MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC
VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 8
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. 8
1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. 19
1.3. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu; hướng tiếp cận của luận án . 23
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM . 27
2.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm
sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 27
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 42
2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 59
2.4. Những tiêu chí cơ bản đánh giá vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 66
Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM . 71
3.1. Thực trạng pháp luật ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 71
3.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 84
3.3. Đánh giá vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay. 100
178 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 346 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến
hành tố tụng của cơ quan điều tra (Điều 337)
- Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố
tụng hình sự: Theo quy định tại Điều 4 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002 thì “Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp
thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố
79
cáo về các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật”. Trong hoạt động tố
tụng hình sự, Viện kiểm sát với tư cách là một trong số các cơ quan tiến hành tố
tụng, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là một trong những cơ quan có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại, tố cáo; đồng thời Viện kiểm sát còn được giao trách nhiệm
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ
quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Vai
trò của Viện kiểm sát về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự không
những được thể hiện ở việc trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền
mà còn thể hiện ở chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu
nại, tố cáo của các chủ thể có thẩm quyền khác; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát được quy định tại Điều 339 Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2003, đó là:
+ Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự: (1) Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự; (2) Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình, cấp dưới,
thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát; (3) Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan
đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát.
+ Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định khi kết thúc hoạt động kiểm
sát, Viện kiểm sát ban hành văn bản kết luận, kiến nghị, kháng nghị. Do vậy, Viện
kiểm sát căn cứ vào Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện quyền kiến
nghị, kháng nghị khi phát hiện ra vi phạm trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố
cáo của các chủ thể có thẩm quyền khác. Khắc phục thiếu sót nêu trên của Bộ luật
tố tụng hình sự năm 2003, Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT đã ghi nhận khi kết
thúc việc kiểm sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của các cơ quan được kiểm sát, thì tùy từng mức độ vi phạm, Viện kiểm
80
sát ban hành kháng nghị, kiến nghị để yêu cầu cơ quan được kiểm sát khắc phục vi
phạm pháp luật. Đồng thời, nếu xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát có văn bản kiến
nghị cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan được kiểm sát thực hiện biện pháp quản
lý liên quan. Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị, kiến nghị có trách nhiệm kiểm
tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị của cơ quan được kiểm sát.
Thể chế hóa những quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp và cụ
thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân
dân năm 2014 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24/11/2014; Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 có
hiệu lực từ ngày 01/7/2016 nhưng vì Bộ luật Hình sự năm 2015 có một số sai sót về
kỹ thuật và nội dung nên ngày 29/6/2016 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số
144/2016/QH13 về việc lùi thời hạn thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và các
Luật, Bộ luật có liên quan trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó,
vai trò giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư
pháp được quy định chung trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND)
năm 2014; Điều 29, Điều 30 Luật Tổ chức VKSND quy định thẩm quyền chung của
VKSND về kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, trong đó
có thẩm quyền giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng
hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát
về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự có một số điểm mới so với Bộ luật
TTHS năm 2003 như sau:
Một là, về vai trò giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền: Về khiếu
nại đã bổ sung thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Phó Viện trưởng VKS. Cụ thể
như: khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn:
giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của VKS. Ngoại trừ việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định của chính mình. (Điều 41); Phân định phạm vi
công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo chương XXXIII của
BLTTHS: Đối với khiếu nại cáo trạng hoặc quyết định truy tố, quyết định áp dụng
81
thủ tục rút gọn không được giải quyết theo chương XXXIII (Điều 469). Tùy thuộc
vào giai đoạn tố tụng đang thực hiện để xem xét trả lời và hướng dẫn người khiếu
nại, nếu vụ án đã xét xử thì VKS hướng dẫn người khiếu nại làm đơn kháng cáo
(bản án chưa có hiệu lực pháp luật) hoặc làm đơn đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm (bản án đã có hiệu lực pháp luật), việc trả lời và hướng dẫn chỉ thực
hiện một lần. Đơn vị thụ lý giải quyết vụ án có trách nhiệm chủ trì phối hợp với
đơn vị Kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tham mưu
tới lãnh đạo VKS giải quyết khiếu nại trên; Vai trò giải quyết đối với khiếu nại việc
bắt, tạm giữ, tạm giam: Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn quy định thẩm quyền giải
quyết của VKS đối với khiếu nại việc bắt, tạm giữ, tạm giam cơ bản giống như Bộ
luật TTHS năm 2003 và bổ sung thêm thẩm quyền của VKS giải quyết khiếu nại
việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã chỉ rõ
việc giải quyết các khiếu nại trên chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố (Điều 474).
Ngoài việc các lệnh, quyết định trong tạm giữ, tạm giam có thể bị khiếu nại thì các
hành vi thực hiện các lệnh, quyết định đó cũng có thể bị khiếu nại; đồng thời pháp
luật cũng quy định cơ quan, người có thẩm quyền trong việc giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án, vụ việc khiếu nại của người bị
giữ, người bị bắt, người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giam
trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được khiếu nại để đảm bảo quyền lợi cho
người khiếu nại và thời hạn giải quyết của VKS tối đa là 3 ngày kể từ ngày nhận
được khiếu nại (Điều 474); Vai trò giải quyết đối với quyết định giải quyết khiếu
nại của cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều
tra: Bộ luật TTHS năm 2003 không quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra được quyền giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi tố
tụng của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Bộ luật
TTHS năm 2015 đã quy định cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành
một số hoạt động điều tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định,
hành vi tố tụng của cấp phó, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến
82
hành một số hoạt động điều tra trừ việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
tạm giữ. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của cấp trưởng thì trong thời
hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại
có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
(Điều 475); Vai trò giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Phó
Viện trưởng và Viện trưởng Viện kiểm sát: Quy định Viện trưởng VKS có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Kiểm sát viên,
Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp. Viện trưởng VKS cấp trên
trực tiếp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với kết quả giải quyết khiếu nại
của VKS cấp dưới và giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của
Viện trưởng VKS cấp dưới. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát
cấp trên trực tiếp là quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong các trường hợp khiếu
nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố do Viện kiểm sát nhân
dân tối cao xem xét, giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân
tối cao là quyết định có hiệu lực pháp luật(Điều 476); Vai trò giải quyết khiếu nại
của VKSND cấp cao: Cùng với việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao,
pháp luật TTHS năm 2015 quy định thẩm quyền giải quyết của VKSND cấp cao
đối với quyết định, hành vi tố tụng; kết quả giải quyết khiếu nại của Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử.
(điểm b khoản 3 Điều 476).
Về tố cáo Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn quy định cơ bản tương tự như Bộ
luật TTHS năm 2003; đồng thời bổ sung thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm
sát về giải quyết tố cáo liên quan đến hành vi giữ người trong trường hợp khẩn cấp
(Điều 481).
Hai là, về vai trò kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các chủ thể
có thẩm quyền khác: Theo Điều 30 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 483
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn ghi nhận nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan điều tra, cơ quan được
83
giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới,
khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện qua những phương
thức cơ bản sau: (1) Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ quan
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; (2) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra
quyết định giải quyết khiếu nại, văn bản giải quyết tố cáo; kiểm tra việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát
nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát. Tuy vậy, có điểm
mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là khi tiến hành hoạt động kiểm sát,
Viện kiểm sát ban hành kết luận kiểm sát; thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị,
yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khắc phục vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo (trước đây Viện kiểm sát vẫn thực hiện các quyền này nhưng căn cứ vào
Luật Tổ chức VKSND). Ngoài ra, vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết khiếu
nại, tố cáo còn thể hiện ở hoạt động thanh tra, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát cấp dưới.
Ngày 26/6/2015 Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định số
410/QĐ-VKSTC-V15 về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc
bộ máy làm việc của VKSND tối cao. Theo đó, công tác kiểm sát và giải quyết
khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp được phân công lại theo hướng chuyên
sâu tập trung chủ yếu vào một đơn vị để nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết
khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế Tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp kèm theo Quyết định số
51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, thay thế các quy định của ngành Kiểm sát trước đây,không còn phù hợp với
tình hình mới. Quy chế 51 là “cẩm nang” quan trọng để các Kiểm sát viên, Kiểm
tra viên, cán bộ trong ngành Kiểm sát được giao nhiệm vụ tham mưu kiểm sát và
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp vận dụng khi thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao, góp phần đảm bảo vai trò của Viện kiểm sát về giải
quyết khiếu nại, tố cáo.
84
3.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải
quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
3.2.1. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát trong việc trực tiếp
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự
3.2.1.1. Thực trạng thực hiện vai trò giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với quyết
định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền thuộc Viện kiểm sát nhân dân và tố cáo
đối với hành vi của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Về nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giải quyết khiếu nại, tố cáo: Khiếu nại, tố
cáo liên quan đến phạm vi trách nhiệm của đơn vị nào thì đơn vị đó phải thụ lý và
nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết; khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi tố tụng,
kết quả giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới do đơn vị
chuyên trách thuộc Viện kiểm sát cấp trên (đơn vị Kiểm sát và giải quyết đơn khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp) tham mưu giải quyết.
Khi tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo thì bộ phận chuyên trách phải kiểm tra
điều kiện thụ lý. Cụ thể đối với khiếu nại phải kiểm tra ngày tháng năm khiếu nại,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát bị khiếu nại; nội dung
khiếu nại, lý do khiếu nại, yêu cầu giải quyết của người khiếu nại; đơn khiếu nại
phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ; khiếu nại phải trong thời hiệu khiếu
nại; người khiếu nại phải có năng lực hành vi dân sự, có quyền và lợi ích hợp pháp
chịu tác động trực tiếp bởi quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, quyết định giải quyết
lần đầu mà mình khiếu nại (người khiếu nại có thể thông qua người bảo chữa,
người bảo vệ quyền và lợi ích hợp hoặc người đại diện thực hiện quyền khiếu nại);
việc khiếu nại chưa có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật. Đối
với tố cáo phải kiểm tra ngày tháng năm tố cáo, họ tên địa chỉ người tố cáo; họ tên
chức danh, chức vụ của người bị tố cáo, hành vi tố tụng bị tố cáo; đơn tố cáo phải
ký tên hoặc điểm chỉ, yêu cầu giải quyết của người tố cáo; tố cáo chưa được giải
quyết hoặc có tình tiết mới làm thay đổi quyết định giải quyết. Sau khi kiểm tra
điều kiện thụ lý thì thì bộ phận chuyên trách báo cáo người có thẩm quyền giải
85
quyết khiếu nại, tố cáo ban hành thông báo thụ lý và phân công cán bộ xác minh,
tham mưu giải quyết.
Cán bộ được phân công xác minh, tham mưu giải quyết khiếu nại yêu cầu
người khiếu nại, tố cáo cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo và
yêu cầu người bị khiếu nại, tố cáo giải trình bằng văn bản, cung cấp hồ sơ, tài liệu
liên quan đến nội dung bị khiếu nại, tố cáo. Trường hợp thấy chưa đủ căn cứ để giải
quyết khiếu nại, tố cáo thì lập kế hoạch trình người có thẩm quyền phê duyệt để
tiến hành xác minh nội dung khiếu nại, tố cáo; trong quá trình thụ lý giải quyết
khiếu nại, tố cáo nếu thấy cần thiết thì người được phân công thụ lý đề xuất với
người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn thiệt hại hoặc kiến nghị áp dụng
biện pháp ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra. Trường hợp kết quả xác minh nội dung
khiếu nại khác với yêu cầu của người khiếu nại thì người giải quyết khiếu nại tổ
chức đối thoại giữa người bị khiếu nại và người khiếu nại, cơ quan, tổ chức cá nhân
có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại. Từ kết quả xác minh, đối thoại người
được phân công xác minh báo cáo, đề xuất, dự thảo quyết định giải quyết trình
người có thẩm quyền ký ban hành.
Về thẩm quyền giải quyết: Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với
quyết định, hành vi tố tụng của Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên
thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát; Phó viện trưởng Viện kiểm sát khi được phân
công thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
cũng có quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, trừ giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành
vi quyết định của mình; khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng của
Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc thẩm quyền giải quyết Viện kiểm sát cấp trên trực
tiếp;tố cáo hành vi tố tụng của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra do Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra có thẩm
quyền xem xét, giải quyết.Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu phát hiện vi phạm
pháp luật nghiêm trọng thì người có thẩm quyền giải quyết ngoài việc ra quyết định
hủy hoặc yêu cầu người có thẩm quyền hủy quyết định tố tụng, đình chỉ thực hiện
hành vi tố tụng trái pháp luật, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với người
86
có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp phòng
ngừa vi phạm; trong quá trình xác minh tố cáo nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì Viện
kiểm sát chuyển thông tin, tài liệu đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết.
3.2.1.2. Thực trạng thực hiện vai trò giải quyết khiếu nại đối với quyết định,
hành vi tố tụng và kết quả giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan điều tra,
Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.
Thực tiễn cho thấy, Thủ trưởng cơ quan điều tra và cấp trưởng cơ quan được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra không trực tiếp thực hiện các hành vi tố
tụng và ban hành các quyết định tố tụng mà thường giao cho cấp phó thực hiện nên
ít phát sinh khiếu nại đến Viện kiểm sát đối với quyết định, hành vi tố tụng Thủ
trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra. Các khiếu nại đến Viện kiểm sát chủ yếu là khiếu nại kết quả
giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra đối với quyết định, hành vi tố tụng của
Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc cơ quan điều
tra, Cấp phó và Cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số
hoạt động điều tra. Khi tiếp nhận loại khiếu nại này, bộ phận chuyên trách thuộc
Viện kiểm sát phải kiểm tra điều kiện thụ lý tương tự như khiếu nại đối với quyết
định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền thuộc Viện kiểm sát, nếu thấy đủ
điều kiện thụ lý thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát ra văn bản thông báo thụ lý
khiếu nại và yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải trình và cung cấp hồ sơ giải
quyết khiếu nại (lần 1); bộ phận kiểm sát điều tra vụ việc bị khiếu nại sẽ phải có
quan điểm đánh giá, thẩm định về việc giải quyết khiếu nại (lần 1) của Thủ trưởng
cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt
động điều tra; trường hợp hồ sơ không đủ tài liệu, chứng cứ để đánh giá thì đề xuất
xác minh làm rõ nội dung khiếu nại.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hồ sơ, tài liệu xác minh (nếu có) người được giao
tham mưu giải quyết khiếu nại đề xuất người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết
87
khiếu nại theo hướng chấp nhận toàn bộ hay chấp nhận một phần hoặc bác đơn khiếu
nại; việc xử lý đối với quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, quyết định giải quyết khiếu
nại bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề khác liên quan đến nội dung bị khiếu nại.
Như vậy, có thể nói Viện kiểm sát có vai trò rất lớn trong về giải quyết khiếu nại,
tố cáo trong tố tụng hình sự - giải quyết cả khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi
tố tụng và quyết định giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự của các người tiến hành
tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền khác (cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra). Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Viện
kiểm sát có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hành vi tố tụng, quyết định tố tụng.
Trong những năm qua, Viện kiểm sát các cấp đã tập trung giải quyết khiếu
nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền theo hướng tăng cường cán
bộ, Kiểm sát viên có nhiều kinh nghiệm, đầu tư cơ sở vật chất. Theo số liệu thống
kê của ngành kiểm sát thì trong 10 năm (từ 2009 - 2018), Viện kiểm sát các cấp đã
giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền như sau:
Bảng 3.1.Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm
(từ 2009 đến 2018)
Năm
Khiếu nại
Số thụ lý (việc) Đã giải quyết (việc) Đạt (%)
2009 854 562 66%
2010 798 487 61%
2011 958 617 64%
2012 570 561 98%
2013 596 582 98%
2014 970 955 98%
2015 855 881 99%
2016 1191 1190 99%
2017 1516 1212 79,9%
2018 1672 1592 95,2%
Tổng số 9980 8639 86,5%
Nguồn: Báo cáo thống kê kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015,
2016, 2017, 2018
88
Bảng 3.2.Thống kê số liệu giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự thuộc thẩm
quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm
(từ 2009 đến 2018)
Năm
Tố cáo
Số thụ lý (việc) Đã giải quyết (việc) Đạt (%)
2009 39 30 77%
2010 36 23 64%
2011 39 28 72%
2012 76 72 95%
2013 39 35 90%
2014 52 48 92%
2015 33 30 91%
2016 43 41 95%
2017 125 113 90,4%
2018 102 92 90,1%
Tổng số 584 512 87,6%
Nguồn: Báo cáo thống kê kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015,
2016, 2017,2018
854 798
958
570 596
970 855
1191
1516
1672
562 487
617 561 582 955
881
1190
1212
1592
66%
61%
64%
98% 98% 98% 99% 99%
79.90%
95.20%
0%
20%
40%
60%
80%
100%
120%
0
200
400
600
800
1000
1200
1400
1600
1800
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
%
S
ố
v
iệ
c
Năm
Biểu đồ 3.1. Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại trong tố
tụng hình sự - Viện kiểm sát nhân dân (2009-2018)
Thụ lý khiếu nại (việc) Giải quyết khiếu nại (việc)
89
Theo số liệu thống kê nêu trên và liên hệ với thực tế, nhận thấy, trong 10
năm qua, số thụ lý các vụ việc về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện
kiểm sát rất lớn, bình quân mỗi năm thụ lý gần 1000 việc về khiếu nại, trên 50 việc
về tố cáo. Thực tế cho thấy, trước khi có Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002 và trong những năm đầu khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực,
Viện kiểm sát mới thay đổi chức năng, việc phân loại giữa khiếu nại, tố cáo trong
hoạt động hành chính và hoạt động tư pháp chưa hoàn toàn rõ ràng, do đó số liệu
vẫn còn lẫn lộn, chưa chính xác, các tiêu chí thống kê trong hệ thống biểu mẫu
cũng có sự thay đổi bắt đầu từ năm 2010 mới đi vào ổn định, nên số liệu được thu
thập, tổng hợp và thống kê khá chính xác.
Tuy số lượng thụ lý lớn như vậy, nhưng tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo
trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát đạt khá cao, khoảng 86,5% đối với khiếu
nại và 87,6% đối với tố cáo. Số thụ lý đối với tố cáo thấp hơn nhiều so với khiếu
nại, nhưng tỷ lệ giải quyết cao hơn; nguyên nhân là do hầu hết việc tố cáo đều
không có căn cứ nên Viện kiểm sát không cần nhiều thời gian để tiến hành xác
minh, kết luận và ra quyết định xử lý đúng pháp luật. Còn đối với khiếu nại thì số
lượng nhiều là do chủ yếu tập trung ở số đơn khiếu nại về hoạt động điều tra, truy
39 36 39
76
39
52
33
43
125
102
30
23
28
72
35
48
30
41
113
92
77%
64%
72%
95%
90% 92% 91%
95% 90.40%
90.10%
0%
10%
20%
30%
40%
50%
60%
70%
80%
90%
100%
0
20
40
60
80
100
120
140
2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018
%
S
ố
v
iệ
c
Năm
Biểu đồ 3.2. Thống kê số liệu giải quyết tố cáo trong tố tụng
hình sự -Viện kiểm sát nhân dân (2009-2018)
Thụ lý tố cáo (việc) Đã giải quyết tổ cáo (việc)
90
tố oan, sai, khiếu nại liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam và yêu cầu đòi bồi
thường theo Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Quốc hội khoá XI
(nay là Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước) là loại đơn rất phức tạp, nhạy
cảm, việc giải quyết liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, trong khi pháp luật quy
định chưa rõ ràng và người khiếu nại rất bức xúc, nên việc giải quyết kéo dài, tỷ lệ
giải quyết chưa cao.
Thực hiện kế hoạch của liên ngành tư pháp Trung ương về tổng rà soát các
đơn khiếu kiện về tư pháp, công tác tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận
và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp nói chung và trong lĩnh vực tố tụng
hình sự nói riêng ở ngành kiểm sát đã có sự chuyển biến khá rõ nét. Việc tiếp nhận
đơn khiếu nại, tố cáo được quản lý chặt chẽ hơn. Việc tiếp công dân đến khiếu nại,
tố cáo cũng chu đáo hơn. Trong những năm qua, mặc dù trong điều kiện làm việc
còn khó khăn, nhưng Viện kiểm sát các cấp đã quan tâm đến việc bố trí phòng tiếp
công dân và đầu tư, trang bị phương tiện cần thiết cho việc tổ chức tiếp công dân
được thuận lợi. Viện kiểm sát các cấp đã chú trọng tập trung nâng cao chất lượng
và tiến độ giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo, nhất là các khiếu nại, tố cáo
bức xúc, kéo dài.
Qua thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2009 - 2018 cho
thấy
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_vai_tro_cua_vien_kiem_sat_nhan_dan_ve_giai_quyet_khi.pdf