Với kết quả điều tra như vậy, nếu so với các vùng dân ca khác như dân ca
Quan họ Bắc Ninh, dân ca vùng đồng bằng Bắc Bộ, dân ca Nghệ Tĩnh, dân ca
Nam Bộ, thì âm vực ở đây hẹp hơn rất nhiều. Đơn cử như so sánh với dân
ca Quan họ Bắc Ninh do Nguyễn Trọng Ánh đã tổng hợp trên 60 bài dân ca
Quan họ, trong đó âm vực hẹp hơn quãng 8 chỉ chiếm tỉ lệ 3,33% [8, tr.101].
Những bài dân ca xứ Thanh có âm vực hẹp (trong phạm vi 1 quãng 8) đa số
được diễn xướng theo hình thức tập thể, vì vậy âm vực không rộng là điều dễ
hiểu. Các bài ca có âm vực rộng hơn 1 quãng 8 thường là những bài hát có
đặc điểm co dãn và dàn trải về nhịp điệu, được cá nhân diễn xướng miêu tả
cảm xúc mạnh mẽ. Qua đó cho thấy, dân ca xứ Thanh chú trọng tới phương
thức diễn xướng mang tính tập thể, cộng đồng nhiều hơn phương thức diễn
xướng mang tính đơn lẻ.
127 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 399 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ống trò Rủn (Viên Khê) được ghi lại như sau:
Thời Lê Sơ còn có ông Nguyễn Mộng Tuân, sinh ra tại làng Viên Khê là
công thần khai quốc của nhà Lê, ông là người làm thơ - phú rất giỏi. Khi
48
về trí sĩ tại quê nhà ông đã truyền dạy lại cho dân làng các điệu múa Xiêm
Thành, Hoa Lang, Tú Huần, Ngô Quốc. Khi ông mất, dân làng xây đền thờ
ông làm Thành Hoàng và khi có lễ hội dân làng lại trình diễn bốn trò này
trên nền áng của làng. [44, tr.28]
Trích dẫn trên đây là một minh chứng cho sự du nhập một số trò diễn từ hệ
thống trò Xuân Phả (thời Lê), sang hệ thống trò Viên Khê. Những ảnh hưởng
từ yếu tố cung đình được thể hiện qua ngôn từ nho giáo trong lời ca, động tác
diễn có phong cách,... Sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố dân gian và cung đình
được nâng cao rõ rệt với đa dạng các nhân vật: mẹ Mõ, cu Nhớn, (trò
Trống Mõ); cô đĩ, thầy địa lý, thầy thuốc, Ngô già (người Tàu), chú Khách
(người Tàu), người nông dân (trò Ngô); Tiên, Cuội (trò Tiên Cuội); Âm
nhạc dân gian cũng từ đó mà phát triển phong phú, đa dạng hơn.
Như vậy, trò diễn dân gian Thanh Hoá vận động phát triển theo quy luật tự
nhiên, từ đơn giản đến phức tạp, từ thô phác đến phong phú, sinh động,
Nếu lấy hệ thống Xuân phả làm mốc về sự ảnh hưởng yếu tố nghệ thuật cung
đình, sẽ thấy từ đó nó tiếp tục được vận động, nâng cao khi du nhập sang các
làng trò khác (đặc biệt là các làng lân cận và các làng có công thần triều Lê).
Như vậy, qúa trình vận động của trò diễn dân gian xứ Thanh theo chiều
hướng xoay vòng, từ dân gian du nhập vào cung đình, rồi từ cung đình lại
quay trở lại dân gian. (Dân gian (thô phác, đơn giản) => cung đình => dân
gian (nâng cao))
2.2. Nội dung lễ hội qua ngôn ngữ thơ ca
Âm nhạc dân gian xứ Thanh, đặc biệt là âm nhạc trong các trò diễn, diễn
xướng gắn với tín ngưỡng thờ Thần. Do vậy, nội dung ca ngợi công đức của
Thần, chúc mừng văn võ bá quan chiếm phần rất lớn.
49
Câu hát chúc sau đây xuất hiện ở một số trò diễn như bài hát trong điệu
múa Ngô Quốc - trò Xuân Phả; hát chúc trong diễn xướng múa đèn Thiệu
Quang; Câu hát chúc này được hình thành trên vần thơ 7 từ.
Nhất bái cầu quốc gia trường trị
Kính chúc dâng thánh thọ vô cương
Phần lớn được hình thành ở thể thơ lục bát:
Chúc mừng văn võ hai hàng
Văn chiếm bảng vàng, võ chiếm quận công
(Trò Hà Lan)
Hoặc:
Chúc mừng quý xã ta nay
Văn võ hiền tài, chiếm bảng khôi khoa
(Trò Thủy - Đông Anh)
Các trò diễn phản ánh xứ thần sang cống tiến vua Đại Việt cũng được thể
hiện qua lời ca.
Thuyền tôi ở nước Hoa Lang
Tôi nghe đức chính tôi sang chèo chầu
(Trò Hoa Lang)
Trong Chèo chải thường có câu thơ phản ánh môi trường sông nước gắn
với nội dung lễ hội của làng mình.
Ta chèo một mái sang sông
Rước lấy đô đốc, quận công về đình
Hoặc:
Ta chèo một mái sang sông
Áo diều áo đỏ xuống sông ta chèo
Thời gian tế Thần cũng được thể hiện qua lời ca trong nhiều bài hát.
Hôm nay ngày kỵ đền ta
50
Đức Thánh đền Đún cả ba tổng thờ
Nối liền đền Đún Thành Hồ
Cái Hoa đường cũ, không mờ dấu xưa
(Trích Chèo chải - Vĩnh Lộc)
Hoặc:
Tháng giêng là tháng ăn chơi
Tháng hai tế tổ, ba (thời) dân biết dân
Tháng tư cầu phúc tế thần
Mở cho tất cả muôn dân vào chầu
(Trích Hát lịch trình)
Bên cạnh nội dung chúc tụng, tế thần, đời sống lao động của người dân
nông thôn cũng hiện lên khá rõ. Múa đèn Đông Anh miêu tả lại công việc
phải làm trong một năm của dân làng. Tháng giêng, tháng hai đi luống bông,
luống đậu; tháng ba, tháng tư đi vãi mạ, chẻ lạt đan lừ; tháng năm, tháng sáu
đi nhổ mạ; tháng bảy, tháng tám trong khi đợi lúa chín thì đi kéo sợi; tháng
chín, tháng mười đi gặt; cuối cùng là múa Đánh lá lật, cúng cơm mới và dâng
oản.
Nhiều bài ca còn nói lên công việc buôn bán làm ăn, thậm chí đã miêu tả
công việc phù hợp với từng giai đoạn.
Tháng tám quẩy gánh buôn hồng
Tháng chín buôn quýt, tháng mười buôn cau
Tháng một chợ Phủ buôn dầu
Tháng chạp buôn bấc, buôn trầu buôn hương
Tháng giêng xuôi tỉnh cân đường
Tháng hai tiện mía, tháng ba nạo dừa
(Trích trò Trống Mõ)
51
Chế độ phong kiến xưa cũng đã thịnh hành nghề đánh đồng thiếp (Trò
Thiếp, Kỳ Phúc - trò Triềng,). Đây là trò diễn phản ánh tập tục cầu cúng,
xin thẻ, lên đồng, làm phép, trong đó những thói hư tật xấu của “thầy” đã bị
nhân dân phản đối kịch liệt.
Thầy cả:
Thượng ngàn: một trâu, một dê, một lợn
Hạ đàn: chuối ba buồng, oản mười tám phẩm. Cứ thế mà dâng tiến.
Tín chủ:
Ới thầy! Thầy nghỉ tôi về.
(Trích Trò Thiếp)
Các trò diễn thường có phần giáo với ý nghĩa bắt đầu câu truyện. Giáo
được hình thành ở thể thơ 4 chữ, tiết tấu mang tính chu kỳ. Cũng có thể xen
kẽ giữa thơ 4 chữ và 5 chữ. Trò Tiên Cuội là một trò diễn được hư cấu giữa
người phàm trần với Tiên giới, trò diễn nói lên khát vọng vươn tới những điều
tốt đẹp trong đời sống của người dân nông thôn. Trò diễn được bắt đầu với
bài giáo Tiên ở thể thơ 4 chữ.
Kính trình làng xã
Thượng hạ các ngôi
Nhẫn lặng nghe tôi
Giáo Tiên một cách
Trong cuộc sống đời thường, không gắn với môi trường diễn xướng mang
tính lễ nghi. Người dân lao động thỏa sức sáng tạo, đối đáp với nhau trên
những ruộng lúa, nương dâu; trong làng ngoài ngõ; người trên bờ, người dưới
sông; bất cứ môi trường lao động nào cũng không ngăn cản được sự sáng
tạo của họ. Và chủ đề về tình yêu vẫn là nguồn cảm hứng chủ yếu, dẫn đến sự
ra đời nhiều bài hát Ghẹo có nội dung sâu sắc được mang tới lễ hội để trình
diễn, giao lưu.
52
Hôm qua tát mước đầu đình
Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen
Có được thời cho anh xin
Hay là em dấu làm thinh trong nhà
Áo anh rách
1
chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già không2 khâu
Nội dung về tình yêu còn được gắn với khung cảnh vua quan, là nội
dung cốt lõi dẫn đến lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh.
Em như cây bá cây tùng
Dầm dà3 đứng giữa sân rồng nhà vua
Em như cây quế nhà quan
Người thời ngắt ngọn người toan bẻ cành
Nhìn chung, nội dung bao trùm là sự ca ngợi công đức của các vị anh hùng,
thể hiện sự tôn sùng, kính trọng. Bên cạnh đó, các bài hát nói về đời sống lao
động, sinh hoạt, về phong tục cũng như những ước vọng của người dân nông
thôn cũng được phản ánh khá nhiều. Một bức tranh toàn cảnh về xã hội phong
kiến xưa được khắc họa sâu sắc trong âm nhạc dân gian của người Việt xứ
Thanh, trong đó có vua quan và có cả những người dân nông thôn trong đời
sống lao động.
2.3. Ý nghĩa, mục đích, vai trò của lễ hội
Lễ hội - một sinh hoạt văn hóa dân gian tồn tại theo truyền thống lâu đời
của dân tộc Việt Nam, là nơi tụ hội được nhiều tục lệ cổ liên quan đến Văn
hóa nghi lễ của dân tộc. Nói đến lễ hội là nói đến “hội hè đình đám”, nói đến
sinh hoạt văn hóa tinh thần của nhân dân. Lễ hội có sức hấp dẫn lôi cuốn mọi
1
Có dị bản hát là “đứt”
2
Có dị bản hát là “chưa”
3
Tiếng địa phương “dầm dà” có nghĩa là “xum xuê”
53
tầng lớp xã hội, trở thành một nhu cầu sinh hoạt văn hóa đối với tất cả mọi
người.
Tổ chức lễ hội là nguyện vọng của cả cộng đồng làng trong giai đoạn lịch
sử. Điều đó trở thành ý niệm sâu sắc tồn tại qua nhiều thời kỳ, tạo nên tập
quán riêng của từng vùng miền, từng lễ hội.
Mục đích đầu tiên của lễ hội là thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” -
một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Điều đó thể hiện qua những
thủ tục nghi lễ như rước kiệu, rước thánh thẻ, thắp hương, cung tiến,... nhằm
phô trương danh thế của Đức Thánh. Việc lập đền thờ hàng năm mở hội tế
Thần thể hiện sự kính trọng, mến phục, là niềm tự hào của cả cộng đồng làng.
Lễ hội tạo ra hiện tượng văn hóa làm sống lại tinh thần yêu nước dân tộc, ôn
lại quá khứ hào hùng của dân tộc, ca ngợi công đức của Thần, đồng thời cầu
mong mưa thuận gió hòa, nhân khang vật thịnh.
Lễ hội là nơi linh thiêng mà tất cả mọi người trong làng đều phải tôn thờ.
Mỗi làng, mỗi hội lễ đều có sắc thái riêng, nhưng đều có cùng chung một ý
nghĩa là dẫn ta tới cội nguồn, nhớ lại những chiến công của các vị anh hùng
trong lịch sử hoặc trong truyền thuyết xa xưa đã được tâm thức của nhân dân
tôn vinh thành các bậc hiển thánh. Bên cạnh đó lễ hội còn giúp ta gợi lên sức
mạnh tâm linh, khiến cho bất cứ ai khi tới với lễ hội đều cảm thấy rằng các
Thần luôn ngự trị và chi phối công việc làm ăn của họ, vì vậy từ trong sâu
thẳm tâm hồn mỗi người đều cảm thấy rằng đến với lễ hội là được tiếp cận
với sự thiêng liêng, cao cả.
Lễ hội ở Thanh Hóa nhìn chung cũng mang những đặc điểm chung như lễ
hội ở những nơi khác nhưng mật độ lễ hội dày đặc hơn nhiều. Thanh Hóa là
nơi phát tích nhiều vương triều phong kiến trước đây, nhiều vua chúa qua các
thời kỳ mang tầm cỡ quốc gia dân tộc nên đã hình thành một hệ thống trò
diễn, diễn xướng với mục đích phục vụ cho các triều đại cũng như tiếp các xứ
54
thần, khách nước ngoài. Thanh Hóa cũng là vùng đất có nhiều đình chùa, đền
miếu, lăng tẩm thờ cúng các vị Tiên vương, Hoàng tộc, Thánh thần nên hệ
thống lễ hội rất phát triển - nơi có nhiều trò diễn và âm nhạc mang sắc thái
vùng miền. Điều đó được minh chứng trong hệ thống trò diễn ở mỗi làng quê.
Riêng làng Viên Khê đã có tới 13 trò; làng Triềng có 12 trò; [Hệ thống trò
diễn, PL1, tr.128].
GS. TS Phạm Minh Khang cho rằng: “So với cả nước thì vùng đất này có
nhiều trò diễn và hệ thống lễ hội vào bậc nhất từ những thời kỳ xa xưa”.4
Những nơi có hệ thống trò diễn đậm đặc hơn thường có sự kết hợp chặt chẽ
giữa lễ và hội. Trong hội những trò diễn, diễn xướng vẫn mang những nội
dung tế Thần với cách thức tổ chức chặt chẽ từ khâu tuyển lựa con trò đến
phương thức trình diễn.
Khi tổ chức lễ hội, tất cả mọi người trong cộng đồng làng đều háo hức
chuẩn bị. Từ Ban hành lễ đến những người phục vụ đều cảm thấy vinh dự và
tự hào khi được tham gia vào công tác tổ chức lễ hội. Là mảnh đất có nhiều
trò diễn, trước khi vào ngày hội chính thức việc lựa chọn con trò luyện tập
được coi như một khâu quan trọng. Kinh nghiệm chọn con trò theo tiêu chí:
“chọn con trò phải từ trên xuống, chọn người nấu cơm phải chọn từ dưới
lên”. Qua đó cho thấy, việc chọn con trò phải rất kỹ lưỡng, đề cao những bậc
cao niên. Thực tế qua điều tra, phỏng vấn cho thấy xưa kia khi mới ở tầm tuổi
thanh thiếu niên, chỉ được tham gia đóng những vai dễ, ít xuất hiện, khi lớn
tuổi hơn mới được đảm nhiệm những vai chính. Những người được chọn làm
con trò phải có gia đình êm ấm, hòa thuận, không có việc tang gia, đặc biệt là
ưu tiên cho nam giới còn nữ giới phải là gái thanh tân chưa lập gia đình. Điều
4
Trao đổi với GS. TS Phạm Minh Khang ngày 25 tháng 10 năm 2010 tại học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam
55
kiện đó đã hình thành nên nhiều gia đình có truyền thống “cha truyền con
nối” nhiều đời làm con trò.
Đến với lễ hội, dân làng phải chuẩn bị tất cả những gì đặc biệt nhất của
làng mình, cả về những sản phẩm vật chất và văn hóa tinh thần,. Tục lệ xưa
có nhiều loại, nhiều vẻ khác nhau, có nơi khá nặng nề, nhưng cũng có nơi
phong tục, tập quán, tục lệ đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực,
phản ánh khá rõ nét đời sống văn hóa địa phương.
Lễ hội ở đây là nơi hội tụ tinh hoa của cả làng, vì vậy, nó tạo ra một không
gian thiêng rộng lớn. Tất cả mọi người trong cộng đồng đều đắm mình trong
lễ hội để có được những phút thăng hoa, giải tỏa tâm lý, tinh thần sau một chu
kỳ lao động vất vả.
Ngày nay, những hình thức tưởng niệm, hành hương được thực hiện với
nhiều phương diện khác nhau, đã có những đổi mới nhất định nhưng cơ bản
vẫn không xa rời truyền thống, với những người có công dựng nước và giữ
nước. Tổ chức lễ hội trên nền tảng lễ hội truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc
nhằm tôn vinh, thờ phụng Thần, hướng tới cuộc sống bình yên của cả cộng
đồng. Lễ hội tan, dân làng được giải tỏa tâm lý, yên tâm bước vào một năm
sản xuất mới với niềm tin rằng Thần luôn bên cạnh, bảo hộ cho cộng đồng
làng một cách bền vững.
56
Tiểu kết chương 2
Là vùng đất có vị trí địa lý phức tạp - nơi tiếp giáp giữa “đàng trong” và
“đàng ngoài” đã tạo cho Thanh Hóa tiếp nhận nhiều luồng văn hóa khác nhau,
điều đó được phản ánh khá rõ trong âm nhạc dân gian. Bên cạnh đó, Thanh
Hóa còn có bộ phận âm nhạc mang đậm sắc thái vùng miền của quê hương
mình. Âm nhạc dân gian với đa dạng nhiều thể loại hầu như đều được đưa vào
diễn xướng trong lễ hội. Sự muôn màu muôn vẻ của dân ca đã phản ánh khá
rõ nét về truyền thống sinh hoạt văn hóa văn nghệ.
Âm nhạc trong lễ hội truyền thống của người Việt xứ Thanh có vai trò đặc
biệt quan trọng và không thể thiếu trong ý thức cộng đồng làng xã từ những
thời kỳ xa xưa. Cho đến nay, nét đẹp đó vẫn còn được duy trì ở nhiều nơi trên
địa bàn của tỉnh.
Nếu dân ca mang ý nghĩa trình diễn, giao lưu, giải trí, đua tài trong hội thì
nhạc lễ lại gắn bó chặt chẽ với những nghi thức tế lễ Thần linh qua các hình
thức cúng bái, thắp hương, cúng tiến, dâng lễ vật, Trong không gian linh
thiêng mang màu sắc huyền bí, những âm thanh đa dạng với những màu sắc
đặc trưng đó đã giúp cho con người cảm nhận được sự giao hòa với thần linh.
Mặc dù những cảm nhận đó chỉ là mơ hồ, hư hư thực thực, nhưng ai cũng tin
rằng thần linh đang ngự tại đây và có thể chi phối những công việc của họ.
Bên cạnh mục đích chính là tổ chức lễ hội để cúng tế thần linh. Đến với lễ
hội, người dân còn được trình diễn và thưởng thức nghệ thuật sáng tạo của họ,
trong đó có các trò diễn, diễn xướng, các làn điệu dân ca mà hàng ngày họ
vẫn say xưa sáng tạo trong qúa trình lao động. Đó chính là thành quả được
đúc kết trong quá khứ, tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
57
CHƯƠNG 3
ÂM NHẠC TRONG LỄ HỘI
Quy mô tổ chức lễ hội của người Việt xứ Thanh cũng giống như lễ hội ở
những nơi khác, bao gồm hai phần cơ bản là lễ và hội. Tuy nhiên, lễ hội ở đây
có những đặc điểm khá nổi bật, và âm nhạc dân gian là một trong những nét
tạo nên sự nổi bật đó. Trong hành lễ, nhạc tế mang tính uy nghi, phục vụ cho
những nghi thức nghiêm trang, thành kính. Còn âm nhạc trong hội lại muôn
màu muôn vẻ với nhiều thể loại mang tính đặc trưng cho vùng miền xứ
Thanh.
3.1. Âm nhạc trong hành lễ
Trong hành lễ, nhạc tế đóng vai trò quan trọng cho việc phục vụ các nghi
thức cúng tế Thành Hoàng, gắn bó chặt chẽ với từng nghi thức tế. Trải qua
bao biến cố thăng trầm của xã hội, nhiều nơi bây giờ không còn duy trì được
dàn nhạc tế. Những tư liệu thu thập được tuy không đầy đủ nhưng cũng đã
giúp chúng tôi nhận ra diện mạo về nhạc tế Thành Hoàng ở xứ Thanh.
3.1.1. Xướng lễ
Xướng lễ là những câu hô ngắn của đông xướng với mục đích điều khiển
hành lễ cho người chấp lễ thực hiện. Khi xướng lễ, người xướng phải đứng
nghiêm trang, cất giọng cao và khỏe. Âm điệu xướng lễ đơn giản, tiết tấu
chậm dãi kéo dài.
Qua khảo sát và tìm hiểu, mỗi nơi có một kiểu đọc khác nhau nhưng tập
trung nhất có hai khuynh hướng:
Khuynh hướng thứ nhất: Không tuân thủ theo thanh điệu tiếng nói phổ
thông
Đây là kiểu đọc trên nguyên tắc các thanh có âm điệu ngang nhau, tương
đương với cao độ của thanh không dấu (-). Những âm điệu luyến cũng được
58
thực hiện bắt đầu từ cao độ này. Nói cách khác, hiệu lệnh đọc xướng này chủ
yếu có cao độ trên cùng một đường thẳng, tiết tấu đơn giản, cuối câu ngân dài
tự do.
Trong 6 thanh điệu chỉ có thanh hỏi (?) và thanh sắc (/) được luyến đi lên
quãng 3 thứ, hoặc luyến đi lên rồi đi xuống quãng 3 thứ. Do vậy, cách phát
âm của thanh hỏi giống cách phát âm của thanh sắc.
Ví dụ 1:
Thanh điệu: (/) (?)
Các thanh còn lại có quan hệ quãng đồng âm. Duy nhất giữa thanh huyền
(\) và thanh không có quan hệ một quãng 2 trưởng (không phổ biến).
Ví dụ 2:
Thanh điệu: (\) (-) (.) (.) (-) (-) (?) (?) (.)
Khuynh hướng thứ hai: Mang âm điệu gần giống tiếng nói phổ thông
Với cách đọc này, người đọc đã dùng nhiều âm điệu luyến, láy. Giai điệu
thường có chiều hướng đi xuống khi kết thúc. Thanh nặng, thanh huyền bao
giờ cũng luyến xuống quãng 3 thứ, khác với khuynh hướng thứ nhất là cùng
nằm trên một đường thẳng. Thanh sắc và thanh hỏi luyến có âm điệu giống
nhau, đều luyến đi lên quãng 2 trưởng.
Ví dụ 3:
59
Thanh điệu: (\) (/) (-) (.) (.) (.) (-) (/) (\)
Như vậy, âm điệu trong xướng lễ rất đơn giản, mỗi câu chỉ có 2 đến 3 âm,
rộng nhất là quãng 5 đúng (giữa thanh sắc và thanh huyền). Lối đọc này kết
hợp với tốc độ chậm dãi, thong thả, kết thúc từ cuối bao giờ cũng kéo dài tự
do. Người hành lễ chỉ được thực hiện sau khi người đông xướng hô cùng với
tiếng trống điểm, hoặc thực hiện cùng lúc với sự vang lên của quận trống tế.
Khi nghe hiệu lệnh cả người chấp lễ và dàn nhạc mới được thực hiện phần
việc của mình. Đây là đặc điểm tương đồng với một số lễ hội ở miền Bắc.
3.1.2. Tổ chức dàn nhạc trong quá trình cử hành lễ
3.1.2.1. Thành phần nhạc cụ
Dàn nhạc phục vụ trong nghi lễ có những tên gọi khác nhau như: Dàn nhạc
tế; dàn trống tế. Theo tên gọi, dàn trống tế hay dàn nhạc tế đều có thể hiểu
được đây là dàn nhạc dùng trong nghi lễ. Ngoài ra dàn bát âm cũng được
dùng ở một số đình, đền ở xứ Thanh và trong tang ma của người Việt nói
chung. Gọi là bát âm nhưng thực ra không đủ 8 màu âm phát ra từ 8 chất liệu
khác nhau theo hệ thống phân loại của Trung Hoa: Bào (bầu); Thổ (đất); Cách
(da); Mộc (gỗ); Thạch (đá); Kim (kim loại); Ty (tơ); Trúc (tre nứa). Những
nhạc cụ có chất liệu từ Bào; Thổ; Thạch; hoàn toàn không có trong dàn nhạc
tế Thành Hoàng ở xứ Thanh.
Dựa vào tiêu chí đồng dạng, cách diễn tấu của nhạc cụ; căn cứ vào tình
hình thực tế khảo sát, phỏng vấn; đối chiếu với những tư liệu đã có; Với số
lượng 17 dàn trống tế được sưu tầm, chúng tôi đã tiến hành lập bảng thống kê
để có một cách nhìn khách quan. Bảng thống kê này chưa phải là đầy đủ để có
thể đi đến nhận định chính xác về âm nhạc trong tế lễ Thành Hoàng xứ
60
Thanh. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự thiếu sót này, nhưng tập
trung nhất vẫn là do những cấu trúc đình đền đã bị phá hủy khá nhiều trong
thời kỳ chiến tranh, nhiều lễ hội không còn duy trì tổ chức trong nhiều năm
qua. Không còn nơi thờ tự Thành Hoàng, dàn nhạc tế không còn không gian
diễn xướng dẫn đến thất thoát một phần đáng kể. Do vậy, đây là những tư liệu
vô cùng quý giá, cần được quan tâm, bảo lưu và phát huy trong đời sống.
Qua bản thống kê chúng tôi nhận thấy, dàn nhạc tế ở mỗi địa phương có sự
sắp xếp khác nhau, bao gồm các nhóm:
Nhóm dây: Đàn tứ, đàn nguyệt, nhị, hồ.
Nhóm hơi: Kèn bầu, sáo trúc.
Nhóm màng rung: Trống cái, trống bản, trống bong, trống bộc.
Nhóm tự thân vang: Mõ, chiêng, sanh tiền, nạo bạt.
Các nhóm trên đây không cố định cho tất cả các dàn nhạc tế ở xứ Thanh và
không phải ở mỗi nhóm đều có đủ tất cả các loại nhạc cụ. Mỗi dàn nhạc có sự
kết hợp nhóm và số lượng nhạc cụ một cách khác nhau. Chẳng hạn, dàn nhạc
tế ở đình Hoằng Quý, đình Phú Khê là những dàn nhạc có quy mô lớn nhất,
có đủ bốn nhóm dây, hơi, màng rung và tự thân vang. Số lượng nhạc cụ ở mỗi
nhóm cũng được bố trí dày nhất. Có dàn nhạc chỉ có 3 nhóm: hơi, màng rung,
tự thân vang (đình Đông Sơn, đình Nam Ngạn,); có hai nhóm: màng rung
và tự thân vang (Đình Đông Cao, đình Xuân Đài,). (Bảng thống kê, PL1,
tr.7).
Bảng thống kê cũng cho thấy nhạc tế ở xứ Thanh đề cao vai trò nhóm màng
rung, đặc biệt là trống cái và trống bản. Trống cái là hiệu lệnh còn trống bản
dẫn dắt bè chính. Các loại trống khác phối hợp so hoặc đi cùng tiết tấu với
trống bản để tạo màu sắc âm thanh khác nhau phù hợp với từng nghi thức tế.
3.1.2.2. Chức năng nhạc cụ và kỹ thuật diễn tấu
61
Theo quan niệm của dân làng, tiếng trống là tín hiệu giao hoà với thần linh,
nó tác động vào tâm trí con người làm cho bất cứ ai khi bước chân vào
ngưỡng cửa của thế giới siêu nhiên cũng đều có ý thức hướng về những gì
thiêng liêng nhất. Tiếng trống khi thúc dục, khi lại trầm bổng như đi vào lòng
người, giúp cho mỗi người dân cảm nhận được sự huyền điệu trước tâm thức
văn hoá tâm linh.
- Trống cái:
Trong dàn nhạc tế, trống cái có kích thước to nhất, đường kính khoảng 50 -
70 cm. Theo quan niệm dân gian mặt trống có ngũ âm. Đánh vào giữa mặt
trống âm thanh kêu to, trầm; đánh vào rìa mặt trống âm thanh chắc nịch; đánh
vào tang trống âm thanh đanh, gọn; khi đánh hồi chỉ chạm dìu vào mặt trống
tạo nên những tiếng khô, không vang Âm thanh cơ bản là “tùng” khi đánh
vào mặt trống và “cắc” khi đánh vào tang trống. Trống cái giữ vai trò làm
hiệu lệnh, báo hiệu bắt đầu cuộc tế, lên tiếng trước bắt nhịp cho toàn dàn
nhạc, kết thúc quận trống cũng là tiếng dứt điểm của trống cái. Khi sử dụng,
trống được treo bằng dây hoặc đặt trên một giá đỡ.
Trống cái thuộc họ màng rung, chi gõ, âm thanh của trống cái trầm; vang,
được xếp ở vị trí bè trầm.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống cái gồm: Đánh vào mặt trống; chạm dùi
vào mặt trống; đánh vào tang trống.
- Trống bản:
Trống bản có đường kính khoảng 35 cm, thường giữ vai trò dẫn dắt đường
nét chính cho quận trống. Trống bản được khai thác bằng cách đánh vào giữa
mặt trống; vào rìa mặt trống; để tạo nên những âm thanh khác nhau. Gõ vào
giữa mặt trống và nhấc dùi ngay âm thanh vang ròn; gõ vào mặt trống nhưng
giữ nguyên dùi âm thanh sẽ khô, xỉn; khi dùng hai dùi đánh luân phiên âm
thanh sẽ vang rền. Khi đánh kỹ thuật này nghệ nhân còn kết hợp giữa lối đánh
62
vào mặt trống và đánh vào tang trống để khai thác các âm sắc khác nhau của
trống một cách hài hoà.
Trống bản thuộc họ màng rung, chi gõ, thuộc âm vực trung.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống bản gồm: Đánh vào mặt trống; vê (đánh
luân phiên vào mặt trống; đánh vào tang trống; đánh rụp hai dùi vào mặt
trống.
Theo GS.TS Phạm Minh Khang: Trong các cuộc rước long trọng như rước
kiệu Thánh trong ngày hội, thường dùng 4 trống bản với 1 trống khẩu và
một thanh la thành bộ trống “cà rùng”5. Thực tế ở Thanh Hóa, chúng tôi chỉ
gặp trống bản với vai trò bè dẫn, phối hợp với tiết tấu của các loại trống khác,
ít kết hợp với trống khẩu. Trống khẩu ở Thanh Hóa còn được gọi là trống
hiệu, trống dẫn, trống thủ cổ, đảm nhiệm việc dẫn đầu đoàn rước, ra hiệu đi
nhanh, chậm hoặc dừng kiệu.
- Trống bong:
Trống bong là loại trống nhỏ, còn có tên gọi là trống Lót, trống Giẳng,
trống Chiên, đường kính của trống khoảng 20 cm, cao 5cm. Trống bong chỉ
có một mặt, được bịt bằng da bò. Khi diễn tấu nghệ nhân cầm trống bằng tay
trái giơ cao ngang ngực và đánh bằng dùi trống nhỏ. Âm thanh cơ bản của
trống là tiếng “bong bong’’ (vào mặt trống) và “cắc” (vào tang trống). Trong
dàn nhạc trống bong được xếp ở vị trí bè cao, được sử dụng nhiều trong các
đoạn lưu không xuyên tâm để thay đổi cho màu sắc âm thanh sáng dần lên.
Trống bong thuộc họ màng rung, chi gõ, có âm vực cao.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống bong gồm: Đánh vào mặt trống; đánh
vào tang trống.
- Trống bộc:
5
Trao đổi với GS. TS Phạm Minh Khang ngày 25 tháng 10 năm 2010 tại học viện âm nhạc Quốc gia Việt
Nam
63
Trống bộc còn gọi là trống bọc, trống bục rắc. Là loại trống được bịt một
mặt bằng da bò, đường kính khoảng 13 cm, cao 8 cm. Khi chơi cầm bằng tay
trái vào tang trống, tay phải cầm dùi. Qua thực tiễn, chúng tôi không thấy
trống bộc diễn tấu có diện phổ cập mà chỉ dùng trong dàn bát âm mà thôi.
Trống bộc thuộc họ màng rung, chi gõ, âm vực cao.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của trống bộc gồm: Đánh vào mặt trống; đánh vào
tang trống.
- Nạo bạt:
Nạo bạt là nhạc cụ được đúc bằng đồng, hình thức như chiếc vung nồi có
núm ở giữa. Nạo bạt bao giờ cũng dùng một cặp hai chiếc, diễn tấu bằng cách
hai tay cầm hai chiếc ở núm để dập hoặc cọ xát vào nhau tạo ra tiếng “xùng,
xèng” thường diễn tấu cùng với tiết tấu của trống bản.
Nạo bạt thuộc họ tự thân vang, chi dập. Âm thanh sắc nhọn, chói.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của nạo bạt gồm: Dập vào nhau rồi nhấc ra ngay;
dập vào nhau rồi giữ nguyên.
- Chiêng:
Chiêng còn gọi là chinh, là nhạc cụ được đúc bằng đồng, đường kính từ 40
- 55 cm. Thường dùng gốc cây dứa dại làm dùi chiêng, có thể thay thế bằng
bẹ dừa hoặc dùi gỗ quấn vải. Chiêng được treo trên giá gỗ để chơi cùng dàn
nhạc.
Chiêng thuộc họ tự thân vang, chi gõ, âm thanh vang rền.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của chiêng là gõ vào núm chiêng.
- Mõ:
Mõ là miếng tre già cong, khi diễn tấu nghệ nhân cầm mõ bằng tay trái, tay
phải cầm que mõ gõ vào phát ra tiếng “cốc, cốc,” nghe đanh và chắc. Mõ
và sênh tiền có tiết tấu đơn giản, chủ yếu là giữ nhịp hoặc phách một cách đều
đặn, nhưng lại rất quan trọng trong việc tạo nên sự so le giữa các bè.
64
Mõ thuộc họ tự thân vang, chi gõ, âm vực cao.
Kỹ thuật diễn tấu cơ bản của mõ là gõ vào thân mõ.
- Thanh la:
Thanh la cũng là một loại nhạc cụ được đúc bằng đồng rất mỏng, đường
kính khoảng 25 cm, cũng có hình thức giống như chiếc vung nồi nhưng không
có núm ở giữa. Diễn tấu bằng cách dùng dây để treo lên và dùng dùi bằng tre
hoặc gỗ để gõ vào. Thanh la ít xuất hiện trong dàn nhạc tế Thành Hoàng
Thanh Hóa.
Th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_am_nhac_trong_le_hoi_truyen_thong_cua_nguoi_viet_xu.pdf