MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 5
1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận chung về quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 5
1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng sự biến đổi của
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 18
1.3. Những công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp phát triển quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 27
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố liên
quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục giải quyết 35
Chương 2: QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ
ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 39
2.1. Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và vai trò của quan hệ sản xuất xã hội
chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam 39
2.2. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới 62
Chương 3: THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA 75
3.1. Thực trạng sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời
kỳ đổi mới ở Việt Nam 75
3.2. Những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay 117
Chương 4: MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT
HUY NHỮNG BIẾN ĐỔI TÍCH CỰC, HẠN CHẾ NHỮNG BIẾN ĐỔI TIÊU
CỰC CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 127
4.1. Phương hướng chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay 127
4.2. Một số giải pháp chủ yếu để phát huy những biến đổi tích cực, hạn chế
những biến đổi tiêu cực của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay 132
KẾT LUẬN 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
171 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 05/03/2022 | Lượt xem: 365 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ất đóng
vai trò chủ đạo để tạo thành đặc trưng của một cơ sở hạ tầng nào đó. Do đó,
nếu QHSX XHCN ở nước ta hoạt động không tốt, hiệu quả sản xuất kinh
doanh kém, năng suất không cao bằng các loại hình quan hệ sản xuất khác
chẳng hạn như: QHSX TBCN thì dần dần nó sẽ đánh mất vai trò chủ đạo,
không tạo ra được một cơ sở kinh tế vững chắc để làm công cụ cho Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước điều tiết nền kinh tế, khi đó nền kinh tế sẽ có
nguy cơ đi chệch hướng XHCN. Mặt khác nếu QHSX XHCN mà hoạt động
tốt hơn các loại hình QHSX khác, làm tốt vai trò chủ đạo của mình thì nó có
thể dẫn dắt, hỗ trợ các loại hình QHSX khác ở nước ta đi lên CNXH, một chế
độ công bằng, bình đẳng dựa trên cơ sở công hữu là chủ yếu.
Như vậy, các quan hệ sản xuất ở nước ta chúng vừa thống nhất, vừa đối
lập, tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển tạo ra một cơ sở
hạ tầng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dưới sự dẫn dắt, hỗ
trợ của QHSX XHCN.
74
Tiểu kết chương 2
Lý luận về quan hệ sản xuất và vai trò của quan hệ sản xuất đối với sự
phát triển của lực lượng sản xuất, của kiến trúc thượng tầng là những nội dung
cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin,
quan hệ sản xuất có một vai trò tác động kép trong một hình thái kinh tế -xã hội,
một mặt nó có vai trò thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất, mặt khác, quan hệ sản xuất cũng là cơ sở, nền tảng để hình thành nên một
kiến trúc thượng tầng tương ứng.
Đối với nước ta, trong thời kỳ quá độ lên CHXN, còn tồn tại nhiều loại
quan hệ sản xuất khác nhau thì QHSX XHCN có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo ra cơ sở nền tảng cho sự
lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và dẫn dắt các loại quan hệ sản xuất
khác đi lên CNXH.
Sự vận động, biến đổi của QHSX XHCN ở nước ta chịu tác động của
nhiều nhân tố khác nhau, trước hết là lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất
luôn luôn vận động và biến đổi nó đòi hỏi QHSX cũng phải biến đổi theo để bảo
đảm sự phù hợp. Kiến trúc thượng tầng mà trực tiếp là sự lãnh đạo, định hướng
của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, có tác động mạnh mẽ tới sự vận động,
biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Các quan hệ sản xuất
khác ở nước ta chúng vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn tác động qua lại nhau tạo
thành cơ sở hạ tầng đặc trưng của thời kỳ quá độ ở nước ta, do đó cũng tác động
đến sự biến đổi của QHSX XHCN. Nhân tố toàn cầu hóa, hợp tác khu vực và
quốc tế, cũng góp phần tác động đến sự biến đổi của QHSX XHCN nó tạo ra cả
cơ hội và thách thức trong quá trình hội nhập ở Việt Nam.
Việc làm sáng tỏ những vấn đề lý luận trên đây là cơ sở quan trọng để
nghiên cứu, sự biến đổi quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
75
Chương 3
THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. THỰC TRẠNG SỰ BIẾN ĐỔI CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM
3.1.1. Thực trạng về sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà nước
Đại hội lần VIII của Đảng năm 1996 Đảng, Nhà nước chính thức sử
dụng khái niệm thành phần kinh tế nhà nước thay cho khái niệm kinh tế quốc
doanh. Đến nay, có nhiều cách hiểu khác nhau chưa thống nhất về thành phần
kinh tế nhà nước.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng: kinh tế nhà nước là những hoạt động
kinh tế mà Nhà nước là chủ sở hữu, có quyền định đoạt, tổ chức quản lý.
Theo quan điểm này, kinh tế nhà nước bao gồm các bộ phận như: doanh
nghiệp nhà nước, tài sản công, dự trữ quốc gia, tài chính nhà nước. Một số
học giả còn cho rằng: bao gồm ngân sách nhà nước, tài nguyên quốc gia, hệ
thống chính sách của nhà nước.
Loại ý kiến thứ hai như tác giả Vũ Đình Bách còn cho rằng: kinh tế
nhà nước bao gồm tổng thể các nguồn lực nhà nước, do vậy có nội dung
rất rộng.
Kinh tế nhà nước là một khái niệm mở có thể hiểu theo mức độ rộng,
hẹp khác nhau tùy theo mục đích nghiên cứu.
Chúng tôi cho rằng: kinh tế nhà nước theo nghĩa rộng bao gồm hai lĩnh
vực chính: các doanh nghiệp nhà nước và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp
như: tài nguyên quốc gia, các quỹ dự trữ quốc gia, hệ thống ngân hàng nhà
nước, bảo hiểm nhà nước trong đó, các doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò
là nòng cốt.
Theo nghĩa hẹp, kinh tế nhà nước đồng nghĩa với hệ thống các doanh
nghiệp nhà nước.
76
Chúng tôi nghiên cứu, khảo sát bộ phận cốt lõi nhất, nòng cốt nhất của
kinh tế nhà nước là các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận còn có nhiều tranh
cãi và gây bức xúc trong những năm vừa qua hay kinh tế nhà nước được hiểu
theo nghĩa hẹp để nghiên cứu.
Từ khi đổi mới đến nay, kinh tế nhà nước có sự vận động, biến đổi qua
nhiều giai đoạn khác nhau:
* Giai đoạn 1986 - 2001
Trong giai đoạn này, sự biến đổi của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
được thể hiện qua ba kỳ đại hội là: Đại hội VI, VII, VIII của Đảng, xuất phát
từ thực trạng trình độ của lực lượng sản xuất còn lạc hậu, quan hệ sản xuất đi
quá xa so với trình độ của lực lượng sản xuất. Trong khi đó các loại hình quan
hệ sản xuất khác bị xóa bỏ một cách nóng vội dẫn đến vi phạm quy luật khách
quan. Do đó, Đảng và Nhà nước đã có sự nhận thức lại quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã có sự đổi mới mang
tính bước ngoặt, được thể hiện tập trung trong Văn kiện Đại hội VI,VII,VIII
và các Nghị quyết, văn bản pháp luật khác của Đảng và Nhà nước. Sự đổi mới
được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và
phân phối sản phẩm. Cụ thể là:
Về quan hệ sở hữu
Sự chuyển đổi nhận thức về quan hệ sở hữu của Đảng, là một quá trình,
trải qua nhiều kỳ Đại hội Đảng, bắt nguồn từ Đại hội VI của Đảng.
Đại hội lần VI của Đảng với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh
giá đúng sự thật, nói rõ sự thật” [27, tr.12] sau khi đã phân tích tình hình về
kinh tế - xã hội ở nước ta đã khẳng định: “quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
chậm được củng cố. Vai trò chủ đạo của kinh tế quốc doanh suy yếu. Các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa chưa được sử dụng và cải tạo tốt”
[27, tr.18]. Đại hội VI đã chủ trương đổi mới quan hệ sản xuất là nhiệm vụ
thường xuyên, liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH và bao gồm 3
77
mặt: xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ
phân phối.
Đại hội VI xác định:
Nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời
kỳ quá độ. Ở nước ta, các thành phần kinh tế đó là:
Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và tập
thể, cùng với bộ phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần
kinh tế đó.
Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hóa
(thợ thủ công, nông dân cá thể, những người buôn bán và kinh
doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà
nước dưới nhiều hình thức, mà hình thức cao là công tư hợp doanh;
kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, trong một bộ phận dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng núi khác [27, tr.56-57].
Đại hội VI đã khẳng định kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến
lược, và là đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, điều này là
khách quan phù hợp với trình độ của LLSX ở nước ta. Trong nền kinh tế
nhiều thành phần đa dạng về sở hữu thì sở hữu nhà nước hay sở hữu toàn dân,
mà Nhà nước là đại diện luôn được Đảng, xác định đóng vai trò chủ đạo. Đại
hội VI của Đảng xác định: “điều quan trọng nhất là củng cố và phát triển kinh
tế xã hội chủ nghĩa, trước hết là làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ
đạo, chi phối được các thành phần kinh tế khác” [27, tr.58].
Đến Đại hội VII năm 1991, vấn đề đổi mới nền kinh tế bắt nguồn từ
Đại hội VI tiếp tục được thúc đẩy hơn nữa. Đại hội VII khẳng định tiếp tục sự
nghiệp đổi mới toàn diện đất nước: “tiếp tục đổi mới toàn diện và đồng bộ,
đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu với bước đi vững chắc” [28, tr.61].
Đến đại hội VII vấn đề sở hữu của QHSX XHCN được Đảng xác định rõ hơn,
bên cạnh việc thừa nhận sự tồn tại lâu dài, khách quan của các loại hình sở
hữu khác thì sở hữu nhà nước của các đơn vị quốc doanh phải được thu hẹp
lại để tập trung phát triển có hiệu quả.
78
Do đó, Đại VII đã tiến xa hơn Đại VI đó là xác định những ngành,
những lĩnh vực mà kinh tế quốc doanh cần nắm giữ chứ không phát triển tràn
lan như trước: “khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh, bảo đảm kinh tế quốc doanh phát triển có hiệu quả, nắm những lĩnh
vực và ngành then chốt để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế” [28,
tr.67]. Để đổi mới sắp xếp lại các đơn vị quốc doanh sao cho có hiệu quả thì
cần chuyển đổi sở hữu từ sở hữu nhà nước sang các hình thức sở hữu khác.
Giải pháp là giảm sở hữu nhà nước để tập trung vào các cơ sở trọng điểm, làm
ăn có hiệu quả bằng cách giải thể các xí nghiệp làm ăn thua lỗ và tiến hành cổ
phần hóa doanh nghiệp nhà nước “chuyển hình thức sở hữu hoặc giải thể các
cơ sở thua lỗ kéo dài và không có khả năng vươn lên” [28, tr.67].
Trong giai đoạn này Đảng đã tiến hành đổi mới về sở hữu trong doanh
nghiệp nhà nước bằng cách thí điểm cổ phần hóa: “chuyển một số doanh
nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số
công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải làm thí điểm, chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh
nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trên phạm vi thích hợp” [28, tr.69].
Đến Đại hội VIII, khái niệm kinh tế quốc doanh được thay bằng khái
niệm kinh tế nhà nước. Khái niệm kinh tế nhà nước rộng hơn khái niệm kinh
tế quốc doanh. Bởi vì, ngoài hệ thống các doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà
nước còn bao gồm các bộ phận khác như: Tài nguyên quốc gia, các quỹ quốc
giatrong đó hệ thống các doanh nghiệp nhà nước là nòng cốt.
Đại hội VIII làm rõ nghĩa hơn về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
mà nòng cốt là các doanh nghiệp nhà nước, ngoài việc nắm giữ các ngành,
lĩnh vực then chốt, kinh tế nhà nước còn phải làm đòn bẩy cho tăng trưởng
kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, làm
lực lượng để nhà nước điều tiết nền kinh tế, Đại hội khẳng định:
Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước để làm
tốt vai trò chò chủ đạo: làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế
và giải quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ
79
các thành phần kinh tế khác cùng phát triển; làm lực lượng vật
chất để Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết và quản lý vĩ mô,
tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới [29, tr.93].
Đại hội VIII đã cụ thể hóa hơn nữa trong việc xác định những lĩnh vực,
những ngành then chốt cần nắm giữ đó là: ngành kết cấu hạ tầng xã hội, tài
chính, ngân hàng bảo hiểm, cơ sở thương mại, dịch vụ quan trọng, cơ sở sản
xuất liên quan tới quốc phòng, an ninh:
Tập trung nguồn lực để phát triển kinh tế nhà nước trong những
ngành, những lĩnh vực trọng yếu như kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội,
hệ thống tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, những cơ sở sản xuất
thương mại; dịch vụ quan trọng, một số doanh nghiệp thực hiện
những nhiệm vụ có liên quan đến quốc phòng an ninh [29, tr.93].
Về sở hữu, để kinh tế nhà nước hoạt động có hiệu quả trong giai đoạn
này, nhà nước tiếp tục cổ phần hóa để chuyển đổi từ sở hữu nhà nước sang
các công ty cổ phần nhằm huy động vốn cho sản xuất kinh doanh: “triển khai
tích cực và vững chắc việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước để huy động
thêm vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, làm
cho tài sản nhà nước ngày càng tăng thêm” [29, tr.94].
Cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về đa dạng hóa các hình thức sở
hữu trong nền kinh tế Nhà nước đã ban hành các quyết định như:
Ngày 9/3/1987 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định số 27/NĐ
về kinh tế tư doanh và Nghị định số 29/NĐ về kinh tế gia đình, cho phép phục
hồi lại kinh tế tư nhân. Những Nghị định này góp phần cho sở hữu tư nhân
phục hồi và phát triển bên cạnh sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể.
Cũng trong năm 1987, Nhà nước ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam. Theo Luật này, Nhà nước khuyến khích các tổ chức cá nhân nước
ngoài đầu tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam, Nhà nước Việt Nam bảo hộ quyền
sở hữu đối với vốn và các quyền lợi khác của các tổ chức cá nhân nước ngoài.
Với sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài đã có thêm thành phần kinh tế có
80
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam góp phần quan trọng thể chế hóa quan
điểm phát triển đa dạng hóa các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế ở
nước ta.
Vấn đề sở hữu và các thành phần kinh tế tiếp tục được khẳng định rõ
trong Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp quy định: “Nhà nước thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư
nhân trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng” [103, tr.19].
Năm 1995 Nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước ngày
20/4/1995 nhằm phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước và tăng cường
quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp cũng như thực hiện đúng các mục tiêu của nhà nước giao cho Doanh
nghiệp nhà nước.
Thực hiện chủ trương cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, Chính
phủ đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về việc thí điểm
chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần. Tiếp theo Chính phủ
ban hành Nghị định 28-CP ngày 7/5/1996 về việc chuyển một số doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, đã đưa ra các ưu đãi khi cổ phần hóa
như: miễn thuế 50% cho hai năm liên tiếp, được miễn thuế trước bạ, được vay
vốn tại ngân hàng như với các doanh nghiệp nhà nước khác
Nhằm thúc đẩy cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước Nhà nước đã ban
hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP ngày 29-6-1998 về việc chuyển doanh
nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, trong đó quy định rõ các doanh
nghiệp nhà nước cổ phần hóa được hưởng nhiều ưu đãi sau: được hưởng ưu
đãi theo quy định của Luật khuyến khích đầu tư trong nước, miễn lệ phí
trước bạ, được tiếp tục vay vốn và lãi xuất như doanh nghiệp nhà nước,
được quyền tiếp tục xuất khẩu như trước cổ phần hóa, các khoản chi phí cho
chuyển thành công ty cổ phần được khấu trừ vào tiền bán cổ phần thuộc vốn
nhà nước
81
Các văn bản của Nhà nước trên lĩnh vực sở hữu đối với các doanh
nghiệp nhà nước được dần hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn để chuyển đổi từ mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, thời kỳ này do mới chuyển đổi chúng ta chưa thể chuyển
hoàn toàn sang nền kinh tế thị trường mà chỉ chuyển sang hạch toán XHCN,
thí điểm cổ phần hóa do vậy các quy định của Đảng, Nhà nước còn chậm
cho việc chuyển đổi, còn thiếu nhiều các quy định về việc hình thành, phát
triển nền kinh tế thị trường như: sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, các
lĩnh vực cần thiết phải duy trì 100% vốn sở hữu nhà nước những thiếu sót
đó được khắc phục dần trong các giai đoạn đổi mới tiếp theo.
Về quan hệ tổ chức quản lý
Khi tiến hành đổi mới Đại hội VI của Đảng đã chỉ rõ đổi mới phải đồng
bộ không chỉ có quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà còn bao gồm các quan
hệ khác của quan hệ sản xuất: “xây dựng quan hệ sản xuất mới gồm 3 mặt;
xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và phân phối xã
hội chủ nghĩa” [27, tr.57]. Cùng với quan hệ sở hữu thì quan hệ tổ chức quản
lý và quan hệ phân phối cũng được đổi mới.
Đại hội VI khẳng định rằng cơ chế quản lý cũ đã cản trở sự phát triển
của QHSX:
Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp từ nhiều năm nay
không tạo ra được động lực phát triển, làm suy yếu kinh tế xã hội
chủ nghĩa, hạn chế việc sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế
khác, kìm hãm sản xuất, làm giảm năng suất, chất lượng, hiệu quả,
gây rối loạn trong phân phối lưu thông, và đẻ ra nhiều hiện tượng
tiêu cực trong xã hội [27, tr.62].
Do vậy, khi tiến hành đổi mới Đại hội VI đã xác định: “phương hướng
đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã được khẳng định là xóa bỏ tập trung quan
liêu, bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với
trình độ phát triển của nền kinh tế” [27, tr.63]. Cơ chế mới ở đây chính là cơ
82
chế thị trường, của sản xuất hàng hóa với các quy luật khách quan của nó
như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu và các quy luật khác. Tuy nhiên, khi
tiến hành đổi mới, do đây là vấn đề còn mới mẻ, do hạn chế nhận thức lúc bấy
giờ, Đại hội VI chỉ xác định và coi đây là quan hệ hàng hóa, tiền tệ chưa đầy
đủ theo nghĩa kinh tế thị trường: “việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ
hàng hóa - tiền tệ trong kế hoạch hóa nền kinh tế quốc dân là một tất yếu
khách quan” [27, tr.63].
Cùng với việc đổi mới cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu, bao cấp
sang cơ chế thị trường đối với QHSX XHCN cần phải trao quyền tự chủ cho
các xí nghiệp quốc doanh: “Các đơn vị kinh tế quốc doanh và tập thể là những
đơn vị sản xuất hàng hóa xã hội chủ nghĩa, có quyền tự chủ sản xuất, kinh
doanh, tự chủ về tài chính, các tập thể lao động thật sự có vai trò của người
làm chủ trong việc tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh” [27, tr.64].
Chính sự đổi mới, cởi trói của Đại hội VI đã tạo ra tiền đề, và là bước
ngoặt cho QHSX XHCN ở nước ta vận động, phát triển theo cơ chế thị
trường và làm cơ sở cho quá trình đổi mới sau này. Đó chính là tách rời
quyền quản lý hành chính của nhà nước với chức năng sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp.
Công tác kế hoạch hóa cũng được thay đổi, thay vì kế hoạch hóa dựa
trên cơ sở hành chính mệnh lệnh như trước đây, khi đổi mới Đại hội VI xác
định kế hoạch phải căn cứ vào thị trường có nghĩa là chuyển từ định lượng
sang định tính. Điều đó có nghĩa là; nếu trước kia làm kế hoach phải căn cứ
vào số lượng được cấp trên giao, thì nay phải căn cứ vào nhu cầu của thị
trường để quyết định làm kế hoạch cho sản xuất kinh doanh.
Đại hội VII tiếp tục sự nghiệp đổi mới từ Đại hội VI, So với Đại hội
VI, Đại hội VII đã xác định rõ hơn cơ chế quản lý nền kinh tế nước ta là cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính
sách và các công cụ khác, không chỉ là quan hệ hàng hóa, tiền tệ như Đại hội
VI. Bên cạnh đó thì còn có các hình thức quản lý khác được đổi mới như: cho
83
thuê, khoán, giao vốn “Tiến hành việc giao vốn và áp dụng rộng rãi các
hình thức khoán trong xí nghiệp quốc doanh” [28, tr.67-68]. Đại hội VII cũng
làm rõ quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp quốc
doanh tức là tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng về tư liệu sản xuất: “Sửa
đổi và bổ sung các cơ chế chính sách cần thiết để giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, quan hệ giữa nhà nước và xí
nghiệp quốc doanh” [28, tr.67].
Một trong những đổi mới về quan hệ quản lý đó là: bên cạnh xác định
những lĩnh vực, những ngành cần nắm giữ thì Đại hội VII khẳng định cần
phải sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng hình thành các công
ty, xí nghiệp lớn có khả năng cạnh tranh trong kinh tế. Do đó, giai đoạn 1990-
1991 chúng ta đã thành lập các tổng công ty còn gọi là tổng công ty 90, 91.
Các tổng công ty này. đóng vai trò chủ lực, then chốt trong nền kinh tế và
cạnh tranh với nước ngoài: “Xây dựng một số công ty hoặc liên hiệp xí
nghiệp lớn, có uy tín và có khả năng cạnh tranh trong quan hệ kinh tế với
nước ngoài” [28, tr.68].
Trong giai đoạn này, nhà nước tập trung chủ yếu vào việc củng cố các
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đồng thời sắp xếp lại các doanh nghiệp
nhà nước và tổ chức lại thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh để cạnh
tranh trên thị trường: “tổ chức hợp lý các tổng công ty, bảo đảm vừa tránh
phân tán về lực lượng, vừa tránh độc quyền hoặc trở thành cấp hành chính
trung gian” [28, tr.95].
Đại hội VIII tiếp tục khẳng định xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao
cấp hình thành cơ chế thị trường và nói rõ hơn Đại hội trước là theo định
hướng xã hội chủ nghĩa: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa tiếp tục được xây dựng một cách đồng bộ hơn và có hiệu quả hơn” [29,
tr.11]. Chính vì vậy, vai trò của kinh tế nhà nước không giảm đi mà tăng lên
để định hướng nền kinh tế đi lên CNXH.
84
Để kinh tế nhà nước làm tốt vai trò chủ đạo cần phải đổi mới các doanh
nghiệp nhà nước, tách chức năng quản lý nhà nước với chức năng sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp, tách rời quyền sở hữu với quyền sử dụng tài
sản. Đảng khẳng định: “đổi mới tổ chức quản lý doanh nghiệp nhà nước, phát
huy cao độ quyền tự chủ của các doanh nghiệp trong việc thực hiện nhiệm vụ
được giao” [29, tr.25].
Thể chế hóa các quan điểm của Đảng, Nhà nước đã ban hành các văn
bản trên phương diện tổ chức quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước
nhằm đổi mới quan hệ tổ chức quản lý để chuyển dần sang kinh tế thị
trường như:
Quyết định 217/HĐ BT ngày 14/11/1987 về đổi mới kế hoạch hóa và
hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa đối với các xí nghiệp quốc doanh,
Nghị định 98/HĐBT ngày 2/6/1988 về quyền làm chủ tập thể của công nhân
viên chức tại các xí nghiệp quốc doanh, Nghị định 27/HĐBT ngày 22/3/1989
về điều lệ liên hiệp xí nghiệp quốc doanh các văn bản này đã góp phần xóa
bỏ dần cơ chế tập trung, quan liêu chuyển sang cơ chế thị trường, tuy nhiên
thời kỳ này chỉ là hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, trao quyền tự chủ
cho các doanh nghiệp nhà nước.
Nhằm tạo điều kiện cho việc tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà
nước ngày 1/10/1994 Nhà nước đã ban hành Luật Phá sản doanh nghiệp được
áp dụng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có các
doanh nghiệp nhà nước. Với sự ra đời luật này đã tạo hành lang pháp lý cho
việc giải thể các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài là một biện
pháp để tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước.
Tiếp theo ngày 3-10-1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định 59/CP về
việc hạch toán kinh doanh đối với các doanh nghiệp nhà nước. Như vậy Nghị
định này đã xác định cơ chế quản lý rõ hơn; không chỉ là hạch toán kinh
doanh XHCN mà là hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường.
85
Ngày 10/9/1999 Nhà nước đã ban hành Nghị quyết về việc: giao, bán,
khoán kinh doanh, cho thuê doanh nghiệp nhà nước. Nghị định chỉ rõ: mục
tiêu của việc giao, bán khoán, cho thuê kinh doanh với các doanh nghiệp nhà
nước là nhằm tiếp tục đổi mới sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước quy mô
nhỏ, thua lỗ kéo dài hoặc không cần duy trì sở hữu nhà nước. Đây là một
bước tiến nhằm đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đổi với các doanh nghiệp
nhà nước theo cơ chế thị trường.
Về mặt quản trị doanh nghiệp nhà nước trong giai đoạn này cũng có sự
biến đổi quan trọng, thực hiện chủ trương của Đảng về việc thành lập các
doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, có khả năng chi phối nền kinh tế và
cạnh tranh với bên ngoài. Nhà nước đã ban hành Quyết định 90/TTg ngày
7/3/1994 sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn trên 500 tỷ
đồng tập trung vào những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế còn gọi là các
tổng công ty 90. Tiếp theo là Quyết định 91/TTg ban hành ngày 7/3/1994 về
việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước có quy mô rất lớn trên 1000 tỷ
đồng còn gọi là các tổng công ty 91. Việc ban hành các quyết định này là một
bước đổi mới trong công tác quản lý doanh nghiệp nhà nước nhằm giảm về số
lượng các doanh nghiệp nhưng nâng cao về quy mô của doanh nghiệp nhà
nước. Các doanh nghiệp nhà nước theo mô hình tổng công ty 90 và 91 đã có
Hội đồng quản trị do Nhà nước bổ nhiệm để tăng thêm quyền chủ động trong
việc điều hành doanh nghiệp theo cơ chế thị trường và tự chịu trách nhiệm về
kết quả kinh doanh của tổng công ty.
Ngày 20/4/1995 nhà nước ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước là một
bước tiến trong quản lý điều hành các doanh nghiệp nhà nước nhằm tránh tình
trạng các cơ quan quản lý can thiệp trực tiếp vào các hoạt động sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, tăng quyền chủ động cho các doanh nghiệp nhà
nước, đồng thời các doanh nghiệp nhà nước đã có đầy đủ tư cách pháp nhân phải
tự chịu trách nhiệm về các hoạt động của mình. Với sự ra đời luật doanh nghiệp
nhà nước các doanh nghiệp nhà nước với tư cách là chủ thể của sản xuất hàng
hóa theo mô hình kinh tế thị trường đã được thừa nhận về mặt pháp lý.
86
Về quan hệ phân phối
Đại hội VI của Đảng cũng đánh dấu bước ngoặt trong việc đổi mới về chế
độ phân phối nói chung và quan hệ phân phối trong kinh tế quốc doanh nói
riêng. Đại hội đã tiến hành xóa bỏ phân phối bình quân, tiến hành phân phối theo
lao động, căn cứ vào năng suất, chất lượng để trả lương cho người lao động, từ
đó tạo động lực cho người lao động gắn bó với xí nghiệp. Đại h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_ve_su_bien_doi_cua_quan_he_san_xuat_xa_hoi_chu_nghia.pdf