Luận án Xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN. 6

1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về nhân cách, nhân cách sinh viên. 6

1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng nhân cách, xây dựng nhân cách

sinh viên các trường đại học và các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định. 15

1.3. Những công trình nghiên cứu về giải pháp xây dựng nhân cách, nhân cách sinh

viên các trường đại học và các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định. 20

Chương 2: XÂY DỰNG NHÂN CÁCH SINH VIÊN: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN. 25

2.1. Lý luận chung về nhân cách. 25

2.2. Một số vấn đề lý luận về xây dựng nhân cách sinh viên. 44

2.3. Một số yêu cầu khách quan đối với việc xây dựng nhân cách sinh viên các

trường đại học hiện nay. 51

Chương 3: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG NHÂN CÁCH SINH VIÊN CÁC

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY. 61

3.1. Những yếu tố cơ bản tác động đến nhân cách sinh viên các trường đại học trên

địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay. 61

3.2. Khái quát về các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định. 67

3.3. Đánh giá về quá trình xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại học trên địa

bàn tỉnh Bình Định hiện nay. 71

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ XÂY DỰNG

NHÂN CÁCH SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TRÊN ĐỊA BÀN

TỈNH BÌNH ĐỊNH HIỆN NAY. 105

4.1. Một số phương hướng cơ bản để xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại

học trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay. 105

4.2. Một số giải pháp cơ bản để xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại học

trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay. 112

KẾT LUẬN 134

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 136

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 137

PHỤ LỤC 146

pdf158 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 486 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rường có hệ thống giảng đường với hơn 100 phòng học, có sức chứa khoảng 50 đến 100sv/ phòng. Có hai trung tâm thí nghiệm thực hành với gần 100 phòng, mỗi phòng có diện tích 50m2. Có một Trung tâm Nghiên cứu và Thực nghiệm Sinh học với diện tích gần 3000m2. Trường có 6 khu Ký túc xá cho sinh viên ở với sức chứa khoảng 4000 người. Có 2 Trung tâm phục vụ ăn uống cho sinh viên. 69 Với những thành tích nổi bật như trên, trường đã được tặng thưởng nhiều bằng khen, cờ thi đua của các cấp, đặc biệt được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương Lao động hạng ba (1992), hạng hai (1997) và hạng nhất (2002), huân chương Độc lập hạng ba (1997). Hơn 35 năm qua, Trường Đại học Quy Nhơn đã không ngừng phấn đấu vươn lên để trở thành một trường đa ngành, một trung tâm nghiên cứu ứng dụng và triển khai các lĩnh vực khoa học – công nghệ, trung tâm văn hóa, giáo dục của khu vực Duyên hải Nam Trung bộ và tây Nguyên. 3.2.2. Trường đại học Quang Trung Trường đại học Quang Trung được thành lập theo Quyết định số 62/QĐ- TTg ngày 17/3/2006 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là kết quả của việc thực hiện sự chỉ đạo của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh Bình Định về chính sách xã hội hóa giáo dục và đào tạo của Đảng, Nhà nước ta. Với mong muốn góp phần vào sự nghiệp giáo dục chung của toàn xã hội cũng như tạo ra một lực lượng tri thức có chất lượng cao phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa phương và cả nước. Trường đại học Quang Trung ra đời với mong muốn là nơi tạo ra sự thu hút về giáo dục và đào tạo trình độ cao đẳng, đại học ở khu vực miềm Trung và Tây nguyên. Đó là hướng đến việc đào tạo gắn với nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và xây dựng một môi trường dạy - học văn minh, hiện đại. Ngoài ra, trường đại học Quang Trung thực hiện cam kết với người học là xây dựng một trường học thân thiện nhằm giúp cho người học phát huy được tư duy năng động, sáng tạo trong học tập và tự mình hoàn thiện về các kỹ năng ngành nghề, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng sống. Từ ngày đầu thành lập đến nay, ban đầu với vài chục cán bộ, giảng viên cơ hữu, đến nay trường đã có hơn 300 cán bộ, giảng viên cơ hữu trong đó có 265 giảng viên hợp đồng dài hạn gồm 2 GS, 14 PGS, 19 TS, 115 thạc sĩ, 115 cử nhân. Với sự nổ lực không ngừng của tập thể lãnh đạo trường cũng như 70 chính sách tuyển dụng và ưu đãi đúng đắn, hợp lý nhà trường đã tạo ra được đội ngũ cán bộ, giảng viên vừa đảm bảo về mặt số lượng cũng như chất lượng đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ đào tạo đã đặt ra. Trong ngần ấy năm, vừa thực hiện nhiệm vụ đào tạo vừa thực hiện nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị nhằm đảm bảo sự ổn định, thống nhất về mặt tư tưởng trong chỉ đạo và triển khai các nhiệm vụ của nhà trường. Ban đầu, nhà trường chỉ có 01 chi bộ Đảng với 12 đảng viên, sau thời gian 7 năm, nhà trường đã có 01 Đảng bộ với 10 chi bộ, gần 150 đảng viên. Dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng cũng như của Đảng bộ, từ ngày đầu thành lập trường đến nay, hệ thống chính trị Đảng, công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên đều nhận được bằng khen của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân, Tỉnh đoàn Bình Định. Từ khi có quyết định thành lập, Trường đã bắt tay ngay vào việc tuyển sinh và đào tạo. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng được sự tạo điều kiện tối đa của Tỉnh ủy, Ủy ban nhan dân tỉnh Bình Định, nhà trường đã nổ lực không ngừng và từng bước tạo ra được một cơ sở vật chất phục vụ cho việc đào tạo khá vững chắc, ổn định. Hiện nay, nhà trường đã có được 2 cơ sở đào tạo: Một cơ sở đào tạo chính có diện tích hơn 10 ha với 2 khu giảng đường 5 tầng tương ứng trên 60 lớp học (sức chứa khoảng 1 vạn sinh viên/ngày), có trung tâm thí nghiệm thực hành; có hệ thống thư viện điện tử và truyền thông. Cơ sở 2 đặt tại trung tâm thành phố Quy Nhơn với diện tích hơn 1300m2, có 6 phòng học, dự kiến xây dựng ngôi nhà 9 tầng với khoảng 100 phòng học để phục vụ đào tạo sau đại học và không chính quy. Với mục tiêu hướng tới đào tạo được những cử nhân có chất lượng cao đáp ứng yêu cầu sự phát triển kinh tế của địa phương và các tỉnh miền Trung và Tây nguyên, nhà trường đã tập trung đào tạo các ngành như: Tài chính ngân hàng, Quản trị nhân lực, Quản trị kinh doanh, Kinh tế, Kế toán, Kinh tế nông nghiệp, Quản trị du lịch, Công nghệ thông tin, Xây dựng.v.v Nhằm 71 đa dạng hóa trình độ đào tạo, nhà trường đã liên kết với một số trường đại học trên cả nước đào tạo trình độ Thạc sĩ về các ngành Ngôn ngữ Anh, Kinh tế phát triển, và Hóa học. 3.3. Quá trình xây dựng nhân cách sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định hiện nay 3.3.1. Đối với việc xây dựng mặt năng lực cho sinh viên 3.3.1.1. Xây dựng hoạt động học tập Hoạt động học tập là thuật ngữ dùng để chỉ việc con người tiến hành sự nhận thức và cải tạo, biến đổi thế giới nhằm phục vụ cho mục đích nhất định của xã hội loài người. Hoạt động học tập là nhu cầu khách quan của sự tồn tại, vận động, phát triển của xã hội. Hoạt động học tập của sinh viên là một quá trình diễn ra trong thời gian học đại học mà mỗi sinh viên tích cực chiếm lĩnh các khái niệm khoa học dưới sự hướng dẫn của thầy, cô giáo. Việc chiếm lĩnh các khái niệm khoa học là cơ sở để bản thân mỗi sinh viên có sự hiểu biết về thế giới nhanh nhất, đúng đắn nhất từ đó tìm tòi, tạo ra những tri thức mới vận dụng vào thực tế nhằm thực hiện việc cải tạo thế giới. Hoạt động học tập của sinh viên ngoài việc chiếm lĩnh tri thức về thế giới còn là quá trình rèn luyện và hình thành nhân cách. Học tập giúp sinh viên khám phá để hiểu biết về thế giới, đánh giá được năng lực của mình, rèn luyện phẩm chất đạo đức, chính trị, tư tưởng.v.v Hoạt động học tập là thước đo chủ yếu về mặt năng lực của sinh viên. Quá trình đào tạo ở trường đại học cũng là nhằm xây dựng cho sinh viên có năng lực chuyên môn tốt nhất để sẵn sàng tham gia giải quyết các vấn đề của xã hội. Để thấy được thực trạng năng lực của sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định, chúng tôi tiến hành khảo sát điểm tuyển sinh đầu vào của các khoá học từ năm 2007 đến 2010 (xem phụ lục 1). Với kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy mức điểm chuẩn tuyển sinh ở trường đại học 72 Quy Nhơn ở mức độ Trung bình khá, còn đối với trường đại học Quang Trung là ở mức độ Trung bình. Là các trường đại học địa phương ở khu vực miền Trung nên có nhiều hạn chế, khó khăn nhất định trong công tác tuyển sinh, đạo tạo và điều này có ảnh hưởng rất lớn đến việc đào tạo năng lực học tập và các kỹ năng khác cho các em. Để khắc phục những khó khăn và hạn chế này, các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định đã rất quan tâm đến việc nâng cao chất lượng đào tạo nhằm từng bước cải thiện năng lực cho sinh viên. Hằng năm, các trường đại học đã có sự đầu tư mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, thực hành của sinh viên và xem đây là một trong những giải pháp cơ bản nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo đối với các trường đại học ở các địa phương. Đầu mỗi năm học, các trường đại học đã có những văn bản yêu cầu các khoa trực tiếp đào tạo và quản lý sinh viên phải xây dựng kế hoạch đào tạo chi tiết; phân công những cán bộ giảng dạy đúng chuyên môn đào tạo, có trình độ cao, có uy tín trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học đảm trách những học phần chuyên ngành và những học phần liên quan đến nghiên cứu khoa học của sinh viên. Đối với những giảng viên trẻ, chuyên môn chưa tốt, ít kinh nghiệm thì đề nghị đảm nhiệm những công việc phù hợp, tích cực dự giờ, đọc tài liệu để soạn bài thực hiện đánh giá góp ý ở cấp Tổ bộ môn trước khi lên lớp. Đối với sinh viên năm thứ nhất, ngay khi vào nhập học, trường đại học Quy Nhơn đã bố trí một tuần đầu tiên để Đảng uỷ, Ban Giám hiệu nói chuyện với sinh viên về định hướng phát triển của nhà trường, về các chế độ chính sách của Bộ Giáo dục và Đào tạo, của nhà trường dành cho sinh viên; các phòng ban chức phổ biến nội quy, quy chế nhà trường, quy chế giảng viên, quy chế sinh viên; phổ biến nội dung, chương trình đào tạo, kế hoạch học tập và nghiên cứu khoa học dành cho sinh viên. Về phía các khoa trực tiếp đào tạo và quản lý sinh viên thường tổ chức buổi trao đổi, truyền đạt về kinh 73 nghiệm học tập cho sinh viên năm thứ nhất. Đối tượng được chọn để trực tiếp trao đổi và truyền đạt kinh nghiệm học tập cho sinh viên năm thứ nhất là những sinh viên năn hai, năm ba, năm tư có thành tích tốt trong học tập, nghiên cứu khoa học và những giảng viên trẻ trưởng thành từ môi trường học tập tại trường. Đây là một hình thức sinh hoạt truyền thống nhưng rất có hiệu quả về mặt tâm lý và hiệu ứng lan truyền trong học tập của sinh viên. Để tạo ra sân chơi nhằm thu hút sinh viên vào các hoạt động học tập tự giác, sáng tạo các khoa quản lý sinh viên thường giao cho Phó trưởng khoa phụ trách công tác sinh viên phối hợp với Liên chi đoàn thành lập Câu lạc bộ học tập theo từng chuyên ngành đào tạo như: Câu lạc bộ Thơ văn (khoa Văn), Câu lạc bộ Toán học trẻ (khoa Toán), Câu lạc bộ khoa học Mác – Lênin (khoa GDCT & QLNN), Câu lạc bộ Hoá học (khoa Hoá học) v.v bên cạnh đó, các Câu lạc bộ này còn có những hình thức sân khấu hoá các chương trình học tập như: Chương trình Rung chuông vàng; Chương trình Đố vui để học; Đường đến vinh quang; Học mà chơi, chơi mà học, .v.v chính những sân chơi này thông qua hình thức sân khấu hoá đã làm cho sinh viên thích thú, tích cực tham gia một cách tự nguyện. Điểm tích cực của các sân chơi này là tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của sinh viên trong việc tìm kiếm, thu thập tư liệu, tự khám phá tri thức mới và thông qua đó là cơ hội để thể hiện bản thân trước tập thể cũng như sự học hỏi lẫn nhau về tri thức. Nhằm phát huy vai trò của tổ chức Đoàn trong trường đại học, nhà trường đã chỉ đạo và tạo điều kiện cho Đoàn thanh niên tổ chức các hoạt động vui chơi nhằm bổ trợ cho việc học tập của sinh viên. Trong thời gian qua, Đoàn trường đã tổ chức nhiều mô hình, phong trào học tập hiệu quả như: Giờ học tốt, tuần học tốt, hội nghị học tốt (17 hội nghị/năm), diễn đàn trao đổi phương pháp học tập, chia sẻ tài liệu học tập,.v.v ngoài ra, các cuộc thi: Nhà sử học thông thái, Hát tiếng nước ngoài, Sáng tạo robocon, Giải toán sơ cấp, Sáng tác thơ văn.v.v..đều được tổ chức hằng năm. 74 Đối với sinh viên, chúng tôi thực hiện việc khảo sát về động cơ chọn nghề; về thái độ, mức độ quan tâm đối với việc học nhằm nêu lên thực trạng học tập của các em. Về động cơ chọn nghề, chúng tôi phát phiếu thăm dò với 500 phiếu cho sinh viên trường đại học Quy Nhơn và 300 phiếu cho sinh viên trường đại học Quang Trung (xem phụ lục 2). Trên cơ sở của kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy động cơ chọn nghề của sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định về cơ bản là theo sở thích và xu hướng nghề nghiệp sau này (63.56%); mức độ tiếp theo là chịu ảnh hưởng của ba mẹ, bạn bè, người thân (19,41%); số ít là do điều kiện kinh tế gia đình khó khăn (14,57%). Về thái độ, mức độ quan tâm đối với việc học, chúng tôi phát phiếu thăm dò cũng với tỉ lệ khảo sát ở câu hỏi trên cho sinh viên trường đại học Quy Nhơn và sinh viên trường đại học Quang Trung (xem phụ lục 2). Trên cơ sở của kết quả khảo sát, chúng tôi nhận thấy mức độ quan tâm của sinh viên đối với việc học về cơ bản là ở mức độ trung bình khá, cụ thể: có 56,47% sinh viên trả lời là dành ra 3-4 giờ cho việc tự học ở nhà; 67,40% quan niệm việc học ở trên lớp là rất quan trọng; 61,15% chăm chú nghe Thầy/Cô giảng bài trên lớp. Điều này cho thấy các em ý thức rõ về nhiệm vụ chính của mình ở trường đại học là học tập. Trên cơ sở của việc khảo sát điểm tuyển sinh đầu vào ở một số khoá học và trải qua 4 năm đào tạo ở môi trường đại học, chúng tôi dẫn ra kết quả học tập của sinh viên ở các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định để phần nào thấy được năng lực học tập của sinh viên cũng như việc chủ thể giáo dục thực hiện vai trò quản lý giáo dục (Xem phụ lục 3) Như vậy, so sánh giữa kết quả tuyển sinh đầu vào và kết quả đầu ra của sinh viên qua 4 năm học tập, chúng tôi nhận thấy năng lực học tập của sinh viên ở trường đại học Quy Nhơn lúc mới tuyển vào là ở mức độ Trung bình – Trung bình Khá, tuy nhiên, qua 4 năm đào tạo thì năng lực học tập của sinh viên có sự thay đổi theo chiều hướng tiến bộ. Đó là, tỉ lệ số sinh viên tốt 75 nghiệp đạt loại Khá là chủ yếu. Đối với trường đại học Quang Trung thì năng lực học tập cũng có những thay đổi nhất định, vì đa số là ở mức Trung bình khá.  Một số đánh giá + Ưu điểm - Thông qua những buổi gặp gỡ, nói chuyện, sinh hoạt đầu năm của các đơn vị phòng ban, trung tâm, khoa, đoàn thanh niên đã giúp cho sinh viên có được niềm tin về nhà trường, có sự phấn khởi ngay từ những ngày đầu học tập tại trường. Điều này giúp các em có được sự tự tin trong học tập cũng như có động lực phấn đấu vươn lên trong học tập. - Sự tiến bộ về kết quả học tập của sinh viên trong thời gian học tập ở trường cũng đồng nghĩa với sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng ủy đối với nhà trường là đúng đắn. Sự phối hợp giữa các Phòng ban, Trung tâm, Khoa đào tạo trong việc xây dựng nội dung hoạt động về học tập cho sinh viên là phù hợp với nhu cầu của các em; sự nổ lực không ngừng và tinh thần trách nhiệm cao của đội ngũ giảng viên trong quá trình dạy học. - Các Khoa đào tạo và quản lý sinh viên cùng với Liên chi đoàn, Liên chi hội sinh viên đã có sự đa dạng hóa về mặt nội dung và hình thức trong việc tổ chức hoạt động học tập của sinh viên. Điều này đã tạo ra sự sáng tạo, linh hoạt trong hoạt động đào tạo tri thức cho sinh viên. + Hạn chế - Mặc dầu các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định đã có những buổi gặp gỡ, nói chuyện, sinh hoạt đầu năm của các đơn vị Phòng ban, Trung tâm, Khoa đào tạo, Đoàn thanh niên với sinh viên là cần thiết, tuy nhiên không nên chỉ dừng lại ở đó mà cần phải xây dựng được những nội dung, kế hoạch có tính chất định kỳ, lâu dài về hoạt động này và cần phải chú trọng vào việc xây dựng ý thức học tập, mục đích học tập, động cơ học tập cho sinh viên - Các hoạt động của các Khoa đào tạo, Liên chi đoàn, Liên chi hội sinh viên mặc dầu được duy trì thường xuyên nhưng do chưa được đầu tư nhiều về 76 mặt chuyên môn, cho nên các nội dung sinh hoạt chưa gắn kết với chương trình đạo tạo của từng chuyên ngành. Chính điều này đã dẫn đến những hạn chế nhất định về các hoạt động bổ trợ cho việc học tập của sinh viên. - Các trường đại học chưa thật sự quan tâm đến việc giáo dục và đào tạo cho sinh viên về tinh thần ý thức vươn lên trong học tập; các hoạt động của nhà trường nhìn chung vẫn còn thực hiện theo cách làm cũ mà chưa có sự đầu tư, tìm tòi cách làm mới phù hợp với người học cũng như đối với yêu cầu đào tạo hiện nay của xã hội. + Nguyên nhân của ưu điểm - Được sự chỉ đạo kịp thời của đảng ủy, các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định đã có những nổ lực nhất định trong việc triển khai các hoạt động nhằm đảm bảo các cam kết về chất lượng đào tạo cũng như thực hiện sự giúp đỡ sinh viên trong quá trình học tập. - Nhờ có sự quan tâm của Chi bộ, Lãnh đạo khoa và thực hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa Khoa, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên mà các hoạt động hổ trợ học tập cho sinh viên được tổ chức thường xuyên. - Việc sinh viên có những thay đổi về hoạt động học tập theo chiều hướng tiến bộ là có sự nổ lực, cố gắng không ngừng của chính bản thân các em sinh viên. Đa số sinh viên các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định xuất thân từ nông thôn và có hoàn cảnh khó khăn nên ngay từ đầu các em đã có ý thức về việc học tập ở môi trường đại học. + Nguyên nhân của hạn chế - Các trường đại học chưa xây dựng được những nội dung, kế hoạch có tính chất định kỳ, lâu dài về hoạt động sinh hoạt đầu năm với sinh viên cũng như chưa chú trọng vào việc xây dựng ý thức học tập, mục đích học tập, động cơ học tập cho sinh viên là do chưa thật sự coi trọng nội dung này và phó thác cho giảng viên. 77 - Các hoạt động của các Khoa đào tạo, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên vẫn chưa được đầu tư nhiều về mặt chuyên môn là do việc tổ chức và duy trì các hoạt động này còn gặp nhiều khó khăn về mặt tài chính, thời gian và các giảng viên đứng ra tổ chức các hoạt động này là kiêm nhiệm nên không mang tính chuyên nghiệp. 3.3.1.2. Xây dựng tính linh hoạt, năng lực thích ứng và sáng tạo Linh hoạt là thuật ngữ dùng để chỉ sự nhanh, nhạy trong việc xử trí, ứng phó cho phù hợp với tình hình thực tế, không cứng nhắc về nguyên tắc. Như vậy, tính linh hoạt của sinh viên chính là chỉ cho sự nhanh, nhạy trong xử trí, ứng phó của sinh viên về các mặt học tập, nghiên cứu khoa học, giao tiếp.v.v cho phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra. Năng lực là thuật ngữ dùng để chỉ khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Còn thích ứng là thuật ngữ dùng để chỉ việc con người có những thay đổi cho phù hợp với điều kiện mới, yêu cầu mới. Như vậy, Nói đến năng lực thích ứng của sinh viên là nói đến khả năng của sinh viên trong việc vận dụng những kiến thức đã được học nhằm thực hiện sự thay đổi nào đó trong học tập, nghiên cứu khoa học.v.v để cho phù hợp với điều kiện mới, yêu cầu mới. Năng lực thích ứng là một trong những phẩm chất rất cần thiết đối với mỗi sinh viên hiện nay. Bởi vì, dưới sự tác động tích cực và tiêu cực của nền kinh tế thị trường, xã hội Việt Nam hiện nay đang trong giai đoạn thay đổi mạnh mẽ về nhiều mặt. Những cái cũ không còn phù hợp đang bị thay thế bởi cái mới tiến bộ hơn. Điều này đòi hỏi bản thân mỗi sinh viên trong quá trình học tập phải biết gạt bỏ những suy nghĩ cũ, cách nghĩ cũ để thay bằng những suy nghĩ mới, cách nghĩ mới tích cực hơn phù hợp với sự vận động của xã hội. Năng lực sáng tạo là nhằm nói đến khả năng tìm ra cái mới, cách giải quyết mới mà không bị gò bó, phụ thuộc vào cái đã có. Năng lực sáng tạo là phẩm chất hàng đầu của mỗi sinh viên trong quá trình học tập. Tính sáng tạo 78 trong học tập của sinh viên luôn được thể hiện trong suốt thời gian học đại học và ở tất cả các khâu: chọn môn đăng ký để học, tìm tài liệu của môn học, xác định cách thức học tập môn học, thi kiểm tra hết môn, làm bài tập môn học, nghiên cứu khoa học, .v.v Trong thực tế của quá trình đào tạo, các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định cũng đã có sự quan tâm đến việc xây dựng và rèn luyện cho sinh viên về những năng lực này. Trong phương hướng lãnh đạo công tác đào tạo hằng năm cũng như theo nhiệm kỳ của Đảng uỷ đối với nhà trường, Đảng uỷ đã đặt ra nhiệm vụ cho nhà trường là phải coi trọng và thực hiện việc giáo dục để tiến tới hình thành năng lực cho sinh viên. Thực hiện sự chỉ đạo đó, nhà trường đã cụ thể hóa những nội dung này trong nhiệm vụ trọng tâm của Báo cáo tổng kết và phương hướng, nhiệm vụ năm học hằng năm. Nhằm tăng cường hoạt động khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên trong nghiên cứu khoa học, trong các cuộc họp định kỳ giữa Ban Giám hiệu và các trưởng khoa, nhà trường đã yêu cầu các khoa đăng ký bằng văn bản gửi nhà trường về hoạt động Sêmina của giảng viên hằng năm và yêu cầu các buổi Sêmina của giảng viên phải thông báo cho sinh viên biết để tham dự. Với sự quan tâm này của nhà trường, thông qua hoạt động ngoại khoá, sinh viên đã được trải nghiệm thực tế về nghiên cứu khoa học cũng như tinh thần khoa học của giảng viên. Đây chính là sự truyền cảm hứng từ người dạy sang người học nhanh nhất, thực tế nhất, hiệu quả nhất về hoạt động nghiên cứu khoa học. Ngoài ra, những hoạt động này còn là sợi dây gắn kết niềm đam mê khoa học giữa thầy và trò, tạo ra sự gần gũi, sự tự tin trong giao tiếp. Bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm mục đích hướng tới rèn luyện năng lực cho sinh viên, nhà trường đã yêu cầu Đoàn thanh niên, Hội sinh viên hằng năm tổ chức các hoạt động sinh hoạt ngoại khoá để tạo ra sân chơi thu hút sinh viên tham gia. Cụ thể, Đoàn trường đã tổ chức các hoạt động như: Tôi là Bí thư chi đoàn giỏi; Lớp trưởng quản lý lớp giỏi; Sinh viên ứng 79 xử giỏi; Sinh viên học một nghề biết nhiều nghề.v.v Các hoạt động này đã góp phần vào việc giáo dục và rèn luyện năng lực thích ứng, linh hoạt cho sinh viên. Theo dõi các cuộc thi, chúng tôi phỏng vấn sinh viên Nguyễn Thị Thu Trang lớp Tài chính ngân hàng khoá 33 với câu hỏi: Em nhận thức như thế nào về cuộc thi Sinh viên ứng xử giỏi? Trả lời: thông qua cuộc thi, chúng em có cơ hội để thể hiện mình và đánh giá được bản thân mình một cách đúng đắn nhất về những kỹ năng mà mình cần có để từ đó có ý thức hơn trong việc rèn luyện. Ngoài ra, chúng tôi thực hiện sự khảo sát đối với sinh viên về những năng lực đã nêu ở trên để có thêm thông tin đánh giá từ phía sinh viên vừa là đối tượng, vừa là chủ thể trong việc xây dựng nhân cách sinh viên. Chúng tôi thực hiện sự khảo sát về tính linh hoạt của sinh viên với bảng hỏi (Xem Phụ lục 4). Kết quả khảo sát đo được về tính linh hoạt của sinh viên là 62,3%. Theo chúng tôi, đây là mức độ trung bình khá đối với sinh viên đang theo học ở trường đại học. Nhằm phát huy năng lực này cho sinh viên, các trường đại học trên địa bàn tỉnh Bình Định cần tăng cường nhiều biện pháp giáo dục, rèn luyện để tính linh hoạt trở thành là một trong những năng lực thường xuyên ở sinh viên. Về năng lực thích ứng, chúng tôi khảo sát sinh viên khoá 35 với bảng câu hỏi (xem phụ lục 4). Với kết quả thu được phản ánh việc sinh viên biết chuẩn bị những điều kiện cần cho ngành nghề của mình trong tương lai là ở mức độ cao: học thêm tin học 83,92%, học thêm ngoại ngữ 87,31%; Với câu hỏi về nguyên nhân làm thêm của sinh viên đã nhận được kết quả 57,23% trả lời cho lý do có thêm thu nhập để trang trải việc học, 11,44% kiểm tra kiến thức đã học vào thực tế công việc, 13,21% có thêm tiền để mua tài liệu học tập.v.v Điều này cho thấy sinh viên hiện nay đã có nhiều suy nghĩ tích cực gắn liền với hoạt động học tập ở trường đại học, đó là: biết chia sẽ với gia đình về khó khăn tài chính, muốn có nhu cầu khẳng định bản thân, biết thoả 80 mãn nhu cầu chính đáng của mình bằng sức lao động của mình.v.v Trên cơ sở tích cực của tính linh hoạt ở sinh viên, theo chúng tôi, điều quan trọng của giáo dục đại học hiện nay là cần tập trung bồi dưỡng và phát huy năng lực thích ứng cho sinh viên và làm cho năng lực này trở thành kỹ năng để các em có thể tự mình giải quyết được những vấn đề mà cuộc sống đặt ra. Về năng lực sáng tạo của sinh viên, chúng tôi thực hiện sự đánh giá trên cơ sở của hoạt động nghiên cứu khoa học các cấp ở trường đại học mà sinh viên tham gia. Bởi vì, tính sáng tạo của sinh viên luôn được thể hiện trong các hoạt động liên quan đến việc học tập của sinh viên. Tuy nhiên, tính sáng tạo thể hiện tập trung nhất, đặc trưng nhất thông qua hoạt động nghiên cức khoa học. Chúng tôi xin dẫn ra kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên ở trường đại học Quy Nhơn và trường đại học Quang Trung trong những năm gần đây (xem phụ lục 5) Trường đại học Quy Nhơn, năm học 2008 – 2009 có 38 đề tài được thực hiện, trong đó gửi đi dự thi ở cấp Bộ là 8 đề tài; năm học 2009 – 2010 có 42 đề tài được thực hiện, trong đó gửi đi dự thi cấp Bộ là 4 đề tài; năm học 2010 – 2011 có 75 đề tài được thực hiện, trong đó gửi đi dự thi ở cấp Trường là 25 đề tài, gửi dự thi Giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt nam là 6 đề tài; năm học 2011 – 2012 có 59 đề tài được thực hiện, trong đó gửi đi dự thi ở cấp Trường là 19 đề tài, gửi dự thi Giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt nam là 7 đề tài; năm học 2012 – 2013 có 78 đề tài được thực hiện, trong đó gửi đi dự thi ở cấp Trường là 20 đề tài, gửi dự thi Giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt nam là 5 đề tài; năm học 2013 – 2014 có 76 đề tài được thực hiện, trong đó gửi đi dự thi ở cấp Trường là 20 đề tài, gửi dự thi Giải thưởng Tài năng khoa học trẻ Việt nam là 5 đề tài. Như vậy, từ năm 2008 đến năm 2014 số lượng đề tài nghiên cứu khoa học của sinh viên ở trường đại học Quy Nhơn có tăng nhưng so sánh với số lượng sinh viên đang theo học tại trường thì việc nghiên cứu khoa học còn rất 81 khiêm tốn. Theo quy định của trường chỉ có sinh viên năm thứ ba và thứ tư mới được thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học. Số lượng sinh viên của năm thứ ba và năm thứ tư của trường theo mỗi năm học có khoảng 8.000 sinh viên.  Một số đánh giá + Ưu điểm - Việc xác định được những nội dung cụ thể trong xây dựng tính linh hoạt, năng lực thích ứng và sáng tạo cho sinh viên của các trường đã thể hiện tính đúng đắn trong công tác giáo dục và đào tạo sinh viên hiện nay. Điều này giúp cho sinh viên trong suốt quá trình học tập ở trường đại học hình thành được những năng lực cần thiết trước yêu cầu của ngành nghề mà mình được đào tạo. - Việ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_xay_dung_nhan_cach_sinh_vien_cac_truong_dai_hoc_tren.pdf
Tài liệu liên quan