Lời cam đoan . i
Lời cảmơn. ii
Mục lục .iii
Danh mục các bảng. iv
Danh mục các hình . v
MỞ ĐẦU.1
1. Lí do chọn đề tài .1
2. Mục tiêu nghiên cứu .3
3. Phương pháp nghiên cứu .3
4. Nội dung của đề tài nghiên cứu.4
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆU ỨNG CỘNG HƯỞNG PLASMON
BỀ MẶT.5
1.1. Cộng hưởng plasmon bề mặt của các cấu trúc nano kim loại.5
1.1.1. Khái niệm cộng hưởng Plasmon bề mặt.5
1.1.2. Tần số plasmon và độ dài lan truyền của sóng plasmon theo lý thuyết
điện từ học .6
1.1.3. Lý thuyết Mie .10
1.2. Một số ứng dụng của hiệu ứng plasmon bề mặt.15
1.2.1. Ảnh hưởng của hiệu ứng plasmon bề mặt lên huỳnh quang của chất
phát quang - Các mô hình về tương tác giữa chất phát quang và kim loại .16
1.2.2. Một số cấu hình plasmonic hoạt động.22
Chương 2: CÁC PHÉP ĐO THỰC NGHIỆM.24
2.1. Các phương pháp đo phổ.24
2.1.1. Phép đo phổ hấp thụ .24
2.1.2. Phép đo phổ huỳnh quang .26
2.2. Phương pháp hiện ảnh: Kính hiển vi huỳnh quang .27
61 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 831 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ảnh hưởng của hiệu ứng plasmon bề mặt của các cấu trúc nano kim loại lên sự phát xạ của chất phát Huỳnh Quang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho bởi:
A = (NabsL/ln10) (1.28)
trong đó abs là tiết diện hấp thụ của kim loại và L là quang trình của ánh sáng.
Số hạt trong một đơn vị thể tích dễ dàng được xác định từ số mol của chúng.
Tiết diện tán xạ sca cũng được tính từ lý thuyết Mie như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
4 2
2
sca 2 2 2
r 2 i
k V 27σ = |ε - 1|
18π (ε + 2ε ) + ε
(1.29)
Các hiệu suất tán xạ, hiệu suất dập tawqts được tính qua tiết diện tán xạ,
tiết diện dập tắt, và tiết diện hấp thụ như sau [1]:
sca ext abs
sca ext abs
σσ
Q = , Q = , Q =
S S S
(1.30)
với S là diện tích hạt cầu S = R2, R là bán kính hạt cầu. Các hiệu suất này cho
thấy khả năng một hạt tán xạ ánh sáng ra ngoài tiết diện vật lý của nó. Chúng trở
nên lớn hơn một đơn vị tại vị trí gần bề mặt hạt là do trường gần bề mặt của hạt
có thể lớn hơn giá trị trường trung bình của ánh sáng tới môi trường xung quanh
hạt. Phương trình (1.29) và (1.30) cho thấy abs tăng cùng với R3 trong khi đó
sca tỷ lệ với R6. Do đó các hạt keo kim loại có kích thước lớn hơn sẽ có tỷ lệ tiết
diện tán xạ trên tiết diện dập tắt lớn [1].Đối với các hạt lớn hơn, các mode dao
động bậc cao hơn càng trở nên chiếm ưu thế do ánh sáng không thể phân cực các
hạt nano một cách đồng nhất gây ra tác dụng trễ của trường điện từ qua hạt nano
làm dịch chuyển và mở rộng cộng hưởng Plasmon bề mặt. Các mode bậc cao có
đỉnh ở năng lượng thấp hơn do đó dải Plasmon dịch về đỏ với sự tăng kích thước
hạt. Kết quả là phù hợp với lý thuyết Mie: hạt nano kim loại có kích thước càng
lớn thì đỉnh hấp thụ plasmon càng dịch về phía sóng dài. Hình 1.8 trình bày phổ
hấp thụ cộng hưởng plasmon của các dung dịch hạt keo vàng kích thước khác
nhau: đỉnh hấp thụ plasmon càng dịch về phía sóng dài khi kích thước hạt tăng.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Hình 1.8.Phổ hấp thụ cộng hưởng plasmon của các hạt nano vàng
kích thước thay đổi [15].
1.2. Một số ứng dụng của hiệu ứng plasmon bề mặt
Các ứng dụng của hiệu ứng plasmon bề mặt có thể được gọi chung là các
nghiên cứu lĩnh vực plasmonic. Vật liệu cho hiệu ứng cộng hưởng plasmon gọi
chung là các vật liệu plasmonics. Plasmonics là một lĩnh vực đầy hứa hẹn của
khoa học và công nghệ. Lĩnh vực này khai thác sự tương tác giữa ánh sáng và
vật chất thông qua hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt cho nhiều tính chất và
chức năng khác nhau.Các dao động plasmon bề mặt có thể lan truyền dọc theo
mặt phân cách kim loại - điện môi (plasmon polariton, SPP) hoặc bị giam giữ
trên một cấu trúc nhỏ hơn bước sóng (cộng hưởng plasmon định xứ, LSPR, ví
dụ như một hạt nano kim loại). Sau khi được kích thích, các dạng của SPR có
thể giam giữ trường điện từ của ánh sáng ở một thang nhỏ hơn bước sóng, dẫn
đến sự tăng cường đáng kể của trường định xứ và cho phép điều khiển ánh sáng
dưới giới hạn nhiễu xạ. Khả năng hấp dẫn của SPR làm cho các vật liệu
plasmonic có tiềm năng ứng dụng cao trong nhiều lĩnh vực, bao gồm quang tử,
hóa học, năng lượng, y - sinh và khoa học sự sống. Trong các ứng dụng đó, điều
khiển huỳnh quang của chất phát quang bới vật liệu plasmonic và các cấu hình
plasmonic hoạt động đang được quan tâm nghiên cứu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
1.2.1. Ảnh hưởng của hiệu ứng plasmon bề mặt lên huỳnh quang của chất
phát quang - Các mô hình về tương tác giữa chất phát quang và kim loại
Sự tương tác giữa các chất phát huỳnh quang với các hạt nano kim loại và
các bề mặt kim loại đã được nghiên cứu cho nhiều ứng dụng khác nhau, ví dụ như
phát triển các xét nghiệm dựa trên sự dập tắt huỳnh quang của các hạt phát quang
bởi các hạt nano vàng dạng keo hay sự phát xạ trực tiếp từ các chất phát huỳnh
quang ở gần các màng kim loại mỏng [13]. Các nghiên cứu đã chỉ ra một chất phát
quang khi ở gần một bề mặt kim loại thì huỳnh quang của nó có thể được tăng
cường hoặc dập tắt (hay bị giảm). Sự phát xạ hoặc dập tắt của một hạt phát quang
gần các bề mặt kim loại có thể được dự đoán từ các tính chất quang của các cấu
trúc kim loại sử dụng các tính toán từ điện động lực, lý thuyết Mie, hoặc từ các
phương trình Maxwell. Theo lý thuyết Mie, sự dập tắt hay tăng cường huỳnh
quang do các hạt nano keo kim loại gây ra phụ thuộc vào sự hấp thụ hoặc tán xạ.
1.2.1.1. Mô hình tương tác lưỡng cực - lưỡng cực
Các nghiên cứu chỉ ra đối với một chất phát quang đặt gần một cấu trúc
nano kim loại, tùy thuộc vào khoảng cách giữa chúng (chính xác hơn là tùy thuộc
vào cấu hình quang học), huỳnh quang của chất phát quang có thể được tăng cường
hoặc bị dập tắt. Sự tương tác này phụ thuộc vào hướng của vectơ mô men lưỡng
cực của chất phát quang so với bề mặt kim loại. Hình 1.9 trình bày 2 hướng vuông
góc và song song của mô men lưỡng cực của một chất phát quang so với bề mặt
kim loại.
Hình 1.9.Minh họa hương song và vuông góc của một lưỡng cực dao động dặt gần
một bề mặt kim loại [14]
Ảnh của moment lưỡng cực trên một bề mặt của kim loại được minh họa
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
như trên hình 1.10. Sự tương tác quang của một chất phát huỳnh quang với một
bề mặt kim loại ở đây được mô hình hóa như là sự tương tác của một lưỡng cực
dao động với một bề mặt kim loại dẫn điện hay tương tác lưỡng cực - lưỡng cực
[14]. Quá trình tương tác giữa lưỡng cực của chất phát huỳnh với điện tử tự do gần
bề mặt hạt nano kim loại sẽ làm cho dao động lưỡng cực của chất phát huỳnh
quang tắt dần hoặc được tăng cường tùy thuộc vào hướng của mô men lưỡng cực
của chất phát quang. Bề mặt kim loại được ví như một chiếc gương và tạo ra ảnh
của vector moment lưỡng cực. Với những vector moment lưỡng cực vuông góc
với bề mặt kim loại, ảnh tạo ra trên bề mặt kim loại có thể nâng cao trường điện
định xứ của lưỡng cực qua quá trình cộng hưởng (hình 1.10, bên phải). Với những
vector moment lưỡng cực song song với bề mặt kim loại thì ảnh của nó trên bề
mặt kim loại có hướng ngược moment lưỡng cực phân tử ban đầu (hình 1.10 bên
trái), làm đóng góp vào quá trình làm tắt dần dao động lưỡng cực của phân tử. Quá
trình làm tắt dần dao động lưỡng cực của phân tử tương ứng quá trình dập tắt trạng
thái kích thích của phân tử, tức là có sự truyền năng lượng từ phân tử chất màu tới
hạt kim loại. Cơ chế truyền năng lượng này được gọi là truyền năng lượng bề mặt
(surface energy transfer - SET).
Hình 1.10.Minh họa ảnh vector moment lưỡng cực phân tử chất phát quang trên một
bề mặt kim loại: Hình trái là ảnh vector moment lưỡng cực song song bề mặt kim loại,
quá trình này làm giảm dao động lưỡng cực phân tử; Hình phải là ảnh vector moment
lưỡng cực vuông góc bề mặt kim loại, quá trình này có thể nâng cao trường điện định
xứ của lưỡng cực.
1.2.1.2. Mô hình plasmon bức xạ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Tương tác giữa chất phát quang - kim loại dẫn đến kết quả tăng cường hay
dập tắt huỳnh quang của chất phát quang còn được giải thích bằng mô hình
plasmon bức xạ (radiating plasmon - RP). Mô hình plasmon bức xạ (radiating
plasmon - RP) được Lakowicz đưa ra [13] đưa ra để giải thích tương tác giữa
chất phát quang - kim loại với kết quả là tăng cường hoặc dập tắt huỳnh quang
của chất phát quang. Mô hình này được phát biểu như sau: “Trong trường hợp
có tăng cường huỳnh quang, các plasmon tạo ra trên bề mặt kim loại có thể được
bức xạ vào không gian tự do - gọi là các plasmon bức xạ - đóng góp vào trường
điện của chất phát quang, làm tăng cường huỳnh quang”. Khoảng cách mà chất
phát quang có thể tương tác với kim loại là do các bức xạ huỳnh quang của chất
phát quang đáp ứng phương trình 1.4.
Khả năng một plasmon bức xạ hoặc không bức xạ được giải thích như sau:
Khi có ánh sáng kích thích tới chất phát quang, phát xạ huỳnh quang của chất
phát quang sẽ kích thích các plasmon của bề mặt kim loại. Nếu các plasmon bức
xạ được ra trường xa, chúng ta có sự tăng cường huỳnh quang của chất phát
quang do bức xạ của các plasmon có tần số trùng với tần số của sóng ánh sáng
tới. Nếu các plasmon không bức xạ được, huỳnh quang của chất phát quang bị
dập tắt, do kim loại hấp thụ ánh sáng huỳnh quang của chất phát quang. Từ đây
ta thấy, các hạt kim loại keo kích thước nhỏ được mong đợi là làm dập tắt huỳnh
quang vì quá trình hấp thụ chiếm ưu thế so với sự tán xạ, còn các hạt keo kích
thước lớn được mong đợi làm tăng trưởng huỳnh quang vì thành phần tán xạ chiếm
ưu thế so với sự hấp thụ. Khả năng một bề mặt kim loại hấp thụ hay phản xạ ánh
sáng là do các yêu cầu kết hợp vector sóng của sóng ánh sánh tới và vectơ sóng
plasmon ở mặt phân cách kim loại - điện môi.
1.2.1.3. Sự tăng cường và dập tắt huỳnh quang bởi các cấu trúc nano kim loại
Các cấu trúc nano kim loại được sử dụng phổ biến để điều khiển huỳnh
quang của các chất phát quang là các cấu trúc nano vàng và bạc. Đã có khánhiều
nghiên cứu về ảnh hưởng của hiệu ứng plasmon bề mặt của các hạt nano vàng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
và bạc lên huỳnh quang của các hạt phát quang đặt gần đó. Các cấu trúc nano
kim loại có thể làm tăng cường hoặc dập tắt huỳnh quang của các chất phát quang
tùy thuộc vào cấu hình quang học giữa chất phát quang và kim loại. Sự tăng
cường hay dập tắt huỳnh quang của các hạt phát quang khi đặt gần các hạt kim
loại có thể được giải thích theo mô hình plasmon bức xạ như trên và các tính chất
quang của các hạt keo kim loại. Hệ số dập tắt của các hạt keo kim loại do hai
thành phần quyết định đó là hấp thụ và tán xạ. Sự phân bố tương đối giữa hấp
thụ và tán xạ trong hệ số dập tắt phụ thuộc vào từng kim loại và kích thước của
chúng. Ánh sáng tới gây ra các dao động điện tích trong các hạt keo kim loại
tương tự như trong trường hợp đối với màng kim loại, và các dao động điện tích
có thể phát xạ năng lượng như là một sóng lan truyền trường xa. Theo mô hình
plasmon bức xạ, sự hấp thụ của các hạt kim loại sẽ gây ra sự dập tắt huỳnh quang
và thành phần tán xạ sẽ làm tăng cường huỳnh quang.
Các nghiên cứu chỉ ra khi đưa một chất phát quang vào gần một cấu trúc
kim loại, luôn có sự truyền năng lượng một chiều từ chất phát quang sang kim
loại (tương tự như quá trình truyền năng lượng huỳnh quang giữa hai chất phát
quang) do thời gian sống của điện tử trong kim loại là rất ngắn ~ 10 fs [9]. Sự
thay đổi cường độ huỳnh quang của một chất phát quang khi có mặt hạt kim loại
phụ thuộc vào cả hai quá trình hấp thụ và tán xạ của hạt kim loại. Nếu quá trình
hấp thụ chiếm ưu thế, huỳnh quang của chất phát quang sẽ bị dập tắt. Quá trình
hấp thụ gây ra các plasmon định xứ trên bề mặt kim loại, các plasmon này là các
sóng tiêu tán trên bề mặt kim loại. Nếu quá trình tán xạ hay kích thích các
plasmon bức xạ ra không gian tự do chiếm ưu thế, cường độ huỳnh quang sẽ
được tăng cường. Lúc đó hiệu suất lượng tử của chất phát quang sẽ tăng. Hai quá
trình này có thể được mô tả là tương ứng với hai cơ chế truyền năng lượng: truyền
năng lượng Förster (tương tự như truyền năng lượng giữa 2 chất phát quang) từ
hạt phát huỳnh quang tới các hạt nano kim loại làm dập tắt huỳnh quang; và tăng
cường trường plasmon ở tần số phát xạ huỳnh quang (plasmon liên kết tăng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
cường huỳnh quang) làm tăng cường huỳnh quang [14].
Sự truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang giữa một phần tử chất phát
quang và một hạt nano kim loại có thể được minh họa như trên hình 1.11. Chất
phát quang đóng vai trò là donor - chất cho và hạt nano kim loại đóng vai trò là
chất nhận - acceptor. Ánh sáng huỳnh quang từ chất phát quang đến kích thích
các plasmon bề mặt của hạt nano kim loại, kết quả là huỳnh quang của chất phát
quang có thể được tăng cường hoặc dập tắt.
Hình 1.11. Minh họa sự truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh quang giữa phát chất
huỳnh quang (donor) và hạt nano kim loại (acceptor) [14]
Theo lý thuyết truyền năng lượng, sự truyền năng lượng cộng hưởng huỳnh
quang hay truyền năng lượng Förster (FRET) là sự truyền năng lượng không bức
xạ phụ thuộc vào khoảng cách từ một chất phát huỳnh quang bị kích thích (donor)
lên một chất nhận (acceptor) phù hợp thông qua tương tác lưỡng cực Coulomb.
Điều kiện để có FRET xảy ra là phải có sự chồng chập giữa phổ phát xạ của donor
D và phổ hấp thụ của acceptor A; donor và acceptor coi như 2 lưỡng cực dao động
định hướng song song; và sự truyền năng lượng xảy ra trong một khoảng cách phù
hợp nhất định (thông thường từ 1 đến 10 nm đối với 2 phần tử chất màu hữu cơ).
Hiệu suất truyền năng lượng được cho bởi biểu thức:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
FRET 6
FRET
1
E =
1+(R/R )
(1.45)
trong đó R là khoảng cách giữa D và A, RFRET là bán kính Förster (bán kính mà tại
đó cường độ huỳnh quang của donor giảm đi một nửa).
Các kết quả thực nghiệm gần đây cho thấy rằng sự truyền năng lượng giữa
chất phát huỳnh quang (donor D) và hạt nano kim loại (acceptor A) giống như sự
truyền năng lượng từ một lưỡng cực dao động cho một bề mặt kim loại (truyền
năng lượng bề mặt - SET) với hiệu suất truyền năng lượng tỷ lệ với bậc 4 của
khoảng cách và được cho bởi biểu thức:
SET 4
SET
1
E =
1+(R/R )
(1.31)
trong đó RSET là bán kính truyền năng lượng bề mặt SET tương tự như bán kính
Förster.
Đối với bài toán hiệu ứng plasmon bề mặt, trong các tài liệu nghiên cứu có
liên quan cho thấy còn có tồn tại một cơ chế truyền năng lượng nữa là cơ chế
truyền năng lượng Coulomb (CET) bằng cách phát xạ plasmon - cơ chế này làm
tăng cường huỳnh quang. Tương tự như các trường hợp FRET và SET, hiệu suất
truyền năng lượng trong CET được cho bởi:
CET 2
CET
1
E =
1+(R/R )
(1.32)
ở đây RCET là bán kính tương tác CET, tương tự như bán kính Förster.
Tại R = RFRET, RSET và RCET, một nửa năng lượng kích thích của D được
truyền tới hạt nano kim loại A. Tốc độ truyền năng lượng kE được xác định:
kE GDGA (1.33)
trong đó, GA và GD các hệ số tương tác của donor và acceptor [20]. Những hệ số
này có thể được đơn giản hóa theo nghịch đảo khoảng cách phụ thuộc vào sự sắp
xếp hình học của các lưỡng cực: lưỡng cực đơn: G 1/R3, lưỡng cực 2 chiều: G
1/R và lưỡng cực 3 chiều: G const.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Trong trường hợp của FRET, D và A là hai lưỡng cực đơn, do đó tốc độ
truyền sẽ tỷ lệ với:
kFRET GDGA GDiopleGDiople(1/R3)(1/ R3) = 1/R6 (1.34)
Tương tự, tốc độ truyền năng lượng từ một lưỡng cực đến một bề mặt kim
loại được mô tả sự chuyển đổi liên vùng (interband), được tiếp tục mở rộng đến
các electron dẫn trong các kim loại, với tốc độ truyền năng lượng bề mặt SET là:
kSET GDGA GDiopleGSurf(1/R3)(1/R) = 1/R4 (1.35)
Tương tự, tốc độ truyền CET là :
kCET GDGA GSurfGSurf(1/R)(1/R) = 1/R2 (1.36)
Như vậy, năng lượng truyền đến một bề mặt theo các khoảng cách rất khác
nhau và độ lớn tương tác là khác nhau. Do đó sự tăng cường hay dập tắt huỳnh
quang phụ thuộc vào các tốc độ truyền năng lượng khác nhau hay cấu hình quang
học giữa donor và acceptor.
1.2.2.Một số cấu hình plasmonic hoạt động
Thuật ngữ “plasmonic hoạt động” được quy cho các thiết bị chứa các cấu
trúc vật liệu có hiệu ứng cộng hưởng plasmon kết hợp với đầu vào điều khiển vật
lý hoặc hóa học. Các plasmonic hoạt động là một khía cạnh đang phát triển và
đầy thách thức của lĩnh vực nghiên cứu plasmonics (các nghiên cứu về cấu trúc
vật liệu có hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt). Nó khai thác sự kiểm soát tích
cực của cộng hưởng plasmon bề mặt, mối quan hệ lý thuyết giữa cộng hưởng
plasmon bề mặt và các yếu tố ảnh hưởng của nó, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu
về kiểm soát plasmon hoạt động. Các ứng dụng này được gọi là các hệ plasmonic
hoạt động (active plasmonics system) với nguyên lý hoạt động dựa trên sự thay
đổi phản ứng về màu sắc do hiện tưởng cộng hưởng plasmon bề mặt.
Hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt được ứng dụng trong các cấu trúc
plasmonic hoạt động điển hình là cấu trúc plasmonic trong môi trường điện môi
có thể điều chỉnh, cấu trúc plasmonic với khoảng cách khoảng cách điều chỉnh
và cấu trúc plasmonic tự điều chỉnh. Các ứng dụng có thể kể đến như các thiết bị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
chuyển đổi nano, nghiên cứu công tắc điện trở với ánh sáng, màng khóa siêu vật
liệu plasmonic, cảm biến plasmonic, tán xạ Raman tăng cường bề mặt có thể điều
chỉnh, các thành phần plasmonic hoạt động trong cửa sổ thông minh điện hóa;
stretchable plasmonics (plasmonics kéo dài) với sự kết hợp một cấu trúc kim loại
với vật liệu đàn hồi mềm cho phép tạo ra các thiết bị plasmonic có thể bị biến
dạng để thay đổi màu sắc; thiết bị plasmonics lượng tử sử dụng hiệu ứng sự
xuyên hầm lượng tử của các electron từ hạt nano kim loại này sang hạt nano kim
loại khác làm thay đổi các plasmonics khi hai hạt kim loại tiến gần hơn 1nm, do
đó có thể phát triển một cách mới để đo màu sắc của ánh sáng trong các khoảng
trống nano bằng cách chỉ ra trực tiếp cách đường hầm lượng tử thay đổi quang học
[7, 5].
Trong đề tài này, thí nghiệm truyền năng lượng được nghiên cứu giữa các
hạt nano kim loại vàng dạng keo và các chất phát quang trên cơ sở chất màu hữu cơ
được thực hiện nhằm phục vụ cho ứng dụng tạo các plasmonic hoạt động, đồng thời
nghiên cứu các điều kiện để có sự tăng cường và dập tắt huỳnh quang và cơ chế
truyền năng lượng tương ứng với các điều kiện đó. Các màng nano kim loại bạc
cũng được sử dụng để nghiên cứu ảnh hưởng của accs plasmon bề mặt lên một
chất phát quang đặt trên nó.
Chương 2
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
CÁC PHÉP ĐO THỰC NGHIỆM
Các phép đo thực nghiệm để nghiên cứu ảnh hưởng của hiệu ứng plasmon
bề mặt của các cấu trúc nano kim loại lên sự phát xạ của chất phát huỳnh quang
bao gồm các phép đo phổ quang học như hấp thụ, huỳnh quang, và các phương
pháp hiện ảnh bằng kính hiển vi huỳnh quang.
2.1. Các phương pháp đo phổ
2.1.1. Phép đo phổ hấp thụ
Phổ hấp thụ là đường biểu diễn sự phụ thuộc của hệ số hấp thụ α của môi
trường vật vào bước sóng của ánh sáng tới.
Đối với các hạt nano vàng, để khảo sát tính chất hấp thụ plasmon, chúng tôi
tiến hành đo phổ hấp thụ của chúng trong vùng nhìn thấy đến tử ngoại gần. Việc
quan sát thấy sự dịch chuyển của đỉnh hấp thụ về phía các bước sóng ngắn đối với
các hạt vàng kích thước nhỏ hơn là một bằng chứng thực nghiệm quan trọng chứng
tỏ tiết diện tắt và tiết diện hấp thụ phụ thuộc vào kích thước hạt.
Chiếu một chùm tia sáng đơn sắc có cường độ I0 song song vào một môi
trường vật chất có bề dày l (cm) và nồng độ C (mol/l), chùm tia này sẽ bị môi
trường hấp thụ và truyền qua. Cường độ I của chùm tia truyền qua môi trường này
bị giảm theo định luật Lambert - Beer: ln (I0/I) = K
hay: ln (I0/I)= lC
Trong đó: Klà hệ số hấp thụ; là số mol chất nghiên cứu đặt trên đường
đi của bức xạ
Đại lượng ln(I0/I) gọi là mật độ quang (D) hay độ hấp thụ (A), là hệ số tắt
có giá trị bằng mật độ quang của dung dịch khi nồng độ chất hấp thụ bằng một
đơn vị và độ dày chất hấp thụ bằng một đơn vị. Hệ số chỉ phụ thuộc vào vật liệu
hấp thụ và bước sóng.Độ truyền qua của môi trường: T= I / I0.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Sự hấp thụ thường tập trung vào từng vùng phổ, cho nên để thuận lợi, người
ta thường biểu diễn và xem xét từng vùng phổ riêng biệt như vùng tử ngoại, khả
kiến, hồng ngoại.Đường cong biểu diễn sự phụ thuộc của hệ số hấp thụ vào tần số
hoặc bước sóng gọi là đường cong hấp thụ (hay phổ hấp thụ). Mỗi chất đều hấp
thụ lọc lựa những tần số hay bước sóng khác nhau.
Nguyên tắc đo phổ hấp thụ:
Nếu chiếu một bức xạ đơn sắc cường độ I0() tới một mẫu đồng thể có độ dài
l, cường độ I() còn lại ở lối ra khỏi mẫu thì nhỏ hơn I0(). Độ truyền qua được xác
định là T () = I()/ I0(), và độ hấp thụ của mẫu được xác định là A() = - log10
T(). Các phổ được vẽ với các thiết bị truyền thống là với "chùm sáng đúp" cho một
cách trực tiếp độ truyền qua T(). Với kỹ thuật máy tính hiện nay người ta cũng
dùng một cách dễ dàng cả độ truyền qua và độ hấp thụ.
Hình 2.1. Sơ đồ hệ đo hấp thụ quang UV-Vis
Các máy quang phổ được dùng giống như sự bố trí các máy tán sắc, gồm các
lăng kính NaCl hoặc tốt hơn là các cách tử với các kính lọc giao thoa. Hệ quang
học với hai chùm tia cho phép nhận được trực tiếp tỷ lệ I / Iref. giữa cường độ I
của chùm đã xuyên qua mẫu và cường độ I của chùm đã xuyên qua phần mẫu so
sánh. Sự so sánh trực tiếp này cho phép bảo đảm rằng phổ I () và I ref. () được
ghi trong cùng một điều kiện. Các phép đo phổ hấp thụ được tiến hành trên hệ máy
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
quang phổ UV-visible-Nir Absorption Spectrophotometer (nhãn hiệu Cary 5000,
Varian) có ở Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Sơ đồ hệ đo hấp
thụ được trình bày trên hình 2.1.
2.1.2. Phép đo phổ huỳnh quang
Hiện tượng huỳnh quang có nguồn gốc từ các chuyển dời bức xạ giữa các
mức năng lượng của điện tử khi vật liệu bị kích thích. Nếu phân tử hấp thụ ánh sáng
trong vùng nhìn thấy hoặc vùng tử ngoại thì năng lượng hấp thụ sẽ ứng với các mức
điện tử như vậy sẽ có chuyển dời điện tử trong phân tử từ quỹ đạo này sang quỹ
đạo khác. Phổ huỳnh quang biểu diễn sự phụ thuộc của cường độ huỳnh quang vào
bước sóng phát xạ dưới kích thích bằng ánh sáng dưới bước sóng nhất định nào đó.
Từ trạng thái kích thích, điện tử trở về trạng thái cơ bản bằng các con đường khác
nhau: hồi phục không bức xạ và hồi phục bức xạ.
Phổ huỳnh quang là hàm phân bố năng lượng bức xạ của chất huỳnh quang
theo tần số hay bước sóng. Phổ huỳnh quang phụ thuộc vào thành phần và cấu
trúc của các tâm bức xạ và các tác nhân bên ngoài và có một số đặc điểm sau:
(1) Tần số huỳnh quang luôn bé hơn tần số của ánh sáng kích thích. Nghĩa là
năng lượng huỳnh quang nhỏ hơn năng lượng dùng để kích thích huỳnh quang.Tần
số huỳnh quang trong trường hợp này gọi là tần số Stokes.
(2) Dạng phổ huỳnh quang không phụ thuộc vào năng lượng ánh sáng kích
thích vì sau khi kích thích chỉ cần một thời gian rất ngắn, sự phân bố các phân tử
trên các trạng thái kích thích sẽ tuân theo phân bố Boltzmann.
(3) Phổ huỳnh quang phụ thuộc vào các tạp chất nằm trong mẫu. Những tạp
chất này ảnh hưởng lớn đến phổ huỳnh quang và trong nhiều trường hợp làm tắt
ánh sáng huỳnh quang.
Sơ đồ khối hệ đo huỳnh quang:
Hình 2.2 mô tả sơ đồ khối của hệ đo huỳnh quang: Tín hiệu kích thích từ
nguồn sáng được chiếu lên mẫu để kích thích các điện tử từ trạng thái cơ bản lên
các trạng thái kích thích. Tín hiệu huỳnh quang được phân tích qua máy đơn sắc và
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
thu nhận tín hiệu qua đầu thu để biến đổi thành tín hiệu đưa ra xử lý. Một photodiode
được đặt trước mẫu để theo dõi sự thay đổi công suất nguồn sáng kích thích. Phổ
huỳnh quang của các mẫu được đo trên phổ kế huỳnh quang Carry Eclipse, nguồn
kích là đèn Xenon (hình 2.3) tại Trung tâm Điện tử lượng tử, Viện Vật lý, Viện khoa
học và Công nghệ Việt Nam.
Hình 2.2. Sơ đồ khối của phép đo quang huỳnh quang
Hình 2. 3. Cấu hình chi tiết của một máy phổ kế huỳnh quang Carry Eclipse
2.2. Phương pháp hiện ảnh: Kính hiển vi huỳnh quang
Nguồn sáng
Đèn Xê-nôn
Máy đơn sắc
Cửa sập
Kính lọc
Tấm chia chùm
Tấm phân cực
Ref - Cell
Môđun
quang họcMáy đơn sắc
Buồng đựng mẫu
Điều khiển
máy đơn sắc
Máy tính
Hiển thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – ĐHTN
Kính hiển vi huỳnh quang cơ bản là giống kính hiển vi quang thông thường
nhưng thêm vào đặc trưng và thành phần để mở rộng khả năng của chúng.
Kính hiển vi quang thông thường sử dụng ánh sáng chiếu vào mẫu vật và
tạo hình ảnh phóng to của vật đó. Kính hiển vi huỳnh quang sử dụng ánh sáng
với cường độ lớn hơn rất nhiều để chiếu vào mẫu vật. Ánh sáng này sẽ kích thích
huỳnh quang mẫu vật có bước sóng dài hơn. Kính hiển vi huỳnh quang cũng tạo
ra hình ảnh phóng to của vật, nhưng hình ảnh này được tạo trên cơ sở nguồn sáng
thứ cấp - ánh sáng huỳnh quang. Trong kính hiển vi huỳnh quang, gương lưỡng
sắc (dichroic mirror) được sử dụng để phân tách đường đi của ánh sáng kích thích
và ánh sáng phát xạ.
Hình 2.4. Gương lưỡng sắc (dichroic mirror) phân tách đường đi của ánh sáng
kích thích và ánh sáng phát xạ
Gương lưỡng sắc có tính chất phản xạ đặc biệt cho phép phân tách đường
đi của hai chùm ánh sáng. Mỗi gương lưỡng sắc có một giá trị bước sóng giới
hạn, gọi là giá trị bước sóng chuyển pha, mà ở bước sóng đó 50% ánh sáng truyền
qua. Gương sẽ phản xạ những ánh sáng có bước sóng nhỏ hơn giá trị bước sóng
chuyển pha và truyền qua ánh sáng có bước sóng lớn hơn giá trị này. Chính vì
tính chất này mà gương có tên gọi là
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_anh_huong_cua_hieu_ung_plasmon_be_mat_cua_cac_cau_t.pdf