Luận án Vai trò của viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC

VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN . 8

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. 8

1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án. 19

1.3. Cơ sở lý luận và giả thuyết nghiên cứu; hướng tiếp cận của luận án . 23

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN

KIỂM SÁT NHÂN DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO

TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM . 27

2.1. Khái quát về khiếu nại, tố cáo; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm

sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 27

2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 42

2.3. Những yếu tố tác động đến vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 59

2.4. Những tiêu chí cơ bản đánh giá vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 66

Chương 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN

DÂN VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI, TỐ CÁO TRONG TỐ TỤNG

HÌNH SỰ VIỆT NAM . 71

3.1. Thực trạng pháp luật ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về

giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 71

3.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết

khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. 84

3.3. Đánh giá vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại,

tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay. 100

pdf178 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Vai trò của viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiến hành tố tụng của cơ quan điều tra (Điều 337) - Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: Theo quy định tại Điều 4 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 thì “Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết kịp thời các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố 79 cáo về các hoạt động tư pháp theo quy định của pháp luật”. Trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện kiểm sát với tư cách là một trong số các cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong toàn bộ quá trình tố tụng hình sự. Trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự, Viện kiểm sát là một trong những cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo; đồng thời Viện kiểm sát còn được giao trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Vai trò của Viện kiểm sát về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự không những được thể hiện ở việc trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền mà còn thể hiện ở chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của các chủ thể có thẩm quyền khác; nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng kiểm sát được quy định tại Điều 339 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, đó là: + Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự: (1) Ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự; (2) Kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình, cấp dưới, thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát; (3) Cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Viện kiểm sát. + Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 chưa quy định khi kết thúc hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát ban hành văn bản kết luận, kiến nghị, kháng nghị. Do vậy, Viện kiểm sát căn cứ vào Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị khi phát hiện ra vi phạm trong hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các chủ thể có thẩm quyền khác. Khắc phục thiếu sót nêu trên của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Thông tư liên tịch số 02/2005/TTLT đã ghi nhận khi kết thúc việc kiểm sát, nếu phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan được kiểm sát, thì tùy từng mức độ vi phạm, Viện kiểm 80 sát ban hành kháng nghị, kiến nghị để yêu cầu cơ quan được kiểm sát khắc phục vi phạm pháp luật. Đồng thời, nếu xét thấy cần thiết, Viện kiểm sát có văn bản kiến nghị cơ quan cấp trên trực tiếp của cơ quan được kiểm sát thực hiện biện pháp quản lý liên quan. Viện kiểm sát đã ban hành kháng nghị, kiến nghị có trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện kháng nghị, kiến nghị của cơ quan được kiểm sát. Thể chế hóa những quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp và cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân năm 2014 đã được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 24/11/2014; Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015 có hiệu lực từ ngày 01/7/2016 nhưng vì Bộ luật Hình sự năm 2015 có một số sai sót về kỹ thuật và nội dung nên ngày 29/6/2016 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 về việc lùi thời hạn thi hành Bộ luật Hình sự năm 2015 và các Luật, Bộ luật có liên quan trong đó có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Theo đó, vai trò giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp được quy định chung trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014; Điều 29, Điều 30 Luật Tổ chức VKSND quy định thẩm quyền chung của VKSND về kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp, trong đó có thẩm quyền giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự. Bộ luật Tố tụng hình sự (TTHS) năm 2015 ghi nhận vai trò của Viện kiểm sát về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự có một số điểm mới so với Bộ luật TTHS năm 2003 như sau: Một là, về vai trò giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền: Về khiếu nại đã bổ sung thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo cho Phó Viện trưởng VKS. Cụ thể như: khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn: giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của VKS. Ngoại trừ việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định của chính mình. (Điều 41); Phân định phạm vi công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự theo chương XXXIII của BLTTHS: Đối với khiếu nại cáo trạng hoặc quyết định truy tố, quyết định áp dụng 81 thủ tục rút gọn không được giải quyết theo chương XXXIII (Điều 469). Tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng đang thực hiện để xem xét trả lời và hướng dẫn người khiếu nại, nếu vụ án đã xét xử thì VKS hướng dẫn người khiếu nại làm đơn kháng cáo (bản án chưa có hiệu lực pháp luật) hoặc làm đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm (bản án đã có hiệu lực pháp luật), việc trả lời và hướng dẫn chỉ thực hiện một lần. Đơn vị thụ lý giải quyết vụ án có trách nhiệm chủ trì phối hợp với đơn vị Kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp tham mưu tới lãnh đạo VKS giải quyết khiếu nại trên; Vai trò giải quyết đối với khiếu nại việc bắt, tạm giữ, tạm giam: Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn quy định thẩm quyền giải quyết của VKS đối với khiếu nại việc bắt, tạm giữ, tạm giam cơ bản giống như Bộ luật TTHS năm 2003 và bổ sung thêm thẩm quyền của VKS giải quyết khiếu nại việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 đã chỉ rõ việc giải quyết các khiếu nại trên chỉ trong giai đoạn điều tra, truy tố (Điều 474). Ngoài việc các lệnh, quyết định trong tạm giữ, tạm giam có thể bị khiếu nại thì các hành vi thực hiện các lệnh, quyết định đó cũng có thể bị khiếu nại; đồng thời pháp luật cũng quy định cơ quan, người có thẩm quyền trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam phải chuyển ngay cho Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án, vụ việc khiếu nại của người bị giữ, người bị bắt, người bị tạm giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị tạm giam trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận được khiếu nại để đảm bảo quyền lợi cho người khiếu nại và thời hạn giải quyết của VKS tối đa là 3 ngày kể từ ngày nhận được khiếu nại (Điều 474); Vai trò giải quyết đối với quyết định giải quyết khiếu nại của cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra: Bộ luật TTHS năm 2003 không quy định cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra được quyền giải quyết khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Bộ luật TTHS năm 2015 đã quy định cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của cấp phó, cán bộ điều tra của cơ quan được giao nhiệm vụ tiến 82 hành một số hoạt động điều tra trừ việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ. Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết của cấp trưởng thì trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại, người khiếu nại có quyền khiếu nại đến Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra (Điều 475); Vai trò giải quyết khiếu nại đối với Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng và Viện trưởng Viện kiểm sát: Quy định Viện trưởng VKS có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp. Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với kết quả giải quyết khiếu nại của VKS cấp dưới và giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng VKS cấp dưới. Quyết định giải quyết của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là quyết định có hiệu lực pháp luật. Trong các trường hợp khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, truy tố do Viện kiểm sát nhân dân tối cao xem xét, giải quyết. Quyết định giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là quyết định có hiệu lực pháp luật(Điều 476); Vai trò giải quyết khiếu nại của VKSND cấp cao: Cùng với việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, pháp luật TTHS năm 2015 quy định thẩm quyền giải quyết của VKSND cấp cao đối với quyết định, hành vi tố tụng; kết quả giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh trong thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử. (điểm b khoản 3 Điều 476). Về tố cáo Bộ luật TTHS năm 2015 vẫn quy định cơ bản tương tự như Bộ luật TTHS năm 2003; đồng thời bổ sung thẩm quyền của Viện trưởng Viện kiểm sát về giải quyết tố cáo liên quan đến hành vi giữ người trong trường hợp khẩn cấp (Điều 481). Hai là, về vai trò kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của các chủ thể có thẩm quyền khác: Theo Điều 30 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 và Điều 483 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 vẫn ghi nhận nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan điều tra, cơ quan được 83 giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án cùng cấp và cấp dưới, khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo được thực hiện qua những phương thức cơ bản sau: (1) Trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật; (2) Yêu cầu cơ quan có thẩm quyền ra quyết định giải quyết khiếu nại, văn bản giải quyết tố cáo; kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cấp mình và cấp dưới, thông báo kết quả cho Viện kiểm sát nhân dân; cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan cho Viện kiểm sát. Tuy vậy, có điểm mới so với Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là khi tiến hành hoạt động kiểm sát, Viện kiểm sát ban hành kết luận kiểm sát; thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị, yêu cầu cơ quan có thẩm quyền khắc phục vi phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (trước đây Viện kiểm sát vẫn thực hiện các quyền này nhưng căn cứ vào Luật Tổ chức VKSND). Ngoài ra, vai trò của Viện kiểm sát trong giải quyết khiếu nại, tố cáo còn thể hiện ở hoạt động thanh tra, kiểm tra việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát cấp dưới. Ngày 26/6/2015 Viện trưởng VKSND tối cao ban hành Quyết định số 410/QĐ-VKSTC-V15 về việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị thuộc bộ máy làm việc của VKSND tối cao. Theo đó, công tác kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp được phân công lại theo hướng chuyên sâu tập trung chủ yếu vào một đơn vị để nâng cao hiệu quả hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành Quy chế Tiếp công dân, giải quyết và kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp kèm theo Quyết định số 51/QĐ-VKSTC-V12 ngày 02/02/2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thay thế các quy định của ngành Kiểm sát trước đây,không còn phù hợp với tình hình mới. Quy chế 51 là “cẩm nang” quan trọng để các Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, cán bộ trong ngành Kiểm sát được giao nhiệm vụ tham mưu kiểm sát và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp vận dụng khi thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần đảm bảo vai trò của Viện kiểm sát về giải quyết khiếu nại, tố cáo. 84 3.2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 3.2.1. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát trong việc trực tiếp giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự 3.2.1.1. Thực trạng thực hiện vai trò giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền thuộc Viện kiểm sát nhân dân và tố cáo đối với hành vi của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Về nhiệm vụ tham mưu, đề xuất giải quyết khiếu nại, tố cáo: Khiếu nại, tố cáo liên quan đến phạm vi trách nhiệm của đơn vị nào thì đơn vị đó phải thụ lý và nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết; khiếu nại, tố cáo quyết định, hành vi tố tụng, kết quả giải quyết khiếu nại của Viện trưởng Viện kiểm sát cấp dưới do đơn vị chuyên trách thuộc Viện kiểm sát cấp trên (đơn vị Kiểm sát và giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp) tham mưu giải quyết. Khi tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo thì bộ phận chuyên trách phải kiểm tra điều kiện thụ lý. Cụ thể đối với khiếu nại phải kiểm tra ngày tháng năm khiếu nại, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thuộc Viện kiểm sát bị khiếu nại; nội dung khiếu nại, lý do khiếu nại, yêu cầu giải quyết của người khiếu nại; đơn khiếu nại phải do người khiếu nại ký tên hoặc điểm chỉ; khiếu nại phải trong thời hiệu khiếu nại; người khiếu nại phải có năng lực hành vi dân sự, có quyền và lợi ích hợp pháp chịu tác động trực tiếp bởi quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, quyết định giải quyết lần đầu mà mình khiếu nại (người khiếu nại có thể thông qua người bảo chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp hoặc người đại diện thực hiện quyền khiếu nại); việc khiếu nại chưa có quyết định giải quyết khiếu nại có hiệu lực pháp luật. Đối với tố cáo phải kiểm tra ngày tháng năm tố cáo, họ tên địa chỉ người tố cáo; họ tên chức danh, chức vụ của người bị tố cáo, hành vi tố tụng bị tố cáo; đơn tố cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ, yêu cầu giải quyết của người tố cáo; tố cáo chưa được giải quyết hoặc có tình tiết mới làm thay đổi quyết định giải quyết. Sau khi kiểm tra điều kiện thụ lý thì thì bộ phận chuyên trách báo cáo người có thẩm quyền giải 85 quyết khiếu nại, tố cáo ban hành thông báo thụ lý và phân công cán bộ xác minh, tham mưu giải quyết. Cán bộ được phân công xác minh, tham mưu giải quyết khiếu nại yêu cầu người khiếu nại, tố cáo cung cấp tài liệu liên quan đến nội dung khiếu nại, tố cáo và yêu cầu người bị khiếu nại, tố cáo giải trình bằng văn bản, cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến nội dung bị khiếu nại, tố cáo. Trường hợp thấy chưa đủ căn cứ để giải quyết khiếu nại, tố cáo thì lập kế hoạch trình người có thẩm quyền phê duyệt để tiến hành xác minh nội dung khiếu nại, tố cáo; trong quá trình thụ lý giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu thấy cần thiết thì người được phân công thụ lý đề xuất với người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn thiệt hại hoặc kiến nghị áp dụng biện pháp ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra. Trường hợp kết quả xác minh nội dung khiếu nại khác với yêu cầu của người khiếu nại thì người giải quyết khiếu nại tổ chức đối thoại giữa người bị khiếu nại và người khiếu nại, cơ quan, tổ chức cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại. Từ kết quả xác minh, đối thoại người được phân công xác minh báo cáo, đề xuất, dự thảo quyết định giải quyết trình người có thẩm quyền ký ban hành. Về thẩm quyền giải quyết: Thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng của Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên thuộc Viện trưởng Viện kiểm sát; Phó viện trưởng Viện kiểm sát khi được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự cũng có quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, trừ giải quyết khiếu nại, tố cáo về hành vi quyết định của mình; khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng của Viện trưởng Viện kiểm sát thuộc thẩm quyền giải quyết Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp;tố cáo hành vi tố tụng của người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra do Viện kiểm sát thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra có thẩm quyền xem xét, giải quyết.Qua giải quyết khiếu nại, tố cáo nếu phát hiện vi phạm pháp luật nghiêm trọng thì người có thẩm quyền giải quyết ngoài việc ra quyết định hủy hoặc yêu cầu người có thẩm quyền hủy quyết định tố tụng, đình chỉ thực hiện hành vi tố tụng trái pháp luật, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý đối với người 86 có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật và thực hiện các biện pháp phòng ngừa vi phạm; trong quá trình xác minh tố cáo nếu thấy có dấu hiệu tội phạm thì Viện kiểm sát chuyển thông tin, tài liệu đến cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết. 3.2.1.2. Thực trạng thực hiện vai trò giải quyết khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng và kết quả giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Thực tiễn cho thấy, Thủ trưởng cơ quan điều tra và cấp trưởng cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra không trực tiếp thực hiện các hành vi tố tụng và ban hành các quyết định tố tụng mà thường giao cho cấp phó thực hiện nên ít phát sinh khiếu nại đến Viện kiểm sát đối với quyết định, hành vi tố tụng Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Các khiếu nại đến Viện kiểm sát chủ yếu là khiếu nại kết quả giải quyết khiếu nại của Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra đối với quyết định, hành vi tố tụng của Phó Thủ trưởng cơ quan điều tra, Điều tra viên, Cán bộ điều tra thuộc cơ quan điều tra, Cấp phó và Cán bộ điều tra thuộc cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Khi tiếp nhận loại khiếu nại này, bộ phận chuyên trách thuộc Viện kiểm sát phải kiểm tra điều kiện thụ lý tương tự như khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng của người có thẩm quyền thuộc Viện kiểm sát, nếu thấy đủ điều kiện thụ lý thì báo cáo lãnh đạo Viện kiểm sát ra văn bản thông báo thụ lý khiếu nại và yêu cầu Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra giải trình và cung cấp hồ sơ giải quyết khiếu nại (lần 1); bộ phận kiểm sát điều tra vụ việc bị khiếu nại sẽ phải có quan điểm đánh giá, thẩm định về việc giải quyết khiếu nại (lần 1) của Thủ trưởng cơ quan điều tra, Cấp trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; trường hợp hồ sơ không đủ tài liệu, chứng cứ để đánh giá thì đề xuất xác minh làm rõ nội dung khiếu nại. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu hồ sơ, tài liệu xác minh (nếu có) người được giao tham mưu giải quyết khiếu nại đề xuất người có thẩm quyền ra quyết định giải quyết 87 khiếu nại theo hướng chấp nhận toàn bộ hay chấp nhận một phần hoặc bác đơn khiếu nại; việc xử lý đối với quyết định tố tụng, hành vi tố tụng, quyết định giải quyết khiếu nại bị khiếu nại; giải quyết các vấn đề khác liên quan đến nội dung bị khiếu nại. Như vậy, có thể nói Viện kiểm sát có vai trò rất lớn trong về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự - giải quyết cả khiếu nại, tố cáo đối với quyết định, hành vi tố tụng và quyết định giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự của các người tiến hành tố tụng thuộc cơ quan có thẩm quyền khác (cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra). Kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của Viện kiểm sát có thể làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt hành vi tố tụng, quyết định tố tụng. Trong những năm qua, Viện kiểm sát các cấp đã tập trung giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền theo hướng tăng cường cán bộ, Kiểm sát viên có nhiều kinh nghiệm, đầu tư cơ sở vật chất. Theo số liệu thống kê của ngành kiểm sát thì trong 10 năm (từ 2009 - 2018), Viện kiểm sát các cấp đã giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền như sau: Bảng 3.1.Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm (từ 2009 đến 2018) Năm Khiếu nại Số thụ lý (việc) Đã giải quyết (việc) Đạt (%) 2009 854 562 66% 2010 798 487 61% 2011 958 617 64% 2012 570 561 98% 2013 596 582 98% 2014 970 955 98% 2015 855 881 99% 2016 1191 1190 99% 2017 1516 1212 79,9% 2018 1672 1592 95,2% Tổng số 9980 8639 86,5% Nguồn: Báo cáo thống kê kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018 88 Bảng 3.2.Thống kê số liệu giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Viện kiểm sát nhân dân trong 10 năm (từ 2009 đến 2018) Năm Tố cáo Số thụ lý (việc) Đã giải quyết (việc) Đạt (%) 2009 39 30 77% 2010 36 23 64% 2011 39 28 72% 2012 76 72 95% 2013 39 35 90% 2014 52 48 92% 2015 33 30 91% 2016 43 41 95% 2017 125 113 90,4% 2018 102 92 90,1% Tổng số 584 512 87,6% Nguồn: Báo cáo thống kê kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát nhân dân các năm 2009, 2010, 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017,2018 854 798 958 570 596 970 855 1191 1516 1672 562 487 617 561 582 955 881 1190 1212 1592 66% 61% 64% 98% 98% 98% 99% 99% 79.90% 95.20% 0% 20% 40% 60% 80% 100% 120% 0 200 400 600 800 1000 1200 1400 1600 1800 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 % S ố v iệ c Năm Biểu đồ 3.1. Thống kê số liệu giải quyết khiếu nại trong tố tụng hình sự - Viện kiểm sát nhân dân (2009-2018) Thụ lý khiếu nại (việc) Giải quyết khiếu nại (việc) 89 Theo số liệu thống kê nêu trên và liên hệ với thực tế, nhận thấy, trong 10 năm qua, số thụ lý các vụ việc về khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát rất lớn, bình quân mỗi năm thụ lý gần 1000 việc về khiếu nại, trên 50 việc về tố cáo. Thực tế cho thấy, trước khi có Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 và trong những năm đầu khi Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực, Viện kiểm sát mới thay đổi chức năng, việc phân loại giữa khiếu nại, tố cáo trong hoạt động hành chính và hoạt động tư pháp chưa hoàn toàn rõ ràng, do đó số liệu vẫn còn lẫn lộn, chưa chính xác, các tiêu chí thống kê trong hệ thống biểu mẫu cũng có sự thay đổi bắt đầu từ năm 2010 mới đi vào ổn định, nên số liệu được thu thập, tổng hợp và thống kê khá chính xác. Tuy số lượng thụ lý lớn như vậy, nhưng tỷ lệ giải quyết khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát đạt khá cao, khoảng 86,5% đối với khiếu nại và 87,6% đối với tố cáo. Số thụ lý đối với tố cáo thấp hơn nhiều so với khiếu nại, nhưng tỷ lệ giải quyết cao hơn; nguyên nhân là do hầu hết việc tố cáo đều không có căn cứ nên Viện kiểm sát không cần nhiều thời gian để tiến hành xác minh, kết luận và ra quyết định xử lý đúng pháp luật. Còn đối với khiếu nại thì số lượng nhiều là do chủ yếu tập trung ở số đơn khiếu nại về hoạt động điều tra, truy 39 36 39 76 39 52 33 43 125 102 30 23 28 72 35 48 30 41 113 92 77% 64% 72% 95% 90% 92% 91% 95% 90.40% 90.10% 0% 10% 20% 30% 40% 50% 60% 70% 80% 90% 100% 0 20 40 60 80 100 120 140 2009 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 % S ố v iệ c Năm Biểu đồ 3.2. Thống kê số liệu giải quyết tố cáo trong tố tụng hình sự -Viện kiểm sát nhân dân (2009-2018) Thụ lý tố cáo (việc) Đã giải quyết tổ cáo (việc) 90 tố oan, sai, khiếu nại liên quan đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam và yêu cầu đòi bồi thường theo Nghị quyết 388/NQ-UBTVQH11 ngày 17/3/2003 của Quốc hội khoá XI (nay là Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước) là loại đơn rất phức tạp, nhạy cảm, việc giải quyết liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp, trong khi pháp luật quy định chưa rõ ràng và người khiếu nại rất bức xúc, nên việc giải quyết kéo dài, tỷ lệ giải quyết chưa cao. Thực hiện kế hoạch của liên ngành tư pháp Trung ương về tổng rà soát các đơn khiếu kiện về tư pháp, công tác tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo, tiếp nhận và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về tư pháp nói chung và trong lĩnh vực tố tụng hình sự nói riêng ở ngành kiểm sát đã có sự chuyển biến khá rõ nét. Việc tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo được quản lý chặt chẽ hơn. Việc tiếp công dân đến khiếu nại, tố cáo cũng chu đáo hơn. Trong những năm qua, mặc dù trong điều kiện làm việc còn khó khăn, nhưng Viện kiểm sát các cấp đã quan tâm đến việc bố trí phòng tiếp công dân và đầu tư, trang bị phương tiện cần thiết cho việc tổ chức tiếp công dân được thuận lợi. Viện kiểm sát các cấp đã chú trọng tập trung nâng cao chất lượng và tiến độ giải quyết dứt điểm các khiếu nại, tố cáo, nhất là các khiếu nại, tố cáo bức xúc, kéo dài. Qua thực tiễn công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo từ năm 2009 - 2018 cho thấy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_vai_tro_cua_vien_kiem_sat_nhan_dan_ve_giai_quyet_khi.pdf
Tài liệu liên quan