MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn i
Mục lục ii
Chữ viết tắt và ký hiệu iv
Danh mục các bảng v
Danh mục các hình vi
Phần I: MỞ ĐẦU 1
Phần II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1. Tình hình nghiên cứu hầu Thái Bình Dương 3
1.1. Trên thế giới 3
1.2. Việt Nam 8
2. Nghiên cứu sử dụng tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thủy sản 10
2.1. Nghiên cứu thành phần dinh dưỡng của một số loài vi tảo 11
2.2. Nghiên cứu nuôi và sử dụng vi tảo làm thức ăn cho ấu trùng
động vật thủy sản 13
2.3 Nghiên cứu sử dụng vi tảo làm thức ăn cho ấu trùng
động vật thân mềm 14
Phần III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 16
1. Đối tượng địa điểm và thời gian nghiên cứu 16
2. Phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng 16
2.1. Phương pháp gây nuôi tảo 16
2.2. Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến
tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình dương 17
2.3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu 18
Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
1. Gây nuôi sinh khối tảo 22
2. Ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến tốc độ sinh trưởng và
tỷ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương 24
Phần V: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT Ý KIẾN 27
1. Kết luận 27
2. Đề xuất ý kiến 27
TÀI LIỆU THAM KHẢO 28
Phụ lục A
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3580 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của các loài tảo khác nhau Nannochloropsis sp., Chaetoceros sp., Isochrysis sp. đến sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu thái bình dương Crassostrea gigas (Thunberg, 1793), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều theo một trình tự chung là chọn lọc, thu thập hầu bố mẹ và nuôi vỗ, cấy tảo làm thức ăn, kích thích cho đẻ hay cho thụ tinh nhân tạo, ương nuôi ấu trùng và con giống.
Hiện nay, xung quanh vịnh Dabob và vịnh Willipa (thuộc bang Washington, Mỹ) có khoảng 11 trại sản xuất giống, họ chia làm 3 phần: một phần sản xuất con giống bán sang các nước châu Âu, một phần để nuôi thành con giống, một phần nữa bán trong giai đoạn ấu trùng điểm mắt. Lượng con giống sản xuất đã tăng lên đáng kể, có khoảng 50.000 thùng giống (1 thùng = 13.000 – 20.000 con) mỗi năm từ vùng ven biển Thái Bình Dương.
Một trong những kĩ thuật mới trong công nghệ sản xuất giống là kĩ thuật cho bám đơn đã mang lại một viễn cảnh mới cho nghề nuôi hầu ở Colombia – Anh. Họ có thể sản xuất hàng triệu con giống đơn phục vụ cho nghề nuôi hầu bằng khay và bằng túi của vùng (Cross and Kingzett, 1992, trích theo Hà Đức Thắng, 2005). Ngoài ra, tại một số cơ sở nghiên cứu sản xuất hầu giống tam bội hay tứ bội ở Mỹ và Ca-na-đa, người ta đã dùng hóa chất Epinephrine để tiêu hủy tuyến tiết chất bám vào vật bám cứng của hầu tạo thành những con hầu giống đơn giúp ích nhiều cho nuôi thương phẩm (Gregory, 2008)
Tình hình nuôi thương phẩm:
Vì hầu là đối tượng rất có giá trị về mặt dinh dưỡng, nên nuôi hầu đã có lịch sử rất lâu đời tại nhiều quốc gia. Trung Quốc là nước đầu tiên đã nuôi hầu vì hầu có giá trị thực phẩm và về y học, nguồn giống ngoài tự nhiên phong phú mà chi phí nuôi thấp. Tại Pháp nuôi hầu đã bắt đầu vào những năm giữa của thế kỉ XVII với loài hầu bản địa Ostrea edulis, nguồn giống cho nuôi được thu từ tự nhiên sử dụng sạp bằng gỗ hay nhựa PVC đặt dưới đáy và được nuôi trong những ao vùng duyên hải. Mãi đến năm 1960, nguồn giống hầu này bị cạn kiệt do khai thác quá mức nên người ta mới nhập khẩu loài hầu Crassostrea angulata từ Bồ Đào Nha để nuôi. Trong những năm 1973, 1974, triệu chứng bệnh mang đã gây chết hầu hàng loạt nên hầu Thái Bình Dương đã được thay thế. Đến năm 2002, sản lượng hầu này chiếm khoảng 98% trong tổng sản lượng hầu nuôi. Với nguồn giống từ tự nhiên hay nhân tạo, nuôi thương phẩm hầu ở Pháp hay các nước châu Âu dựa vào 3 phương pháp chính đó là nuôi đáy, nuôi trong những khung cố định dưới nước và nuôi treo trên những bè trôi nổi (Grizel và Heral, 1991). Tại Úc, nuôi hầu có lịch sử lâu đời với đối tượng nuôi là hầu đá Saccostrea glomerata với phương pháp nuôi truyền thống là cho hầu giống bám vào viên đá hay vỏ sò trưởng thành rồi đặt xuống đáy vùng triều để nuôi. Đến những năm 1950, từ nhận thức rằng nuôi hầu theo kiểu trên dễ bị bùn lấp hay những địch hại khác nên hình thức nuôi được tập trung vào nuôi bằng rổ, lồng hay trên những cọc cắm đất. Nuôi hầu Thái Bình Dương (nhập từ Nhật Bản) được bắt đầu những năm 1970 chủ yếu từ con giống sinh sản nhân tạo và đang là đối tượng nuôi chính của Úc (Spencer, 2002)
Việt Nam:
Ở Việt Nam, hầu Thái Bình Dương phân bố ở những vùng bãi triều thấp tới độ sâu 10 mét nước ở những vùng nước thuộc tỉnh Quảng Ninh, Hải Phòng (Hà Quang Hiến, 1983). Nguyễn Văn Chung (2001) khi điều tra đánh giá tình hình phân bố của động vật thân mềm hai vỏ trong đầm phá Nam Trung Bộ Việt Nam đã tìm thấy hầu Thái Bình Dương phân bố ở đầm Cù Mông và đầm Ô Loan nhưng với tần số bắt gặp rất thấp.
Việt Nam là một nước có nghề nuôi hầu chậm phát triển, các nghiên cứu về phát triển nghề nuôi hầu chỉ mới thực hiện trong những năm cuối của thế kỉ XX với con giống chủ yếu thu vớt từ tự nhiên. Năm 2001 – 2003, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản I tiến hành thử nghiệm thành công sản xuất giống nhân tạo hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas bằng công nghệ của Úc. Tuy nhiên việc nuôi hầu giống thành hầu thương phẩm còn gặp nhiều khó khăn do hầu có hiện tượng chết hàng loạt (Đồng Xuân Vĩnh, 2004).
Từ năm 2001 – 2004, trong khuôn khổ nguồn kinh phí của Bộ Khoa Học & Công Nghệ, đề tài “Nghiên cứu công nghệ sản xuất hầu giống và nuôi hầu Crassostrea sp. thương phẩm” do kĩ sư Hà Đức Thắng làm chủ nhiệm đã được thực hiện nghiên cứu sản xuất giống trên 3 đối tượng hầu phân bố khắp cả nước: hầu Crassostrea rivularis vùng cửa sông ở miền Bắc, hầu C. lugubris ở miền Trung, hầu C. belcheri ở miền Nam (Lê Trọng Phấn và Cao Văn Nguyện, 2003). Đề tài đã xây dựng thành công quy trình sản xuất giống, hoàn toàn chủ động trong các khâu của quy trình, thu được hàng triệu con giống có chất lượng tốt và số lượng lớn hầu thương phẩm, tạo tiền đề cho công cuộc phát triển nghề nuôi hầu ở nước ta. Từ đó trở đi mỗi vùng phát triển theo những hướng khác nhau: đa số các hộ dân miền Bắc (Quảng Ninh, Hải Phòng) nhập con giống hầu C. gigas từ Trung Quốc và Đài Loan về nuôi còn miền Nam có Công ty Nuôi Trồng Thủy Sản và Thương Mại Viễn Thành tiếp tục sản xuất giống các loài hầu C. belcheri, C. rivularis, C. eridalei để cung cấp cho hoạt động nuôi hầu của công ty và bán cho người dân. Với tốc độ phát triển như hiện nay, trong các năm tiếp theo việc nuôi hầu thương phẩm trên cả nước có thể được thực hiện nhờ vào con giống sản xuất nhân tạo.
Ở nước ta tuy chưa có văn kiện nào ghi chép rõ ràng nhưng ở nhiều nơi nhân dân đã biết nuôi hầu từ rất lâu đời như bãi hầu ở sông Gianh – Quảng Bình. Ở Lạch Trường , do đê vỡ phải kè đá hàn khẩu, ít lâu sau có hầu đến bám nên hình thành nghề nuôi hầu ở địa phương (Hà Quang Hiến, 1983). Tuy nhiên trong suốt nhiều thập niên nghề nuôi hầu ở Việt Nam không có sự chú ý và phát triển đáng kể. Vào năm 1972 trong chương trình hỗ trợ phi chính phủ, một tổ chức của Nhật Bản đã cử chuyên gia sang giúp Việt Nam tiến hành dự án nuôi loài hầu cửa sông Crassostrea rivularis theo phương pháp vớt giống ngoài tự nhiên ở vùng nước Quảng Yên (Bắc Việt Nam), song do dự án tiến hành trong hoàn cảnh chiến tranh nên dự án kết thúc không đạt được những kết quả như dự định.
Theo Hà Lê Thị Lộc và ctv (2001), nghề nuôi hầu C. lugubris thương phẩm ở đầm Lăng Cô đã phát triển tự phát từ năm 1997 và đến năm 2001 có 130 hộ nuôi. Dựa vào đặc điểm bám của hầu, các hình thức nuôi chủ yếu là bằng các trụ xi măng, các lồng hay lốp xe cao su treo trên giàn, hay sử dụng những viên đá đặt nơi có hầu giống xuất hiện. Diện tích và sản lượng hầu nuôi ở đây tăng theo thời gian từ 100m2 và 160kg (1997) đến 129.749m2 và 171.285kg (2001)
Ở miền Nam Việt Nam, nghề nuôi hầu phát triển nhất là vùng nước Long Sơn thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong tổng sản lượng ước tính 2.000 tấn hầu của cả nước hiện nay thì nghề nuôi hầu của Long Sơn chiếm khoảng 1.500 tấn. Dụng cụ nuôi hầu khá đơn giản và đa dạng, giá thể cho hầu bám từ lốp xe phế thải, fibro xi măng, vỏ hầu xâu chuỗi nuôi trên bè di động cho đến hầu bám đơn nhân tạo nuôi lồng lưới nhiều tầng dạng vuông, dạng tròn treo bè hoặc thả đáy bãi triều.
Hiện nay nghề nuôi hầu đã và đang phát triển mạnh và rộng khắp tại các tỉnh ven biển Việt Nam như Bà Rịa – Vũng Tàu, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Định, Khánh Hòa, Nghệ An, Trà Vinh. Đặc điểm này cho thấy được tiềm năng cũng như nhu cầu để phát triển nghề nuôi hầu là rất lớn.
Nghiên cứu sử dụng tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thủy sản.
2.1. Nghiên cứu thành phần dinh dưỡng của một số loài vi tảo.
Đặc điểm nổi bật của vi tảo là sinh khối có hàm lượng protein cao, trung bình chiếm 50 – 60% trọng lượng khô. Trong thành phần chung của vi tảo thì protein luôn là thành phần hữu cơ chủ yếu, tiếp đó là lipid và hydrat carbon. Hàm lượng protein trong mỗi tế bào vẫn được coi là một trong những yếu tố quan trọng quyết định đến giá trị dinh dưỡng của các vi tảo dùng làm thức ăn cho các đối tượng thủy sản.
Giá trị dinh dưỡng lớn nhất của tảo liên quan đến thành phần và hàm lượng các acid béo không no đa nối đôi mạch dài (HUFA) không thay thế, đặc biệt hai thành phần thuộc nhóm “w3” là: acid eicosapentaenoic (EPA) – 20:5n-3 và acid decosahexaenoic (DHA) – 22:6n-3 (Jeffrey và ctv, 1994; trích theo Lục Minh Diệp, 2006). Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy thành phần và hàm lượng các chất dinh dưỡng quan trọng như HUFA có trong tảo có thể thay đổi theo nồng độ, thành phần của phân bón, các nguyên tố vi lượng và vitamin trong môi trường nuôi. Vì vậy cần bổ sung thành phần khoáng và vitamine khi nuôi sinh khối nhằm đạt giá trị dinh dưỡng cao nhất.
Ngoài yếu tố dinh dưỡng, cường độ ánh sáng cũng là một tác nhân làm thay đổi giá trị dinh dưỡng của tảo.
Bảng 1: Yêu cầu sinh thái cho nuôi tảo biển (trích theo Lục Minh Diệp, 2006).
Vị trí/khâu nuôi
Độ mặn (ppt)
Nhiệt độ (0C)
pH
Cường độ sáng
Chu kỳ chiếu sáng (sáng : tối)
Trong phòng (lưu giữ, nhân giống)
20 – 30
20 – 25
7–8
2.500–5.000 lux (đèn neon)
24 : 0
Ngoài trời (nuôi thu sinh khối)
< 32
7–9
1.000-10.000 lux (ánh sáng mặt trời)
16:8
Hàm lượng quan trọng của EPA đều có mặt ở các loài tảo khuê Chaetoceros calcitrans…và tảo Platymonas lutheri, trong khi đó hàm lượng cao của DHA được thấy ở loài tảo Pavlova sp. và Isochrysis spp. Ngoài ra người ta còn chiết xuất từ vi tảo các hoạt chất như: vitamine, lipid, sắc tố, hydrat carbon, chất chống oxy hóa…
Bảng 2: Thành phần dinh dưỡng của một số loài tảo (trích theo Hà Đức Thắng, 2005).
Lớp và loài tảo
Chlorophylla (%)
Protein (%)
Hydrat carbon (%)
Lipid (%)
Chaetoceros calcitrans
3.04
34
6.0
16.0
Chaetoceros gracilis
1.04
15
4.7
7.2
Nannochloropsis oculata
0.89
3.5
7.8
18
Isochrysis galbana
0.98
29
12.9
23
Bảng 3: Mật độ tế bào và thành phần các chất dinh dưỡng trong tảo Isochrysis galbana nuôi ở các môi trường khác nhau (trích theo Hà Đức Thắng, 2005).
Môi trường
Mật độ tế bào x 106
Protein (%)
Hydrat carbon (%)
Lipid (%)
Walne
10.11
5.17
4.28
25.95
ES
12.09
7.23
5.21
28.38
F2
10.81
8.18
5.59
26.82
Algal-1
16.15
9.57
4.28
20.68
2.2. Nghiên cứu nuôi và sử dụng vi tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thủy sản.
Nuôi vi tảo dùng làm thức ăn trong nuôi trồng thủy sản đã được phát triển từ lâu đời. Năm 1871, Phamintsin đã tiến hành nuôi tảo lục Protococales (Hoàng Thị Bích Mai, 1995). Từ năm 1910, Allen và Nelson đã tiến hành nuôi đơn loài dùng làm thức ăn cho động vật không xương sống (Ryther Neân boû choã teân naøy ñi vì ñaõ vieát trích theo HLTloc roâi.
và Goldman, 1975; (trích theo Hà Lê Thị Lộc, 2000). Bruce và cộng sự (1939; trích theo Hà Lê Thị ÑÖA XUOÁNG PHÍA CUOÂI ÑOAÏN
Lộc, 2000) lần đầu tiên đã phân lập và nuôi giữ hai loài tảo đơn bào Isochrysis galbana và Pyramimonas grossii làm thức ăn cho ấu trùng hầu.
“Phương pháp của Glancy” (1965) đã được ông sử dụng để nuôi ấu trùng hai mảnh vỏ. Nước biển tự nhiên được lọc qua than hoạt tính rồi đi qua một túi lưới có mắt lưới nhỏ. Sau đó được đặt trong nhà gương kín, không bón phân. Phương pháp này vừa dễ làm vừa ít tốn kém hơn phương pháp nuôi đơn loài nhưng do không điều khiển được thành phần loài nên hiệu quả cũng không cao. Do vậy, phương pháp nuôi tảo đơn loài vẫn được sử dụng phổ biến hơnÑÖA TEÂN TAI LIEÏU THAM KHAO XUONG ÑAY
.
Tại Trung Quốc, nghiên cứu nuôi tảo đã đươc bắt đầu từ những năm 1940. Guo và cộng sự (1959) (trích theo BOÛ TÖØ TRÍCH THEO ÑEÅ BÔÙT ÑI SÖÏ LAÊP LAÏI PHÍA TREÂN, VAØ ñöa teân HLTLoc ra cuoái caâu
Hà Lê Thị Lộc, 2000) đã phân lập và nuôi hai loài tảo đơn bào Tetraselmis sp. và Dunnaliella sp. Từ những năm 1980, nhiều loài tảo đã được tiến hành phân lập và phát triển nuôi đại trà như Tetraselmis subcordifornis, Chaetoceros muelleri, Tetraselmis sp., Isochrysis galbana, Pavlova viridis… Tất cả những loài tảo này có thể phát triển rất tốt ở nhiệt độ 25°C.
Ở Việt Nam các công trình nghiên cứu nuôi vi tảo biển làm thức ăn cho các động vật thủy sản nuôi chỉ mới được tiến hành gần đây cùng với sự phát triển của nghề nuôi biển, mục đích cung cấp nguồn thức ăn và môi trường nước xanh cho nhu cầu sản xuất con giống một số đối tượng như: tôm, cua, điệp quạt, bào ngư, trai ngọc, ốc hương…
Từ những năm 1974, trường Đại học thủy sản Nha Trang đã thử nghiệm nuôi Skeletonema costatum trong phòng thí nghiệm (Hoàng Thị Bích Mai, 1995).
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III đã tiến hành nuôi các loài tảo như: Isochrysis galbana, Nannochloropsis oculata, Chaetoceros muelleri sử dụng làm thức ăn để nuôi ấu trùng điệp quạt, bào ngư, ốc hương và đã đạt được những kết quả khả quan.
Lục Minh Diệp (1999) khi nghiên cứu ảnh hưởng của các tỷ lệ phân bón khác nhau và các tỷ lệ thu hoạch khác nhau lên sự phát triển của hỗn hợp tảo biển tự nhiên cho thấy rằng thành phần loài ưu thế của tảo biển tự nhiên thay đổi theo tỷ lệ pha loãng và thay đổi theo tỷ lệ phân bón.
2.3. Nghiên cứu sử dụng vi tảo làm thức ăn cho ấu trùng động vật thân mềm.
Trong những năm gần đây, nghiên cứu và sản xuất giống nhân tạo các loài động vật thân mềm đặc biệt là động vật thân mềm hai mảnh vỏ đã phát triển sâu rộng đạt được những thành tựu rất đáng được khích lệ phục vụ cho nhu cầu nuôi ngày càng tăng của đối tượng này. Đặc điểm khác biệt của ấu trùng động vật thân mềm là kích thước thường rất nhỏ, thức ăn cho chúng chỉ là những hạt lơ lửng và các vi tảo có kích thước hiển vi. Ngoài ra, giai đoạn ấu trùng của động vật thân mềm vận động kém, các cơ quan chưa hoàn thiện, nên dinh dưỡng của ấu trùng đã trở thành một trong những trở ngại chính trong việc sản xuất đại trà. Do đó nghiên cứu thức ăn trong sản xuất giống động vật thân mềm là điều không thể thiếu trong hoàn thiện quy trình sản xuất giống nhân tạo.
Hà Đức Thắng (2005) nghiên cứu ảnh hưởng của thức ăn đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng hầu cho thấy việc sử dụng thức ăn là tảo đơn loài ấu trùng hầu phát triển kém, tốc độ tăng trưởng chậm, tỷ lệ sống thấp. Việc kết hợp các loài thức ăn khác nhau theo từng giai đoạn phát triển của ấu trùng trong quá trình chuyển giai đoạn là rất quan trọng.
Vi tảo đã góp phần quan trọng trong sự thành công của các đề tài sản xuất giống hải sản tại Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III trong nhiều năm qua như làm tăng tỷ lệ sống lên 3,95% của vẹm xanh Perna viridis ở giai đoạn ấu trùng chữ D đến con giống 3 – 5mm khi sử dụng hỗn hợp tảo tươi Nannochloropsis oculata, Chaetoceros đơn bào, Isochrysis, Platymonas (5000 – 60000 tb/ml). Ốc hương Babylonia areolata giai đoạn Verliger lên 60 – 65% với hỗn hợp tảo đơn bào Nannochloropsis oculata, Chaetoceros, Isochrysis, Platymonas (5000 – 10000 tb/ml) kết hợp với thức ăn tổng hợp. Sò huyết Anadara granosa ở giai đoạn ấu trùng nổi lên 70% với Nannochloropsis oculata, Chaetoceros, Platymonas (3000 – 10000 tb/ml). Trai ngọc Pinctada maxima giai đoạn ấu trùng chữ D – Umbo là 23%. Tu hài Lutraria rhychaena ấu trùng nổi đến con giống 7 – 10mm lên 1,42% với Nannochloropsis oculata, Chaetoceros, Isochrysis, Platymonas (3000 – 15000 tb/ml) so với thức ăn tổng hợp Lansy, Fripak là 0,34%. Điệp quạt giai đoạn ấu trùng chữ D đến ấu trùng spat lên 7,5 – 9,5% với hỗn hợp Chaetoceros muelleri, Isochrysis, Platymonas (3000 – 10000 tb/ml) so với thức ăn tổng hợp AP, BP là 0 – 2,5%. Hải sâm Holothuria scabra giai đoạn ấu trùng nổi Auricularia lên 10,4 – 37,3% với hỗn hợp Nannochloropsis oculata Chaetoceros muelleri (20000 – 40000 tb/ml) so với thức ăn hỗn hợp là Spirunila khô với Fripak là 10,4%.
Nguyễn Thị Xuân Thu (1995) sử dụng hỗn hợp các loài tảo đơn bào Chlorella, Chaetoceros, Platymonas để ương ấu trùng điệp quạt Chlamys nobilis cho tỷ lệ sống và khả năng tăng trưởng của ấu trùng cao hơn sử dụng tảo đơn loài.
Châu Văn Thanh (1998) cho ấu trùng vẹm vỏ xanh Chloromytilus viridis ăn hỗn hợp tảo đơn bào Platymonas sp., Nannochloropsis oculata, Chaetoceros sp. giai đoạn chữ D đến hậu kì đỉnh vỏ có tỷ lệ sống trên 73.53%.
Ngô Anh Tuấn (2005) cho ấu trùng điệp seo Comptopallium radula ăn hỗn hợp tảo tươi Nannochloropsis oculata và Tetraselmis sp. với tỷ lệ 1:1 cho kết quả tốt hơn so với dùng tảo tươi đơn loài: thời gian biến thái từ ấu trùng chữ D đến ấu thể Spat nhanh hơn, tốc độ tăng trưởng bình quân ngày cao hơn, tỷ lệ sống cao hơn.
Nguyễn Thị Xuân Thu và ctv (2002) sử dụng kết hợp các loài tảo Nannochloropsis oculata, Chaetoceros muelleri, Chlorella sp. cho ấu trùng ốc hương đạt kết quả cao hơn dùng tảo đơn loài.
Từ những kết quả nghiên cứu trên cho thấy: Nghiên cứu sản xuất giống hầu bằng phương pháp sinh sản nhân tạo nhằm tạo ra những con giống đồng kích cỡ và số lượng nhiều để đáp ứng nhu cầu nuôi thương phẩm thì việc sử dụng hỗn hợp tảo đơn bào làm thức ăn cho ấu trùng là rất cần thiết.
Phần III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, địa điểm và thời gian nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu:
Hầu Thái Bình Dương Crassostrea gigas.
3 loài tảo đơn bào: Nannochloropsis sp., Isochrysis sp., Chaetoceros sp.
Địa điểm nghiên cứu: Phòng thực nghiệm Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III tại số 33 Đặng Tất - Nha Trang - Khánh Hòa
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 08/2008 đến tháng 10/2008.
Phương pháp nghiên cứu và kỹ thuật sử dụng.
Phương pháp gây nuôi tảo.
- Nguồn tảo giống: từ phòng lưu giữ tảo Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản III.
- Dụng cụ nuôi cấy: gồm những thùng đựng nước suối 14 Thuøng 20 lít
lít, thùng nhựa trắng 10 10 lít neân ghi laø bình thuûy tinh, khoâng ai caáy trong xoâ 10 lít caû
,160, 200 lít, và bể composit 1m3. Dụng cụ nuôi để theo dõi biến thiên mật độ tảo là thùng nước suối 14 lít.
- Nguồn nước: nước biển tự nhiên được bơm lên bể chứa để lắng, lọc cát sau đó bơm vào bể 1m3 xử lý chlorine nồng độ 20 ppm, sục khí và phơi nắng; khử chlorine trước khi cấy tảo.
- Môi trường dinh dưỡng: F/2 (Guillard và Ryther, 1962).
Thành phần dinh dưỡng
Nồng độ bón (ppm)
Thành phần dinh dưỡng
Nồng độ bón (ppm)
NaNO3
KH2PO4.H2O
Na2EDTA
FeCl3.6H2O
Na2SiO3.9H2O
CuSO4.5H2O
ZnSO4.7H2O
75
5
4,36
3,15
30
0,01
0,022
CoCl2.6H2O
MnCl2.4H2O
Na2MoO4.2H2O
B1 (Thiamin)
Biotin
B12 (Cyanocobalamin)
0,01
0,18
0,0006
0,1
0,5
0,5
- Theo dõi các giai đoạn phát triển của tảo (các pha sinh trưởng, tốc độ sinh trưởng tương đối của quần thể tảo). Mật độ tảo theo dõi ngày 1 lần vào buổi sáng.
Phương pháp nghiên cứu ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương.
- Dụng cụ nuôi ấu trùng: bể composite 1m3 đặt trong nhà.
Phương pháp bố trí thí nghiệm: 4 lô thí nghiệm, thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Nên ghi thêm:
Ấu trùng đem thí nghiệm: Hầu TBD
Mật đội ấu trùng: ( con/ml)
Lô 1: cung cấp 2 loài tảo Nannochloropsis sp. + Isochrysis sp. cho ấu trùng hầu TBD. Bỏ đi
Lô 2:cung cấp 2 loài tảo Nannochloropsis sp. + Chaetoceros muelleri cho ấu trùng hầu TBD. Bỏ đi
Lô 3: cung cấp 2 loài tảo Isochrysis sp. + Chaetoceros muelleri cho ấu trùng hầu TBD.
Lô 4: cung cấp 3 loài tảo Isochrysis sp. + Chaetoceros muelleri + Nannochloropsis sp. cho ấu trùng hầu TBD Bỏ đi, ko cần thiết
.
Mật độ cho ăn: 6.000 – 40.000 tb/ml. Giai đoạn đầu cho ăn từ 6.000 – 7.000 tb/ml sau đó tăng dần lên theo sự phát triển của ấu trùng hầu. Cho ăn 2 lần/ngày.
Thay nước: 30%, 2 ngày/lần.
Theo dõi các yếu tố môi trường (nhiệt độ, pH, độ mặn) ngày 2 lần: sáng 7h30, chiều 14h30 bằng các dụng cụ đo chuyên dùng.
pH: sử dụng máy đo pH điện tử có độ chính xác 0,01.
Độ mặn: đo bằng tỷ trọng kế có độ chính xác 1‰.
Nhiệt độ: đo bằng nhiệt kế thủy ngân có độ chính xác 10C.
Theo dõi mật độ của ấu trùng hầu 2 ngày 1 lần vào buổi sáng.
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu.
Phương pháp thu thập số liệu:
Phương pháp tính mật độ tảo: Sử dụng buồng đếm hồng cầu.
Hình 1: Buồng đếm hồng cầu.
+ Cách đếm: lắc đều mẫu tảo đã cố định bằng formol 4%, dùng pipet nhỏ một ít dung dịch tảo vào vị trí buồng đếm, đặt nhẹ lamen lên trên, để ổn định 3-4 phút cho tảo lắng xuống và đếm dưới kính hiển vi.
+ Công thức tính mật độ tảo:
X = xi x 400 x 104 (tế bào/ml)
Trong đó: X: mật độ tảo (tế bào/ml).
xi: số tế bào tảo đếm được trong một ô nhỏ của buồng đếm.
+ Công thức tính tốc độ tăng trưởng tương đối của quần thể tảo:
µ
Nt: mật độ tảo ngày hôm sau.
N0: mật độ tảo ngày hôm trước.
Theo dõi các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ mặn, pH) ngày 2 lần: sáng 7h00, chiều 14h00.
Phương pháp xác định mật độ ấu trùng:
Dùng cốc đốt lấy 10ml nước mẫu, lấy pipet nhỏ một ít formol và xoay theo chiều kim đồng hồ cho ấu trùng lắng xuống đáy. Dùng pipet hút ấu trùng cho vào buồng đếm động vật rồi đếm toàn bộ ấu trùng trong mẫu trên kính hiển vi.
Hình 2: Buồng đếm động vật.
Tỉ lệ sống của ấu trùng = (%)
N1: Tổng số ấu trùng lần kiểm tra trước.
N2: Tổng số ấu trùng lần kiểm tra sau.
Theo dõi sự sinh trưởng của ấu trùng 2 ngày/lần bằng cách dùng thước đo kính hiển vi.
Kích thước ấu trùng = x x 1000 (µm)
Trong đó: n: số vạch trên thước đo kính hiển vi.
a: độ bội của kính.
Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trung bình ngày về chiều dài của ấu trùng (µm/con/ngày).
DGL =
Trong đó: L1 là chiều dài đo ở thời điểm t1
L2 là chiều dài đo ở thời điểm t2
Xử lí số liệu
Áp dụng phương pháp thống kê sinh học, sử dụng phần mềm MS-Excel 2003.
Giá trị trung bình:
Giá trị trung bình: =
Sử dụng chương trình ANOVA một yếu tốThêm tên đầy đủ của Anova)
(…)
Độ lệch chuẩn (σ) sử dụng hàm STDEV
Độ lệch chuẩn: =
Trong đó:
N là tổng số cá thể trong mẫu
xi là giá trị cá thể thứ i
là giá trị trung bình
Nước biển lọc sạch
Nuôi sinh khối tảo
Nguồn bố mẹ từ các trại nuôi hầu ở Vũng Tàu
Ảnh hưởng của tảo đến sự sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu
(giai đoạn ấu trùng chữ D đến ấu trùng điểm mắt)
Kích thích sinh sản
Lô 4
Lô 3
Lô 1
Lô 2
So sánh sự sinh trưởng và tỉ lệ sống
Loài (1)
Loài (3)
Loài (2)
Sơ đồ khối nội dung của đề tài
Phần IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Gây nuôi sinh khối tảo.
Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng tương đối của 3 loài tảo Nannochloropsis sp., Isochrysis sp., Chaetoceros sp.
Ngày nuôi
Nannochloropsis sp.
Isochrysis sp.
Chaetoceros sp.
2
0.223
0.693
0.875
3
0.247
0.916
0.773
4
0.669
1.099
0.901
5
0.732
0.182
0.090
6
0.160
0.166
-0.560
7
0.064
-0.382
-0.288
Bảng 4 cho chúng ta thấy được tảo Nannochloropsis sp. có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh và lâu dàiVà thời gian phát triển dài hơn
hơn so với hai loài tảo Isochrysis sp. và Chaetoceros sp. Tốc độ tăng trưởng của tảo Nannochloropsis sp. cao nhất vào ngày nuôi thứ 5 (µ = 0.732) và giảm dần ở các ngày nuôi tiếp theo. Tốc độ tăng trưởng cao nhất của tảo Isochrysis sp. vào ngày nuôi thứ tư (µ = 1.099) và thấp nhất vào ngày nuôi thứ 7 với tốc độ tăng trưởng âm (µ = -0.382) sau khi tảo đạt mật độ cực đại. Trong khi đó, tảo Chaetoceros sp. có tốc độ tăng trưởng cao nhất vào ngày nuôi thứ tư (µ = 0.901) và thấp nhất vào ngày nuôi thứ 6 với tốc độ tăng trưởng âm (µ = -0.560).
Hình 3: Đường cong sinh trưởng của các quần thể tảo gây nuôi sinh khối.
Qua hình 3 thể hiện rõ: tảo Nannochloropsis sp. có mật độ luôn cao hơn hai loài tảo Isochrysis sp. và Chaetoceros sp.. và tăng mạnh bắt đầu từ ngày thứ 4 của quá trình nuôi. Tốc độ phát triển của hai loài tảo Isochrysis sp. và Chaetoceros sp. tăng chậm từ ngày thứ nhất đến ngày thừ năm và đồng đều hơn so với tảo Nannochloropsis sp. Sang ngày thứ năm thì mật độ của tảo Chaetoceros sp. có xu hướng giảm trong khi tảo Isochrysis sp. thì vẫn tăng nhẹ cho đến ngày thứ 6. Tảo Isochrysis sp. đạt mật độ cực đại 680x103 tb/ml vào ngày nuôi thứ 6, tuy nhiên tảo Chaetoceros sp. đạt mật độ cực đại 560x103 tb/ml vào ngày nuôi thứ 5.
Kết quả thí nghiệm này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Hà Đức Thắng (2005) và một số tác giả khác khi nghiên cứu sự sinh trưởng của tảo sử dụng môi trường F2.
Bảng 5: Sự biến động môi trường trong các ngày nuôi tảo.
Ngày nuôi
Nhiệt độ (0C)
pH
Sáng
Chiều
Biên độ
Sáng
Chiều
Biên độ
1
26
29
3
7.80
7.93
0.13
2
26
30
4
8.13
8.43
0.30
3
26
31
5
8.18
8.65
0.47
4
26
28
2
8.23
8.57
0.34
5
25
26
1
8.12
8.47
0.35
6
25
26
1
8.02
8.38
0.36
7
24
29
5
8.01
8.45
0.44
Qua bảng 5 cho thấy: sự biến động môi trường trong ngày khi nuôi sinh khối tảo ngoài trời là khá lớn. Tảo Nannochloropsis sp. là loài rộng nhiệt nên tảo vẫn có thể sinh trưởng và phát triểnở nhiệt độ nào?
. Nhưng khoảng nhiệt độ này lại không thích hợp lắmBỏ từ này đi
cho hai loài tảo Isochrysis sp. và Chaetoceros sp. Theo nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng của nhiệt độ đối với sự phát triển của tảo thì hai loài tảo Isochrysis sp. và Chaetoceros sp là loài hẹp nhiệt Hẹp hhiệt phải ghi phù hợp trong khoảng nào?
.
pH sáng luôn thấp hơn pH chiều, do buổi chiều nhiệt độ tăng, ánh sáng mạnh, tảo hấp thụ CO2 mạnh.
Ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến tốc độ sinh trưởng và tỉ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương.
Trong bể xuất hiện ấu trùng chữ D, ba ngày sau Nên ghi: sau khi xuất hiện ấu trùng chữ D được 3 ngày thì. tiến hành bố trí….
bắt đầu bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của các loài tảo đơn bào đến tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng hầu Thái Bình Dương.
Bảng 6: Sự biến động môi trường trong các ngày nuôi ấu trùng.
Ngày nuôi
Nhiệt độ (0C)
Độ mặn (‰)
pH
Sáng
Chiều
Biên độ
Sáng
Chiều
Biên độ
Sáng
Chiều
Biên độ
1
27.0
28.0
1.0
30
30
8.01
8.20
0.19
2
27.5
28.0
0.5
30
30
8.02
8.21
0.19
3
27.5
28.0
0.5
30
30
8.02
8.23
0.21
4
27.0
28.0
1.0
30
30
8.01
8.25
0.24
5
27.5
28.0
0.5
30
30
8.02
8.26
0.24
6
27.0
28.0
1.0
29
29
8.00
8.25
0.25
7
28.0
28.5
0.5
29
29
8.04
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bo_giao_duc_va_dao_tao_7645.doc