MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 5
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 11
1.1. Các tài liệu, công trình nghiên cứu ở nước ngoài 11
1.2. Các tài liệu, công trình nghiên cứu ở trong nước 15
Chương 2: LÝ LUẬN VỀ VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 27
2.1. Khái niệm và cấu trúc văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 27
2.2. Cách tiếp cận văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 44
2.3. Cơ sở hình thành, phát triển văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 56
Chương 3: GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN
CỦA VĂN HÓA CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH 79
3.1. Giá trị của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 79
3.2. Những đặc trưng cơ bản của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 108
Chương 4: Ý NGHĨA VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG VĂN HÓA
CHÍNH TRỊ HỒ CHÍ MINH CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 122
4.1. Ý nghĩa của văn hóa chính trị Hồ Chí Minh 122
4.2. Định hướng xây dựng văn hóa chính trị Hồ Chí Minh cho
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở Việt Nam hiện nay 148
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
179 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 624 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Văn hoá chính trị Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
âm kinh tế, chính trị của châu Âu và thế
giới. Tại những trung tâm lớn như Pari, NewYork, London, Người không bị
cám dỗ bởi danh lợi cá nhân mà đã tự đặt mình vào địa vị của các giai cấp,
tầng lớp cần được giải phóng, không chỉ để thấu hiểu bản chất của các chế
độ chính trị mà ở đó người lao động đang là đối tượng bị bóc lột mà chính là
để chia sẻ kinh nghiệm đấu tranh của một giai cấp tiên tiến đang kiên quyết
đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Không chỉ tiếp thu tri thức chính trị thông qua hoạt động thực tiễn, Hồ Chí
Minh còn dành nhiều thời gian để học ngoại ngữ và đến các thư viện, bảo tàng để
đọc các tác phẩm lý luận, văn học, nghệ thuật của các nhà tư tưởng, nhà chính trị,
nhà văn hóa lớn của châu Âu và thế giới. Với khả năng ngoại ngữ xuất sắc, Người
đã thông thạo lịch sử châu Âu, châu Mỹ, hiểu rõ diễn biến, kết quả của các cuộc
cách mạng lớn ở phương Tây, như cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng Pháp năm
1789. Từ thực tiễn sinh động và nhiều tri thức đã thu nhận được thông qua tư duy
độc lập, tự chủ, sáng tạo, luôn bám sát mục đích, Hồ Chí Minh đã rút ra những kết
luận chính trị quan trọng, trở thành vốn tri thức chính trị phong phú, sâu rộng.
Ngay sau khi đặt chân lên nước Pháp, Người đã có kết luận, “Người Pháp ở
Pháp tốt, lễ phép hơn người Pháp ở Đông Dương”[99, tr.17]. Đây là kết luận quan
trọng đầu tiên của Hồ Chí Minh trong nhận diện bạn, thù, xác định đồng minh của
cách mạng và là cơ sở của kết luận, “dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có
hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một
mối tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản”[54, tr.287]. Sau khi nghiên cứu,
khảo sát thực tế chế độ chính trị và mô hình nhà nước tư sản, đặc biệt sau khi tiếp
xúc với Luận cương của Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa cộng
84
sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi ngườisự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn
kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc”[54, tr.496]. Với các cuộc cách mạng tư sản điển hình, Hồ Chí
Minh đã kết luận: “Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh
tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mạng đã 4 lần rồi, mà nay
công nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng
áp bức”[55, tr.296]. Nhận thức rõ điều đó, Người đã nhắc nhở, “Chúng ta đã hy
sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì
quyền trao cho dân chúng số nhiềuThế mới khỏi phải hy sinh nhiều lần, thế dân
chúng mới được hạnh phúc”[55, tr.292].
Chứng kiến nỗi thống khổ của nhân dân lao động ở thuộc địa và của giai cấp
công nhân ở chính quốc, Người đã kết luận: “Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào giai
cấp vô sản ở các thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời cắt cả
hai vòi”[55, tr.130]. Và, để cùng nhau chống kẻ thù chung, Người kêu gọi nhân dân
lao động ở tất cả các nước đoàn kết lại.
Tham gia hoạt động trong phong trào công nhân, trong Đảng Xã hội và Đảng
Cộng sản Pháp đã giúp Hồ Chí Minh nhận rõ vai trò quan trọng của Đảng đối với
sự thành bại của cách mạng. Người chỉ rõ, “Cách mệnhTrước hết phải có đảng
cách mệnhĐảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có
vững thuyền mới chạy”[55, tr.289]. Với tri thức chính trị của mình, Hồ Chí Minh đã
tiến hành chuẩn bị các điều kiện cần và đủ để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi.
Đặc biệt, kinh nghiệm tiếp thu tri thức chính trị đã được Người vận dụng trong quá
trình chuẩn bị thành lập Đảng. Thông qua các lớp bồi dưỡng chính trị và tổ chức
phong trào vô sản hóa, Người đã biến các thanh niên tiểu tư sản, tư sản yêu nước
của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên thành những hạt nhân cốt cán của Đảng và
đào tạo được một thế hệ cán bộ thực sự tiêu biểu về phẩm chất, năng lực, kiên
cường, bất khuất, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cách mạngViệt Nam.
85
Cùng với việc tìm kiếm tri thức để tiến hành lật đổ chế độ thực dân, phong
kiến, Hồ Chí Minh còn tìm hiểu rất kỹ về mô hình, cách thức và nguyên tắc
pháp lý của một nhà nước dân chủ. Tiếp thu mô hình nhà nước Xô Viết của
cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng,
Người chủ trương xây dựng nhà nước công nông binh. Mặc dù vậy, khi về
nước, căn cứ vào tình hình cụ thể của Việt Nam, Người đã điều chỉnh và đề
nghị, “không nên nói công nông liên hợp và lập chính quyền Xô viết, mà phải
nói toàn thể nhân dân liên hiệp và lập chính phủ dân chủ cộng hòa”[15, tr.127].
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, để bảo đảm cho tính chính đáng của
Chính phủ lâm thời sau khi lật đổ chính quyền thực dân, phong kiến, Hồ Chí Minh
đã triệu tập Đại hội Quốc dân Tân trào, với sự tham dự của các đại biểu đại diện cho
ba miền Bắc, Trung, Nam, kiều bào ta ở nước ngoài và đại biểu của các đảng phái
chính trị, các đoàn thể nhân dân, các dân tộc, tôn giáo. Kiên định mục tiêu ĐLDT
gắn liền với CNXH, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù đất
nước còn tạm thời chia cắt, Hồ Chí Minh cùng với Đảng vẫn quyết tâm đưa miền
Bắc quá độ lên CNXH. Bởi theo Người, sự thay đổi của công cụ lao động và cách
sản xuất kéo theo sự thay đổi của chế độ xã hội. Do đó, tiến lên CNXH là tất yếu
khách quan, “Sự phát triển và tiến bộ đó không ai ngăn cản được”[64, tr.601].
Giá trị của tri thức chính trị Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở việc Người đã lựa
chọn và tiếp thu hệ tư tưởng cách mạng nhất của thời đại để truyền bá về Việt Nam.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Người đã tiếp xúc với nhiều hệ tư tưởng, cả ở
phương Đông và phương Tây, cả truyền thống và hiện đại, cả của dân tộc và nhân
loại, nhưng xuyên qua tất cả, Người lựa chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng
tư tưởng chính trị của mình và sau đó là của cả dân tộc Việt Nam. Người đã khẳng
định: “Chủ nghĩa Mác - Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân
dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ
nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi
tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”[65, tr.563]. Với quan điểm đó, Hồ Chí
86
Minh luôn quán triệt sâu sắc, tiếp thu, vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể nước ta, mang lại thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam,
mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của dân tộc, kỷ nguyên ĐLDT
gắn liền với CNXH. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là thành công của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh tiếp thu hệ tư tưởng chính trị Mác - Lênin nhưng không dập
khuôn máy móc, mà luôn có sự phát triển sáng tạo, cùng với sự tích hợp và vượt
gộp mọi tinh hoa tư tưởng chính trị của nhân loại. Do đó, trong tư tưởng chính trị
Hồ Chí Minh, giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo và là động lực chủ yếu của
cách mạng; mục tiêu chính trị là GPDT, giải phóng giai cấp và giải phóng con
người. Tuy nhiên, trong tư tưởng chính trị Hồ Chí Minh có lòng từ bi của Phật, lòng
bác ái của Chúa, tư tưởng đức trị của Khổng tử, tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử,
tư tưởng tiêu giao, thanh bạch của Lão Tử, tư tưởng Tam dân của Tôn Trung Sơn
và tư tưởng đề cao cá nhân con người của chủ nghĩa nhân văn phương Tây.
Hồ Chí Minh thừa nhận đấu tranh giai cấp nhưng không coi đó là động
lực chính của sự phát triển xã hội. Người chủ trương xây dựng Nhà nước Dân
chủ Nhân dân và từng bước quá độ lên CNXH, bỏ qua chế độ chính trị tư bản
chủ nghĩa nhưng tiếp thu những thành quả mà loài người đã đạt được dưới
CNTB. Người chủ trương xây dựng chế độ kinh tế với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, bảo đảm các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
và tính chất của lực lượng sản xuất trong điều kiện thực tế của Việt Nam.
Hệ tư tưởng chính trị mà Hồ Chí Minh tiếp thu không chỉ là yếu tố bảo đảm
cho tính đúng đắn, cách mạng, khoa học trong các quyết sách chính trị, ứng xử
chính trị và đường lối chính trị, mà còn là ngọn cờ tư tưởng để đoàn kết, tập hợp
mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, tầng lớp, tín ngưỡng, tôn
giáo thành một khối thống nhất trong Mặt trận dân tộc thống nhất để thực hiện mục
tiêu chính trị phù hợp với nguyện vọng của quảng đại quần chúng nhân dân và xu
thế thời đại. Như vậy, tri thức chính trị là một trong những điều kiện cần và đủ để
các cá nhân tham gia vào đời sống chính trị. Với Hồ Chí Minh, tri thức chính trị vừa
87
là một bộ phận cấu thành, vừa là yếu tố có vai trò to lớn làm nên tính cách mạng,
khoa học, giá trị và sức sống cho VHCT của Người.
3.1.1.2. Niềm tin chính trị của Hồ Chí Minh
Niềm tin là sản phẩm của nhận thức, là trạng thái tâm lý thừa nhận một kết
quả tất yếu nào đó trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng, là cơ
sở của thái độ, động cơ và hành động thực tiễn. Nền tảng và mức độ của niềm tin về
một kết quả nhất định sẽ xảy ra hay không thể xảy ra trong hiện thực, là mức độ
nhận thức về sự vật đó. Nếu niềm tin là kết quả của nhận thức cảm tính thì nó được
hình thành một cách nhanh chóng nhưng mang nặng tính chất chủ quan, kinh
nghiệm, có thể đúng đắn mà cũng có thể sai lầm và tính kiên định không cao.
Ngược lại, nếu niềm tin là kết quả của nhận thức lý tính, khoa học, hơn nữa khoa
học đó đã được thực tiễn kiểm nghiệm là đúng đắn, khách quan thì nó có tính vững
chắc cao, ít bị dao động hay thay đổi cho dù có bất kỳ sự tác động nào đến quá trình
vận động của sự vật. Niềm tin sẽ quy định thái độ, động cơ và cách ứng xử cụ thể
của con người đối với sự vật, hiện tượng. Niềm tin chỉ có ở con người, gắn liền với
con người, là động lực thúc đẩy hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình
nhận thức và cải tạo thế giới.
Niềm tin chính trị là sự thừa nhận tính đúng đắn, xác thực, ưu việt, hoặc tính
lỗi thời, lạc hậu của một hệ tư tưởng hay một thể chế chính trị nhất định. Niềm tin
đó sẽ quy định thái độ, động cơ, hành động ứng xử thực tế của các chủ thể chính trị
đối với việc tiến hành duy trì, bảo vệ hay xóa bỏ một hệ tư tưởng, một chế độ chính
trị cụ thể nào đó để thiết lập một chế độ chính trị mới. Một hệ tư tưởng, một chế độ
chính trị nhất định chỉ có thể đứng vững khi nó làm cho quần chúng nhân dân tin
rằng nó còn hợp lý và chính đáng. Niềm tin đó càng sâu rộng thì độ vững chắc càng
cao và ngược lại. Tuy nhiên, với quần chúng nhân dân, niềm tin chủ yếu được hình
thành một cách cảm tính theo số đông và phụ thuộc vào các tấm gương trong thực
tế cuộc sống, đặc biệt là tấm gương của những người đứng đầu.
Do đó, để xây dựng niềm tin chính trị vững chắc, một mặt, phải đề cao
việc nêu gương, trước hết là của lãnh tụ chính trị, đảng chính trị, mặt khác,
88
phải làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức chính trị để
từ đó hình thành và củng cố niềm tin. Nhận rõ điều đó, sau khi xác định
được con đường cứu nước đúng đắn, việc đầu tiên Hồ Chí Minh nghĩ tới là
thức tỉnh quần chúng. Người viết: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về
nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họđưa họ ra đấu tranh giành tự do, độc
lập”[54, tr.209]. Sau này, để củng cố niềm tin của nhân dân vào tính ưu việt
của chế độ chính trị mới, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải
nêu gương về đạo đức cách mạng, bởi theo Người “một tấm gương sống còn
có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”[54, tr.284]. Thực tế cho
thấy, niềm tin chính trị không chỉ là sản phẩm của tấm gương chính trị mà
còn là sản phẩm của giáo dục chính trị. Mặt khác, niềm chính chính trị
không những là cơ sở của việc tự tu dưỡng rèn luyện để hình thành các tấm
gương chính trị mà còn là động lực thúc đẩy các hành động chính trị, các
phong trào chính trị của quần chúng trong việc ứng xử với thể chế chính trị.
Vì vậy, niềm tin chính trị là một bộ phận cấu thành quan trọng của VHCT và
là một hình thức biểu hiện của VHCT.
Với Hồ Chí Minh, niềm tin chính trị là một bộ phận quan trọng trong VHCT
của Người. Nếu không có niềm tin chính trị thì mọi mục tiêu, lý tưởng chính trị chỉ
là mơ ước. Và nếu không có niềm tin chính trị, Hồ Chí Minh khó có thể vượt qua
được những khó khăn, thách thức để trở thành một nhà chính trị chuyên nghiệp có
những cống hiến vĩ đại không chỉ cho sự phát triển của VHCT Việt Nam mà còn
cho sự phát triển mọi mặt của đất nước. Với mục tiêu, lý tưởng và nhận thức chính
trị của mình, Hồ Chí Minh luôn có một niềm tin chính trị sâu sắc. Đó là niềm tin
vào quy luật khách quan và xu thế thời đại; tin vào học thuyết Mác - Lênin; tin vào
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; tin vào mục tiêu, động lực, phương pháp
của con đường cách mạng vô sản; tin vào sức mạnh của nhân dân yêu chuộng hòa
bình trên thế giới và khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tin vào những phẩm chất tốt
đẹp và khả năng hướng thiện của con người. Niềm tin chính trị Hồ Chí Minh là cơ
sở để Người có thái độ, động cơ, cách ứng xử đúng đắn và quyết tâm cao nhất trong
việc thực hiện các chiến lược và sách lược của cách mạng Việt Nam.
89
Với tính cách là một bộ phận cấu thành của VHCT, niềm tin chính trị Hồ Chí
Minh là một niềm tin lý tính, sâu sắc, cách mạng, khoa học, có giá trị to lớn, cho
phép Người đưa ra những dự báo chính xác trước những diễn biến phức tạp, mau lẹ
của tình hình chính trị thế giới và trong nước. Năm 1944, trong Thư gửi đồng bào
toàn quốc, Hồ Chí Minh đã dự báo: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở
trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh!”[56,
tr.538]. Sau Cách mạng tháng Tám, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược
nước ta lần thứ hai, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người tiếp tục
khẳng định một niềm tin mãnh liệt rằng, “Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng
với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta”[57, tr.534].
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trước một kẻ thù mạnh hơn ta về nhiều
mặt, nhưng Hồ Chí Minh luôn tin rằng, dù chiến tranh có thể kéo dài nhưng
nhân dân ta nhất định sẽ đánh thắng giặc Mỹ.
Trên cơ sở niềm tin chính trị, Hồ Chí Minh đã cùng với Đảng tích cực nắm bắt
tình hình, có sách lược phù hợp, chuẩn bị tốt những điều kiện cần và đủ để thời cơ
cách mạng xuất hiện và chủ động nắm bắt, tận dụng thời cơ một cách triệt để, hiệu
quả nhất. Niềm tin chính trị Hồ Chí Minh có sức lan tỏa mạnh mẽ đến các thế hệ
cách mạng và quần chúng nhân dân, đã khích lệ ý chí, nghị lực, niềm tin và sức
sáng tạo của nhân dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp bảo đảm cho cách mạng Việt
Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3.1.1.3. Phương pháp và phong cách chính trị của Hồ Chí Minh
Phương pháp chính trị là tổng hợp các cách thức, biện pháp để thực hiện thắng
lợi các mục tiêu, lý tưởng chính trị, là một khâu hết sức quan trọng của quá trình
chính trị và có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của các quyết sách chính trị. Hồ Chí
Minh đã chỉ rõ, một trong những nguyên nhân thất bại của các cuộc đấu tranh nhằm
thay đổi thể chế chính trị thuộc địa nửa phong kiến mà các sĩ phu yêu nước và nhân
dân Việt Nam tiến hành trong giai đoạn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là do chưa
có phương pháp đấu tranh đúng đắn.
90
Trên cơ sở nhận rõ những hạn chế về phương pháp của các bậc tiền bối,
tiếp thu và vận dụng sáng tạo phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể Việt Nam, Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra một hệ thống các
phương pháp cách mạng đó là: lấy thực tiễn Việt Nam làm cơ sở xuất phát để
hướng đến mục tiêu cải tạo và phát triển đời sống chính trị của nhân dân; động
lực cách mạng là toàn dân nên phải huy động lực lượng của toàn dân; kiên định
về chiến lược nhưng linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; tích cực, chủ động tạo
lực, lập thế và nắm bắt thời cơ cách mạng; đi từ nhỏ đến lớn, từ bộ phận đến
toàn thể, giành thắng lợi từng phần để đi đến thắng lợi hoàn toàn. Trong thực
tiễn đấu tranh cách mạng, các phương pháp trên đây luôn được Người sử dụng
đồng thời với tính cách là một phương pháp tổng hợp. Với việc sáng tạo các
phương pháp cách mạng, Hồ Chí Minh đã từng bước hiện thực hóa các mục
tiêu chính trị đã xác định, góp phần hình thành và phát triển VHCT.
Phương pháp kết hợp với phong cách trở thành một yếu tố quan trọng cấu
thành VHCT Hồ Chí Minh. Phong cách chính trị là những hoạt động có ý thức,
được rèn luyện trở thành nền nếp ổn định của một cá nhân, tập thể hay cộng
đồng người nhất định, tạo nên nét đặc trưng, có giá trị cho xã hội. Phong cách
có nguồn gốc từ thói quen, nhưng không phải mọi thói quen đều trở thành
phong cách. Những nền nếp, thói quen chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu của một cá
nhân, một tập thể hay một bộ phận người nào đó mà ảnh hưởng đến quyền tự
nhiên bất khả xâm phạm của người khác hay đi ngược lại với lợi ích của số
đông thì không được gọi là phong cách. Phong cách không chỉ được phản ánh
trong một lĩnh vực cụ thể nào, mà nó được biểu hiện trong mọi hoạt động sống
của con người. Mỗi cá nhân và tập thể trong quá trình tồn tại và phát triển luôn
phải giải quyết nhiều mối quan hệ khác nhau, đáp ứng những chuẩn mực, yêu
cầu, đòi hỏi chung của xã hội. Vì vậy, phong cách gắn liền với mỗi cá nhân,
mỗi tập thể, cộng đồng và được phản ánh trong từng mối quan hệ, từng hoạt
động cụ thể. Một cá nhân hay tập thể có phong cách ở lĩnh vực này nhưng chưa
91
hẳn đã có phong cách ở lĩnh vực khác. Phong cách với tính cách là một bộ phận
cấu thành của văn hóa phải là những thói quen có thể tạo ra những giá trị vượt
trội hơn so với người khác, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, có tính
chất nhân văn, nhân đạo, được cộng đồng thừa nhận và chia sẻ.
Từ khi xã hội có phân hóa giai cấp, không một cá nhân nào có thể sống tách
rời khỏi chính trị mà luôn là một phần của chính trị, luôn có sự tương tác với bộ
phận quan trọng nhất của chính trị là nhà nước. Vì vậy, phong cách chính trị là
những nền nếp, thói quen có ý thức của các chủ thể trong quá trình ứng xử và tham
gia đời sống chính trị. Đó là những thói quen trong nhìn nhận mối quan hệ giữa thể
chế chính trị, hệ thống chính trị với công dân và vai trò của công dân trong thể chế
chính trị đó. Phong cách chính trị không chỉ thể hiện trong việc nhận thức tính chính
đáng hay không chính đáng của hệ thống chính trị hiện hành; vị trí, vai trò của giai
cấp đang thống trị về chính trị mà còn thể hiện trong những hành động thực tiễn để
duy trì, bảo vệ, củng cố, phát triển hay thay đổi một thể chế chính trị này bằng một
thể chế chính trị khác, tiến bộ, nhân văn và ưu việt hơn.
Phong cách chính trị Hồ Chí Minh là những nguyên tắc, lề lối được lặp đi, lặp
lại trong hoạt động lý luận và thực tiễn chính trị, tạo nên sự khác biệt và những giá
trị to lớn cho cách mạng Việt Nam, được biểu hiện ra trong quá trình tư duy chính
trị, diễn đạt tư tưởng chính trị, ứng xử chính trị và sử dụng quyền lực chính trị. Với
tính cách là một yếu tố cấu thành của VHCT, phong cách chính trị Hồ Chí Minh là
sự kết hợp nhuần nhuyễn, chắt lọc tinh hoa từ nhiều mẫu chủ thể chính trị khác
nhau. Ở đó, có nguyên tắc, nền nếp ứng xử của người lao động, chấp hành pháp
luật; của người cách mạng; của người lãnh đạo, người quản lý. Tuy nhiên, tất cả
những nguyên tắc, nền nếp, thói quen ứng xử chính trị đó đều xuất phát từ nhân dân
và trở về với nhân dân. Tức là, Người luôn lấy việc bảo đảm quyền con người và
quyền dân tộc làm tiêu chuẩn, thước đo để nhìn nhận, đánh giá và ứng xử với
những vấn đề chính trị cụ thể.
Phong cách chính trị Hồ Chí Minh thể hiện tập trung nhất ở nguyên tắc hành
động là “việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức
92
tránh”[57, tr.51]. Nguyên tắc đó luôn được quán triệt và thể hiện xuyên suốt, nhất
quán, chỉ đạo mọi ứng xử chính trị của Người, từ việc phân tích, đánh giá bản chất,
vị trí, vai trò của các giai cấp trong xã hội, lựa chọn hệ tư tưởng, mô hình nhà nước
đến việc xác định tiêu chí của một thể chế chính trị mới, cũng như đội ngũ cán bộ,
đảng viên trong bộ máy nhà nước. Với phong cách chính trị Hồ Chí Minh: người
dân là chủ thể của chính trị, một thể chế chính trị thực sự chính đáng phải là đại diện
tin cậy cho lợi ích của các giai cấp, tầng lớp và phải đưa xã hội phát triển đúng quy
luật khách quan, xu thế thời đại; nhà nước là của dân, do dân, vì dân; cán bộ, công
chức là công bộc của dân; Đảng phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân. Phong cách chính trị Hồ Chí Minh không chỉ góp
phần tạo nên thành công trong sự nghiệp chính trị của Người, đưa lại những thắng
lợi to lớn có ý nghĩa thời đại cho cách mạng Việt Nam, mà còn phát huy cao độ vai
trò của nhân dân trong đời sống chính trị; làm cho những người mù chữ cũng không
đứng ngoài chính trị.
3.1.2. Các giá trị hành vi
3.1.2.1. Những hoạt động sáng tạo lý luận và thực tiễn chính trị
Năng lực là khả năng tiến hành và đạt được các mục tiêu, lý tưởng trong quá
trình nhận thức và biến đổi hiện thực. Nguồn gốc của năng lực là những phẩm chất
nhân cách và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho phép chủ thể hoạt động hoàn
thành nhiệm vụ ở một hay một số lĩnh vực nhất định. Năng lực biểu hiện sự thống
nhất giữa những giá trị khách quan với những phẩm chất chủ quan và được nhìn
nhận ở nhiều cấp độ, phạm vi khác nhau, vừa có tính chất cá nhân, vừa có tính chất
xã hội. Năng lực cá nhân không chỉ là sản phẩm, mà còn là một dạng biểu hiện của
năng lực xã hội, bị chi phối bởi năng lực của xã hội. Mặc dù vậy, năng lực của mỗi
cá nhân lại góp phần bồi đắp, nâng cao năng lực của tập thể, của cộng đồng, xã hội.
Mặt khác, dù là năng lực của cá nhân hay tập thể cũng chỉ được nhìn nhận thông
qua các hoạt động xã hội, trong môi trường xã hội. Và, hoạt động xã hội hay hoạt
động thực tiễn chính là thước đo năng lực của mỗi cá nhân, tập thể. Quá trình hình
thành năng lực của mỗi cá nhân vừa có nhân tố chủ quan, vừa có yếu tố khách
93
quan, trong đó nhân tố chủ quan giữ vai trò quyết định. Việc chủ động tiếp thu
những giá trị khách quan hay đem những tri thức, kinh nghiệm khách quan tác động
một cách có chủ đích để khơi dậy, phát huy những nhân tố chủ quan chính là con
đường cơ bản để hình thành năng lực cho mỗi cá nhân.
Năng lực chính trị không những là khả năng chiếm lĩnh, làm chủ các tri thức
chính trị, đánh giá đúng giá trị và hạn chế của các tri thức đó, lựa chọn, kế thừa,
phát triển và sáng tạo những tri thức mới phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn; mà còn
là khả năng biến những tri thức đó thành hiện thực trong đời sống chính trị, đáp ứng
nguyện vọng của đông đảo quần chúng nhân dân và phù hợp với xu thế thời đại.
Năng lực chính trị vừa là một khâu trong quá trình chính trị, vừa là một yếu tố quan
trọng tạo nên các giá trị hiện thực của chính trị. Nếu quá trình chính trị không đi đến
đích, không trở thành hiện thực thì mọi nhận thức đúng đắn, mục tiêu, lý tưởng
chính trị cao đẹp chỉ là lý thuyết, niềm tin chính trị sẽ trở thành chủ quan duy ý chí.
Với ý nghĩa đó, năng lực chính trị thực sự là một giá trị quan trọng của VHCT.
Năng lực chính trị Hồ Chí Minh biểu hiện trước hết trong việc lựa chọn, vận
dụng và phát triển sáng tạo một lý luận chính trị cách mạng, khoa học nhất, có thể
trả lời thấu đáo các câu hỏi lớn của cách mạng Việt Nam như: làm thế nào để giành
ĐLDT trước một kẻ thù có tính chất quốc tế là thực dân Pháp?; làm thế nào để có
được một đảng cách mạng chân chính của giai cấp vô sản dưới chế độ thuộc địa
nửa phong kiến, giai cấp công nhân còn nhỏ bé?, và làm thế nào để giải quyết vấn
đề ĐLDT gắn liền với CNXH trong điều kiện một nước nông nghiệp lạc hậu như
Việt Nam?. Mặt khác, Hồ Chí Minh còn thể hiện một năng lực tuyệt vời trong việc
lựa chọn nội dung, hình thức và cách thức truyền bá lý luận vào quần chúng, trong
điều kiện chính quyền thực dân đang thực hiện chính sách ngu dân.
Năng lực chính trị Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở khả năng tổng kết lịch sử,
tổng kết thực tiễn và dự báo trước các diễn biến chính trị. Với tầm nhìn chiến lược
có phạm vi bao quát thời đại, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, Người đều đưa
ra những dự báo có độ chính xác gần như tuyệt đối. Khả năng dự báo của Hồ Chí
Minh là sản phẩm của việc nắm vững các nguyên tắc phương pháp luận của của
94
chủ nghĩa Mác - Lênin; nắm vững quy luật vận động, phát triển khách quan của
mỗi sự vật, hiện tượng; nhận thức đúng đắn vai trò và mối quan hệ biện chứng giữa
các yếu tố khách quan, chủ quan và khả năng phân tích hàng loạt các dữ kiện chính
trị trong nước và quốc tế. Những dự báo đó có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ
vững lập trường, củng cố niềm tin của bản thân Người và của nhân dân ta vào mục
tiêu, con đường chính trị đã lựa chọn. Mặt khác, những dự báo đó còn giúp Đảng ta
điều chỉnh kịp thời các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể để tạo ra sự tương hợp giữa các
yếu tố khách quan - chủ quan, trong nước - quốc tế, dân tộc - thời đại mà từ đó sẽ
xuất hiện thời cơ có lợi cho cách mạng.
Nội dung quan trọng nhất của năng lực chính trị Hồ Chí Minh là khả năng sử
dụng các lực lượng vật chất để hi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_van_hoa_chinh_tri_ho_chi_minh_gia_tri_ly_luan_va_thuc_tien_6198_1917240.pdf