, bảo vệ MTST. Với tinh thần này, thời gian qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều quy định pháp lý để điều chỉnh quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST, hướng các nỗ lực của các nhân, cộng đồng vào quỹ đạo chung nhằm lành mạnh hóa MTST, chống suy thoái, cạn kiệt các nguồn TNTN. Trên lĩnh vực pháp lý quốc tế, kể từ năm 1972, sau Hội nghị quốc tế về “Môi trường con người” được tổ chức tại Thụy Điển (Hội nghị Stockholm), có rất nhiều văn bản Luật quốc tế về MT được Nhà nước ta tham gia soạn thảo và ký kết. Nhìn một cách khái quát, các văn bản này mặc dù chủ yếu đề cập tới vấn đề bảo vệ môi trường, nhưng vấn đề gắn kết TTKT với bảo vệ MTST cũng đã được thể hiện ở các góc độ khác nhau. Trong xu thế toàn cầu, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia vào các Hội nghị quốc tế, ký kết các Công ước quốc tế về bảo vệ MTST và PTBV. Tại Hội nghị Trái Đất I ở Rio de Janeiro - Braxin (năm 1992), chúng ta đã ký cam kết quốc tế về vai trò hợp tác của các quốc gia trong kết hợp TTKT với bảo vệ MTST, đảm bảo các hoạt động phải được kiểm soát, không gây tác động xấu đến MT dựa trên việc bảo vệ nguồn TNTN, hạn chế sử dụng năng lượng gây ô nhiễm MT. Hội nghị Trái Đất II được tổ chức tại Johannesburg - Nam Phi (năm 2002), Chính phủ Việt Nam tham dự với tư cách là nước thành viên đã đưa ra các nguyên tắc về gắn TTKT với bảo vệ MTST hướng tới mục tiêu PTBV. Trong các Hội nghị quốc tế mà Việt Nam tham gia phải kể tới khóa họp đặc biệt của Đại hội đồng Liên hiệp quốc tổ chức năm 1997. Tại đây, Chính phủ Việt Nam đã ký kết nhiều công ước quốc tế thể hiện sự quan tâm và hợp tác của Nhà nước Việt Nam với cộng đồng quốc tế về bảo vệ toàn diện nguồn TNTN và MTST trên phạm vi toàn cầu như: Công ước về thay đổi khí hậu, đa dạng sinh học, chống sa mạc hóa, Công ước về luật biển, Công ước kiểm soát, vận chuyển qua biên giới các phế thải nguy hại và tiêu hủy chúng... Có 80 thể khẳng định, việc ký kết các Công ước này đã thể hiện sự nhận thức đúng đắn, sâu sắc của Việt Nam về vấn đề toàn cầu mà nhân loại đang rất quan tâm, đặc biệt là trong việc thực hiện gắn kết TTKT với bảo vệ MTST. Thực tế cho thấy, việc TTKT có được gắn kết chặt chẽ với bảo vệ MTST hay không, không chỉ nhờ vào sự ký kết các hiệp định, hiệp ước của các tổ chức quốc tế mà còn nhờ vào hệ thống luật quốc gia. Có thể thấy, trong hệ thống pháp luật Việt Nam không có văn bản pháp luật nào hướng vào điều chỉnh riêng cho vấn đề kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Tuy nhiên, trong một số bộ luật chuyên ngành của các lĩnh vực kinh tế, môi trường, Nhà nước đã lồng ghép và giải quyết nhiều vấn đề về quan hệ giữa TTKT và bảo vệ MTST, do đó, việc gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST ở Việt Nam thời gian qua đạt nhiều thành tựu đáng kể. Văn bản pháp luật đầu tiên thể hiện quan điểm này là Hiến pháp 1992 (được sửa đổi, bổ sung năm 2001). Điều 29 trong Hiến pháp nêu rõ “Các cơ quan Nhà nước, đơn vị vũ trang, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi cá nhân phải thực hiện các quy định của Nhà nước về sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường sinh thái. Nghiêm cấm mọi hành động làm suy kiệt và hủy hoại môi trường”. Với quan điểm này, Hiến pháp 1992 thể hiện bước đi tiên phong trong việc đặt ra và thực hiện quan điểm PTBV ở Việt Nam theo hướng phải sử dụng hợp lý TNTN và bảo vệ MTST trong quá trình phát triển. Bước đột phá, thể hiện quan điểm kế thừa Hiến pháp 1992 về khai thác, sử dụng hợp lý TNTN cho TTKT là Luật Bảo vệ môi trường năm 2003, (Quốc hội nước ta thông qua tại kỳ họp thứ 4, khóa IX, ngày 27/12/1993). Với 7 chương, 55 điều, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 đã đề cập tới ảnh hưởng của tăng trưởng, phát triển kinh tế lên việc khai thác, sử dụng TNTN và bảo vệ MTST. Luật yêu cầu các tổ chức, cá nhân trong quá trình quản lý, khai thác TNTN vào mục đích kinh tế phải có nghĩa vụ phòng, chống, khắc phục sự suy thoái TNTN, bảo vệ MTST. Cụ thể, Điều 12 quy 81 định các tổ chức, cá nhân khi “khai thác các nguồn lợi sinh vật phải theo đúng thời vụ, địa bàn, phương pháp và bằng công cụ, phương tiện đã được quy định, đảm bảo phục hồi về mật độ và giống loài, sinh vật, không làm mất cân bằng sinh thái” [105, tr.21]. Điều 20 quy định “Tổ chức, cá nhân khi tìm kiếm, thăm dò, khai thác, vận chuyển, chế biến, cất giữ các loại khoáng sản và các chế phẩm, kể cả nước ngầm phải áp dụng công nghệ phù hợp, thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, đảm bảo tiêu chuẩn môi trường” [105, tr.42]. Luật còn quy định cụ thể trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ MT; nêu rõ các hình thức khen thưởng đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích và xử phạt các tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ MT. Sau khi ra đời, Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 trở thành công cụ pháp lý quan trọng mà nhờ đó khâu tổ chức quản lý TNTN của Nhà nước trở nên dễ dàng hơn. Đồng thời, buộc các tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng TNTN phải có ý thức bảo vệ, nhất là đối với các loại TNTN quý hiếm. Qua một thập kỷ, sự vận động phát triển của nền kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước cộng với xu thế phát triển của thời đại đã đặt vấn đề bảo vệ MTST trong TTKT ở nước ta vào một hoàn cảnh mới. Điều này buộc Nhà nước phải nhìn nhận lại những điểm chưa thật phù hợp của Luật bảo vệ môi trường năm 1993 và tiến hành sửa đổi. Ngày 29/11/2005, tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Bảo vệ môi trường năm 2005, gồm 15 chương, 136 điều. So với luật Bảo vệ môi trường năm 1993, Luật này có nhiều điểm cụ thể hơn, đặc biệt việc gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST đã được thể hiện một cách rõ ràng. Ngay ở điều 4, Luật khẳng định “Bảo vệ môi trường phải gắn kết hài hòa với phát triển kinh tế và bảo đảm tiến bộ xã hội để phát triển bền vững đất nước; bảo vệ môi trường quốc gia phải gắn với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu” [113, tr.11]. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 còn quy định rõ chính sách của Nhà nước ta về bảo vệ môi trường là “Sử dụng 82 hợp lý, tiết kiệm TNTN, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng và giảm thiểu chất thải” [113, tr.12]. Ngoài ra, Luật còn có các quy định cụ thể, rõ ràng về bảo tồn, sử dụng hợp lý TNTN, bảo vệ môi trường trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh (chương IV, Chương V). Sau khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 có hiệu lực, Chính phủ và các cơ quan chuyên trách ở Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành thực hiện. Trong đó có các văn bản quy định rất rõ về khai thác, sử dụng TNTN đảm bảo PTBV, như: Nghị định số 149/2004/NĐ- CP của Chính phủ Quy định việc cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; Nghị quyết liên tịch số 01/2005/NQLT-HPN-BTNMT của Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Bộ Tài nguyên và môi trường về Việc phối hợp hành động bảo vệ môi trường phục vụ PTBV; Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/ 2004 của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nghị định số 80/2006/NĐ-CP của Chính phủ về Việc quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật bảo vệ môi trường... Việc chỉ đạo gắn TTKT với bảo vệ MTST còn được Nhà nước thể hiện cụ thể trong các đạo luật về sử dụng hợp lý các thành phần của MTST (sử dụng hợp lý TNTN) hoặc bảo vệ MT cụ thể ở một địa phương, một ngành như Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm, Luật Biển, Luật Đất đai, Luật Khoáng sản... cùng hàng loạt các luật, pháp lệnh trong lĩnh vực kinh tế, dân sự, hình sự như Luật Du lịch, Luật Xây dựng, Luật Khoa học và công nghệ, Luật Đầu tư, Bộ luật Hình sự, Bộ luật dân sự... Tất cả các văn bản pháp luật trên đều quy định rõ trách nhiệm pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân khi tiến hành sản xuất kinh doanh ở mọi khu vực kinh tế nước đều phải có nghĩa vụ bảo vệ MTST, phải có các dự án đánh giá tác động MT và các biện pháp khắc phục sự cố MT. Có thể nói, hệ thống các 83 văn bản pháp luật đó đánh dấu những bước đi quan trọng trong việc thực hiện lịch trình thế kỷ XXI của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam, nhờ đó, có những bước đi khá bền vững; MTST bước đầu được nhìn nhận và đánh giá khoa học hơn trong mối tương quan với sự tăng trưởng của nền kinh tế. Giá trị nội tại của các nguồn TNTN càng ngày càng được đề cao. Song, có một thực tế còn tồn tại là mặc dù số lượng văn bản pháp luật về bảo vệ MT rất nhiều, nhưng lại vắng bóng hệ thống pháp luật chuyên ngành về kết hợp giữa TTKT với bảo vệ MTST. Trong các văn bản pháp luật về bảo vệ MT mặc dù có đề cập tới vấn đề bảo vệ MT, bảo tồn và khai thác hợp lý TNTN trong các hoạt động kinh tế, sản xuất kinh doanh nhưng đó vẫn chưa phải là vấn đề cơ bản, trọng tâm. Mặt khác, một số văn bản pháp luật đó ra đời còn tồn tại những quy định bất cập, không phù hợp với thực tế đời sống xã hội, đôi khi còn chồng chéo, mâu thuẫn. Nền kinh tế Việt Nam đang trong xu thế mở cửa và hội nhập, nhiều loại hình kinh doanh với các hình thức, cấp độ và công nghệ khác nhau được triển khai ồ ạt, đòi hỏi phải có hệ thống pháp luật về MT phù hợp. Song trên thực tế, các quy định pháp luật về MT hiện hành chưa đáp ứng và chưa theo kịp thực tiễn, nhiều điểm chưa phù hợp với hệ thống pháp luật quốc tế liên quan đến bảo vệ MT và PTBV mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia. Một số chuyên gia cũng cho rằng, điểm hạn chế cơ bản của Luật Bảo vệ môi trường 2005 là chưa có tư tưởng chỉ đạo rõ ràng trong việc kết hợp một cách có hiệu quả giữa ba mặt kinh tế, xã hội và bảo vệ MT của sự PTBV. Đó là những vấn đề thực tế đang đặt ra, đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm và có những biện pháp xử lý phù hợp. Hiện nay, vấn đề môi trường sinh thái ở nước ta đang có những diễn biến phức tạp và ngày càng xấu dần, tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; nhiều dự án đầu tư, các cơ sở sản xuất kinh doanh - dịch vụ hầu như không tuân thủ các quy định về đánh giá tác động môi trường; môi trường sống của các giống loài động - thực vật đang bị thu hẹp dần; sức khỏe của 84 hàng triệu người dân đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi tình trạng ô nhiễm môi trường sinh thái Để khắc phục những hạn chế trên, Nhà nước phải đứng ra xây dựng hệ thống pháp luật về gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái một cách đồng bộ, khoa học và có tính khả thi. Đó cũng là tiền đề để đưa đất nước vững bước đi lên trên con đường phát triển bền vững. 3.2. MÂU THUẪN GIỮA YÊU CẦU NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN, KIỂM TRA, GIÁM SÁT VIỆC KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI, VỚI HIỆU QUẢ THỰC TẾ CÒN BẤT CẬP, NHIỀU HẠN CHẾ 3.2.1. Sự yếu kém trong gắn kết giữa các ngành, các cấp của hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong gắn tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường sinh thái Để bảo vệ MTST trong điều kiện nền kinh tế thị trường có nhiều biến động, ngoài việc áp dụng chính sách pháp luật, Nhà nước còn thành lập các cơ quan chuyên trách quản lý kinh tế và quản lý TN - MT. Cũng như các quốc gia khác trên thế giới, ở nước ta, bộ máy quản lý nhà nước về MT được tổ chức từ cấp trung ương đến địa phương và được kết cấu theo ngành và theo lãnh thổ. Để đảm bảo chức năng tổ chức, quản lý việc gắn kết giữa TTKT với bảo vệ MTST được thống nhất trên phạm vi cả nước, Nhà nước đã giao nhiệm vụ quản lý TNTN và bảo vệ MTST cho các bộ, ngành liên quan, trước hết là Bộ Tài nguyên và Môi trường. Trong hơn 10 năm qua, Bộ này đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc giúp Chính phủ quản lý tốt hơn vấn đề TN - MT cũng như hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về TN - MT đáp ứng yêu cầu PTBV, hội nhập quốc tế. Với cơ cấu tổ chức hoạt động vững mạnh, Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa thực hiện nhiệm vụ đưa chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về sử dụng, bảo vệ TNTN đến với mọi người dân; vừa giúp Nhà nước nắm bắt, trao đổi, thực hiện công khai thông tin, dân chủ cơ sở về quản lý, sử dụng TNTN. Sự phối hợp chặt 85 chẽ giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường và các bộ, ngành khác như Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Y tế, Bộ Công an trong quản lý, bảo vệ TNTN cho TTKT còn góp phần nâng cao tính minh bạch trong công tác quản lý, chống thất thoát TNTN khi khai thác và sử dụng. Ngoài quản lý phòng chống ô nhiễm MT theo ngành, trong những năm qua, Nhà nước ta còn quản lý theo lãnh thổ. Ở nước ta, tình trạng ô nhiễm MT diễn ra ở nhiều khu vực. Việc quản lý theo lãnh thổ, do đó, có tác dụng điều tiết trực tiếp tới những nơi ô nhiễm, giúp xử lý tình trạng ô nhiễm diễn ra nhanh và đạt kết quả tốt hơn. Về quản lý ô nhiễm MT theo lãnh thổ, Nhà nước đã giao nhiệm vụ cụ thể cho Uỷ ban nhân dân các cấp. Các cấp chính quyền tỉnh, huyện có nhiệm vụ quản lý nhà nước về bảo vệ MT tại địa phương. Theo đó, Nhà nước đã thành lập các Sở Tài nguyên và Môi trường ở cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Phòng Tài nguyên và Môi trường ở các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh và có cán bộ kiêm nhiệm quản lý MT ở xã, phường, thị trấn. Nhiều tập đoàn kinh tế, tổng công ty, ban quản lý khu công nghiệp, doanh nghiệp lớn đã có phòng, ban, bộ phận hoặc bố trí cán bộ chuyên trách về MT. Sự hoạt động của các cơ quan này trong nhiều năm qua đã có tác dụng tích cực trong việc giúp Nhà nước phát hiện, xử lý nhiều điểm nóng ô nhiễm MT trên phạm vi cả nước. Như vậy, những nỗ lực cố gắng của Nhà nước ta trong việc xây dựng bộ máy nhà nước quản lý về TN- MT đã góp phần rất lớn vào việc khắc phục ô nhiễm MTST trước các hoạt động kinh tế đang diễn ra. Tuy nhiên, sau nhiều năm hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy và năng lực làm việc của cán bộ viên chức bộ máy quản lý nhà nước về TN - MT còn bộc lộ nhiều hạn chế: Một là: Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về MTST còn chồng chéo, hoạt động không hiệu quả Vấn đề đặt ra đối với PTBV trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta hiện nay là phải bảo vệ được MTST. Muốn vậy, phải có bộ máy quản lý nhà nước về MT đủ mạnh. Song, thực tế cho thấy, bộ máy này ở 86 nước ta hiện nay chưa đạt yêu cầu và chưa tương xứng với nhiệm vụ đặt ra. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, ở nước ta, hiện nay, có tới 90% số cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ không có thiết bị máy móc hiện đại để xử lý chất thải trước khi thải ra MT, hơn 70% các khu công nghiệp, 90% các khu dân cư và khu đô thị không có hệ thống xử lý chất thải tập trung. Hầu hết các làng nghề đều trong tình trạng báo động về ô nhiễm MTST, trong đó, nhiều cơ sở sản xuất của các làng nghề này thuộc diện gây ô nhiễm MT nghiêm trọng cần xử lý triệt để. Các bãi chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp thường không được xử lý đúng quy trình, nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh không thực hiện các yêu cầu về PTBV, hậu quả là nhiều dòng sông, không khí, đất đai bị ô nhiễm nặng [phụ lục 11]. Tình trạng này diễn ra ở mọi nơi từ thành thị tới nông thôn, mang tính thường xuyên, liên tục, đặt ra yêu cầu cần phải có một bộ máy với số lượng cán bộ làm công tác quản lý TN - MT đủ lớn, phủ rộng ở mọi địa bàn, mọi cấp, từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước về TN - MT ở nước ta rất ít, lại tập trung chủ yếu ở cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Còn cấp đơn vị hành chính thấp hơn như xã, phường hầu như không có hoặc có không đáng kể. Theo Luật Bảo vệ môi trường 2005, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Ủy ban nhân dân huyện thực hiện chức năng quản lý nhà nước về bảo vệ MT ở cấp địa phương. Đây là những lực lượng giữ vai trò nòng cốt trong công tác quản lý, bảo vệ MT ở cấp địa phương. Nhưng, điều đáng nói là việc quản lý, bảo vệ MT ở cấp địa phương chưa thực sự là mối quan tâm của lãnh đạo một số tỉnh, thành. Có rất nhiều nơi các quan chức địa phương còn chạy theo quan điểm cực đoan trong phát triển kinh tế, đánh đổi mọi giá để có TTKT cao, xem nhẹ các vấn đề về MTST, nhiều quy hoạch phát triển địa phương chưa gắn với công tác bảo vệ MTST. Nhiều tỉnh, thành trong cả nước ra sức “mời gọi”, “ưu tiên” cho các chương trình đầu tư, mở các dự án, các khu công nghiệp nhưng lại không tính đến MTST hoặc nếu có tính đến MTST thì lại không đầy đủ, mang tính hình 87 thức theo kiểu “miễn là có”. Ngoài ra, hiện trạng tất cả các doanh nghiệp khi xin vào các khu công nghiệp đều có đánh giá tác động MT, hứa hẹn thực hiện đầy đủ những quy định về bảo vệ MTST, nhưng ít doanh nghiệp thực thi bởi không có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của địa phương. Đây là những mặt yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về MTST ở nước ta hiện nay. Đã đến lúc cần phải có những biện pháp để chấn chỉnh kịp thời những yếu kém này. Tính đến nay, ở nước ta có tới hàng trăm đơn vị, tổ chức kinh tế, xã hội đang hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến công tác bảo vệ MTST. Nhà nước giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với các bộ, ngành khác như Bộ Công thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Khoa học và công nghệ, Bộ Y tế... quản lý việc bảo vệ MTST. Sự gắn kết của các bộ, ngành trong nhiều năm qua đã giúp cho công tác bảo vệ MTST ở nước ta có nhiều tiến triển theo chiều hướng tích cực. Tính từ năm 2003 đến nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng với Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp và xử lý dứt điểm nhiều cơ sở gây ô nhiễm MT nghiêm trọng trên phạm vi cả nước; cùng với Bộ Tài chính tính toán, đề ra các mức thuế, phí hợp lý buộc các doanh nghiệp phải đóng góp, tạo ra nguồn kinh phí cần thiết để xử lý ô nhiễm MT; hoặc cùng với Bộ Y tế tiến hành rà soát tác động của ô nhiễm MT lên vật nuôi và sức khỏe của con người, đề xuất những biện pháp chấn chỉnh kịp thời... Thành quả đóng góp của các bộ, ngành trong việc bảo vệ MTST là không nhỏ, song vẫn có những hạn chế nhất định. Tình trạng chồng chéo về chức năng, thẩm quyền giữa các bộ, ngành là thách thức đặt ra trong việc gắn TTKT với bảo vệ MTST ở nước ta. Việc giao nhiệm vụ về bảo vệ MTST, việc phân cấp quản lý không rõ ràng giữa các Bộ, ngành tạo ra sự đùn đẩy, né tránh trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho nhau khi xảy ra các các sự cố về MTST. Lấy đơn cử việc quản lý tài nguyên nước: Trên thực tế, Nhà nước giao cho Bộ Tài nguyên và Môi trường là cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước, quản lý lưu vực sông trong phạm vi cả nước. Song, trong khi đó, quản lý nhà nước về sử dụng nước cho các ngành thì do các bộ khác chịu trách nhiệm. 88 Hiện nay, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đảm trách quản lý nhà nước đối với việc cấp nước cho sản xuất nông nghiệp, nước sinh hoạt nông thôn, Bộ Công thương - quản lý nhà nước về việc cấp nước cho công nghiệp, thủy điện, Bộ Xây dựng - quản lý nhà nước về cấp nước cho đô thị, các khu công nghiệp Sự chồng chéo này làm cho chức năng, quyền hạn của các cơ quan quản lý tài nguyên nước gặp nhiều khó khăn. Vào các mùa mưa lũ hay các đợt hạn hán, hiện tượng tranh giành nhau xả nước hay giữ nước giữa các bộ không phải là không xảy ra. Rõ ràng, kiểu quản lý “cha chung không ai khóc” này sẽ tạo ra tình trạng thiếu năng lực làm chủ, dẫn đến tình trạng mất kiểm soát trong công tác quản lý TN - MT ở nước ta. Một ví dụ nữa về sự chồng chéo, hoạt động không hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong quản lý TN - MT ở nước ta hiện nay là việc quản lý vấn đề biển đảo. Cho đến nay vẫn còn khoảng 15 bộ, ngành và lĩnh vực dịch vụ đang khai thác và trực tiếp quản lý nhà nước về biển, hải đảo ở mức độ khác nhau trong phạm vi thẩm quyền ngành như Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Tài chính, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện, ngành Dầu khí Với cách quản lý theo ngành song lại thiếu các công cụ chính sách và kỹ thuật quản lý liên ngành, liên vùng trong khai thác, sử dụng và phát triển tài nguyên biển, hải đảo nên đã để lại nhiều bất cập như hiệu quả kinh tế biển đạt được còn thấp, thiếu bền vững, vấn đề ô nhiễm MT nước biển, suy thoái các hệ sinh thái dưới lòng đại dương và ven biển không được giải quyết triệt để Hai là: Đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn thiếu về số lượng, kém về chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, không thực hiện hết chức trách, nhiệm vụ được giao Về số lượng: Nhìn chung cán bộ làm công tác quản lý bảo vệ MTST ở nước ta quá ít [Phụ lục 9]. Số lượng cán bộ mỏng là nguyên nhân cơ bản dẫn tới những khó khăn cho công tác quản lý nhà nước về TN - MT ở nước ta hiện nay. Nhằm đưa những vụ án vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST ra ánh sáng, bắt đối tượng vi phạm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, tháng 6 năm 89 2006, Nhà nước quyết định thành lập Cục Cảnh sát môi trường nay là Cục Cảnh sát phòng chống tội phạm về MT trực thuộc Bộ Công an. Từ khi thành lập đến nay, lực lượng này đã phát hiện và xử lý nhiều vụ việc vi phạm pháp luật về MT. Sáu tháng đầu năm 2013, bằng công tác nghiệp vụ, Cảnh sát phòng chống tội phạm về MT đã phát hiện 6347 vụ vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST, tổ chức đấu tranh, triệt phá 39 chuyên án, chuyển cơ quan điều tra khởi tố 86 vụ, 172 đối tượng, phạt hành chính trên 71 tỷ đồng. So với cùng kỳ năm 2012, số vụ việc vi phạm pháp luật về bảo vệ MTST của các doanh nghiệp đã tăng 55, 95% [42]. Với những chiến công mà lực lượng Cảnh sát phòng chống tội phạm về MTST đem lại đã góp phần không nhỏ vào công tác phòng chống tội phạm về MTST, nâng cao ý thức về bảo vệ MTST cho quần chúng nh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftv_vai_tro_cua_nha_nuoc_trong_viec_ket_hop_giua_tang_truong_kinh_te_voi_bao_ve_moi_truong_sinh_thai.pdf
Tài liệu liên quan