Tóm tắt Luận án Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên

Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu về bính đẳng giới

trong lĩnh vực chình trị nói riêng, cần tăng cường nâng cao nhận

thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chình quyền, các tổ chức

chình trị - xã hội, và nhân dân, tạo bước chuyển biến rõ rệt về hiệu

quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương, đơn vị. Tăng cường

vai trò lãnh đạo của các cấp ủy Đảng trong việc cụ thể các chủ trương

và định hướng về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị. Đảng

phải luôn ý thức và đánh giá cao vai trò của phụ nữ - một lực lượng

quan trọng trong suốt chặng đường phát triển của đất nước. Các cơ

quan Ðảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, tổ chức xã

hội, và các cơ quan thông tin đại chúng. tăng cường tuyên truyền,

giáo dục nâng cao nhận thức về giới, quyền chình trị và ý thức trách

nhiệm thực hiện bính đẳng giới trong lĩnh vực chình trị cho cán bộ,

đảng viên và các tầng lớp nhân dân; lên án, đấu tranh chống tư tưởng

định kiến giới, phân biệt đối xử về giới, các hành vi xâm hại, xúc

phạm nhân phẩm, danh dự của phụ nữ. Đảm bảo ghi nhận vị trì, vai

trò, khả năng và quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị.

pdf26 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 14/03/2022 | Lượt xem: 394 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tóm tắt Luận án Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1.1.3.1. Quyền bầu cử, ứng cử của phụ nữ 1.1.3.2. Quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ 7 1.1.3.3. Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ 1.1.3.4. Quyền tham gia các tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ 1.1.3.5. Quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ 1.2. Điều chỉnh pháp luật về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị 1.2.1. Pháp luật quốc tế về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị Dưới góc độ pháp luật quốc tế, những quy định liên quan trực tiếp và gián tiếp đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị có thể tím thấy trong nhiều công ước quốc tế về quyền con người như: Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền năm 1948 (UDHR), Công ước về các quyền chình trị của phụ nữ năm 1952, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chình trị năm 1966 (ICCPR), Công ước về xóa bỏ các hính thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979 (CEDAW) 1.2.2. Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị Trong toàn bộ quá trính lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tư tưởng chỉ đạo nhất quán và xuyên suốt của Đảng ta là bảo đảm quyền bính đẳng và không phân biệt đối xử với phụ nữ. Tư tưởng này được thể chế hóa trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013 và được pháp luật của Nhà nước quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật về quyền chình trị và cơ chế đảm bảo quyền chình trị của phụ nữ, biến nó trở thành chuẩn mực, quy tắc xử xự bắt buộc chung đối với toàn xã hội. 1.3. Các điều kiện đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị 1.3.1. Điều kiện chính trị Điều kiện chình trị là toàn bộ các yếu tố tạo nên đời sống chình trị của xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, bao gồm môi trường chình trị, hệ thống các chuẩn mực chình trị, chủ trương, đường lối, chình sách của Đảng và quá trính tổ chức thực hiện chúng; các quan hệ chình trị và ý thức chình trị; hoạt động của hệ thống chình trị; cùng với đó là nền dân chủ xã hội và bầu không khì chình trị - xã hội. Điều kiện chình trị chình là môi trường chình trị, đó là điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn đối với hoạt động thực hiện pháp luật. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã 8 hội. Do vậy, sự lãnh đạo của Đảng có vai trò quan trọng trong việc định hướng, chỉ đạo sự tham gia chình trị của phụ nữ. 1.3.2. Điều kiện nhận thức Để đảm bảo sự bính đẳng và những quyền lợi chình đáng của phụ nữ, người phụ nữ Việt Nam cần phải nhận thức được rằng bản thân người phụ nữ phải nỗ lực, vượt qua chình mính, vượt qua những định kiến giới, phải tự mính nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tự mính đề xuất những tâm tư, nguyện vọng, tự mính khẳng định năng lực và vị trì của mính ở các góc độ khác nhau từ cộng đồng đến quốc gia và quốc tế. Bên cạnh đó, người phụ nữ cũng rất cần sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, gia đính và toàn xã hội nhín nhận về vai trò vị trì của phụ nữ một cách đầy đủ và đúng đắn, có những chình sách thiết thực khuyến khìch, tăng cường, phát huy vai trò và vị trì của phụ nữ, trao quyền thật sự cho phụ nữ để phụ nữ được tham gia vào đời sống chình trị, xã hội. 1.3.3. Điều kiện pháp lý Bảo đảm quyền chình trị của phụ nữ là một quá trính, phụ thuộc vào tổng thể nhiều điều kiện khác nhau như kinh tế, chình trị, văn hóa, pháp luậttrong đó, pháp luật có vai trò quan trọng hàng đầu. Pháp luật là phương tiện chình thức hóa các giá trị của quyền con người, quyền bính đẳng giới, quyền chình trị. Với chức năng là công cụ để nhà nước quản lý, bảo vệ các giá trị xã hội và bảo đảm công bằng xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xác lập quyền chình trị của phụ nữ trong xã hội. Pháp luật còn có vai trò quan trọng tạo tiền đề cho phụ nữ thực hiện các quyền chình trị được pháp luật đã ghi nhận. 1.3.4. Điều kiện xã hội Tình chất, mức độ của nền dân chủ xã hội có ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động thực hiện pháp luật. Nền dân chủ rộng rãi, thông tin đa dạng, phong phú, nhiều chiều sẽ giúp các tầng lớp xã hội thẳng thắn công khai, cởi mở bày tỏ chình kiến, quan điểm của mính đối với pháp luật và các cơ quan thực thi pháp luật trong quá trính thực hiện quyền chình trị nói chung, quyền chình trị của phụ nữ nói riêng. 1.3.5. Điều kiện kinh tế Điều kiện kinh tế có ảnh hưởng rất quan trọng đến lợi ìch và do đó, tác động đến tư tưởng, quan điểm, thái độ, niềm tin của các tầng lớp nhân dân đối với pháp luật. Khi nền kinh tế phát triển, đời sống vật chất của các tầng lớp dân cư được cải thiện, lợi ìch kinh tế 9 được đảm bảo thí nhân dân sẽ phấn khởi tin tưởng vào đường lối kinh tế, chình sách pháp luật, sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động điều hành, quản lý của Nhà Nước. Khi đó, niềm tin của các chủ thể đối với pháp luật được củng cố. Quá trính thực hiện các quyền của con người trong đó có quyền chình trị sẽ mang tình tìch cực, thuận chiều, phù hợp với các giá trị, chuẩn mực pháp luật hiện hành. Tiểu kết chƣơng 1 Quyền chình trị thuộc hệ thống các quyền con người và là một trong những quyền quan trọng nhất của con người. Phụ nữ vốn là nhóm người dễ bị tổn thương, có tâm sinh lý đặc biệt và chịu nhiều định kiến của xã hội. Ví vậy, bảo đảm quyền của phụ nữ, trong đó có quyền chình trị của phụ nữ là một trong những dấu hiệu nhận biết của một xã hội văn minh, hiện đại, dân chủ, nhân quyền. Quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị được pháp luật quốc tế ghi nhận ở các tầng nấc khác nhau. Ở Việt Nam, quyền chình trị của công dân nói chung và của phụ nữ nói riêng được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ. Phụ nữ có quyền bính đẳng trong đời sống chình trị. Như các công dân khác, phụ nữ có quyền ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước, tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Để quyền chình trị của phụ nữ được hiện thực hóa, cần có những điều kiện đảm bảo. Các điều kiện đó bao gồm các phương diện: chình trị, nhận thức, kinh tế, xã hội....Theo đó, việc tạo lập các điều kiện để thực hiện các quyền chình trị của phụ nữ là trách nhiệm của Nhà nước và xã hội, cần phải được triển khai theo những lộ trính phù hợp. 10 CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ Ở TỈNH PHÚ YÊN HIỆN NAY 2.1. Một số yếu tố đặc thù của tỉnh Phú Yên có ảnh hƣởng tới đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị 2.1.1. Khái quát các đặc thù về địa lý – dân cư, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh Phú Yên Phú Yên là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ với diện tìch tự nhiên là 5.060 km2, phìa Bắc giáp tỉnh Bính Định, phìa Nam giáp tỉnh Khánh Hòa, phìa Tây giáp tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk, phìa Đông giáp biển Đông. Phú Yên có vị trì địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Tỉnh Phú Yên có 09 đơn vị hành chình gồm các huyện: Đồng Xuân, Đông Hòa, Sông Hinh, Sơn Hòa, Phú Hòa, Tây Hòa, Tuy An, thị xã Sông Cầu và thành phố Tuy Hòa (là trung tâm tỉnh lỵ). Phú Yên có khoảng 31 dân tộc anh em cùng sinh sống, trong đó, đông nhất là dân tộc Kinh chiếm 95% dân số của tỉnh.Dân số trong toàn tỉnh (tình đến tháng 9 năm 2017) là 904.484 người, mật độ dân số năm 2016 là 172 người/km2. Tổng số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân toàn tỉnh Phú Yên là 498.710 người. Trong đó, tỷ lệ lao động trong khu vực nông, lâm, ngư nghiệp là 295.236 người chiếm 59,2%; khu vực công nghiệp - xây dựng là 81.789 người chiếm 16,4%; khu vực dịch vụ là 121.685 người chiếm 24,4% tổng số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân. Xuất phát từ vị trì địa lý, về đặc điểm dân cư và truyền thống lịch sử, văn hóa của tỉnh Phú Yên, trong quá trính thực hiện sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo, Phú Yên đã và đang có những bước phát triển khá, đạt được các thành tựu quan trọng về kinh tế - văn hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, so với các tỉnh Nam Trung bộ, Phú Yên vẫn còn là một tỉnh nghèo, trong đó có hai huyện miền núi Sông Hinh và Đồng Xuân được xếp trong 62 huyện nghèo của cả nước. Toàn tỉnh có thu nhập bính quân đầu người thấp so với mức bính quân chung của cả nước, đời sống của nhân dân nói chung và của phụ nữ nói riêng, đặc biệt ở khu vực nông thôn, miền núi còn gặp nhiều khó khăn. Kinh tế 11 nông nghiệp với tỷ trọng chiếm 77,8 % kinh tế của tỉnh Phú Yên. Sản xuất nông nghiệp mặc dù đã được áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhưng do ảnh hưởng thời tiết nắng hạn kéo dài, thiên tai lớn do bão lũ, dịch bệnh ở người và một số cây trồng, thủy sản nuôi tái diễn... đã ảnh hưởng đến tính hính sản xuất, kinh doanh và đời sống nhân dân, làm cho một bộ phận nông dân phải sản xuất trong điều kiện khó khăn, gian khổ. Theo tập quán trong sinh hoạt cuộc sống gia đính, phần lớn công việc nội trợ vẫn tập trung vào người phụ nữ, phụ nữ có vai trò thấp hơn nam giới, coi trọng con trai hơn con gái. Về định kiến giới, gánh nặng trách nhiệm với gia đính, cơ chế thị trường và sự phát triển xã hội đang làm đầy thêm gánh nặng trách nhiệm của người phụ nữ trong thiên chức người vợ, người mẹ, người thầy đầu tiên của con cái. Quỹ thời gian của phụ nữ bị phân tán vào công việc nội trợ, chăm sóc gia đính cộng với đời sống khó khăn về kinh tế khiến nhiều chị em ìt có điều kiện để tiếp cận với những cơ hội để phát triển bản thân. Gánh nặng gia đính bao giờ cũng dồn lên trách nhiệm của người phụ nữ, bởi vậy, nó tỷ lệ nghịch đối với sự phát triển vươn lên vị trì lãnh đạo, quản lý của người phụ nữ. Đây là một thách thức đặt ra đối với hầu hết phụ nữ và tác động không nhỏ đến cơ hội thăng tiến của phụ nữ trong tỉnh. 2.1.2. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị tại tỉnh Phú Yên Tỉnh Phú Yên có 09 đơn vị hành chình huyện, thị xã, thành phố, với 112 xã, phường, thị trấn (88 xã, 16 phường và 8 thị trấn). Tổng số cán bộ, công chức, viên chức toàn tỉnh là 23.867 người, trong đó cán bộ, công chức, viên chức nữ là 11.798 người, chiếm tỷ lệ 49,4%. Hệ thống chình trị trong toàn tỉnh cơ bản hoạt động hiệu quả, vững mạnh, thường xuyên được củng cố, kiện toàn; năng lực lãnh đạo của tổ chức đảng, hiệu lực quản lý, điều hành của chình quyền, sự phối hợp hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chình trị - xã hội ngày càng hiệu quả, đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng chình đáng của nhân dân, đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ chình trị, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở được nâng cao; đội ngũ cán bộ được trẻ hóa, có trính độ, năng lực, ý thức tổ chức kỷ luật cao, nhiệt tính trong công tác, cơ bản đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ 12 trong giai đoạn hiện nay. Luôn thể hiện tinh thần phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận trong việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng và chình sách, pháp luật của Nhà nước. 2.1.3. Quá trình phát huy vai trò và khả năng tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên Trong lịch sử, phụ nữ tỉnh Phú Yên luôn giữ vai trò quan trọng và có những đóng góp đáng kể cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước, xây dựng và phát triển đất nước. Kế tục truyền thống đấu tranh bất khuất, kiên cường của Bà Trưng, Bà Triệu, lịch sử lại tiếp tục ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ đã cống hiến, hy sinh ví độc lập tự do của Tổ quốc trong cuộc kháng chiến chống mỹ cứu nước. Bước vào công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, phụ nữ Phú Yên vượt qua khó khăn, cần cù lao động, vươn lên thoát nghèo; các tầng lớp phụ nữ Phú Yên ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mính tham gia đóng góp công sức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của đất nước. Với những thành quả đạt được, vai trò của phụ nữ ngày càng được khẳng định trong gia đính và ngoài xã hội, phụ nữ Phú Yên ngày càng có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Phú Yên. 2.2. Thực tiễn đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay 2.2.1. Bảo đảm quyền bầu cử và ứng cử của phụ nữ Ở tỉnh Phú Yên, các quyền cơ bản của công dân luôn được coi trọng, đặc biệt là quyền bầu cử và ứng cử. Cùng với nam giới, việc tham gia bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp là cơ hội để nữ giới lựa chọn, bầu ra những người tiêu biểu về đức, tài, những người đủ tiêu chuẩn, không phân biệt nữ, nam xứng đáng đại diện cho ý chì, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân. Phụ nữ thực hiện quyền bầu cử của mính là trực tiếp phát huy quyền dân chủ trong xây dựng Đảng, Nhà nước và các tổ chức chình trị xã hội, trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp. Phụ nữ tham gia bầu cử đó vừa là quyền, vừa là nghĩa vụ của chình bản thân phụ nữ. Có thể nói, quá trính tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân được thực hiện theo quy định của pháp luật. Phụ nữ tham gia các cơ quan dân cử, góp phần bảo đảm bính đẳng giới và tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị thí không chỉ các cấp ủy Đảng, chình quyền, Mặt trận, các ngành, mà 13 còn có vai trò quan trọng của Hội liên hiệp phụ nữ trong việc đề cao trách nhiệm về giới thiệu nhân sự nữ ứng cử viên, cũng như giám sát quyền của của phụ nữ tham gia vào các cơ quan dân cử. Tuy nhiên, hiện tại tỷ lệ nữ giới tham gia vào hệ thống chình trị với vai trò là lãnh đạo vẫn còn thấp. Các ban tổ chức các cuộc bầu cử, bỏ phiếu tìn nhiệm từ tỉnh đến địa phương hầu như chưa quan tâm đúng mức đến việc bảo đảm cho sự tham gia của phụ nữ một cách công bằng trong các danh sách bầu cử, ứng cử. Số lượng phụ nữ tham gia trong các danh sách bầu cử, ứng cử so với nam giới vẫn còn rất ìt. Rõ ràng là chúng ta còn thiếu chế tài và các điều kiện thực tế để hiện thực hóa các chỉ tiêu về giới như đã được khẳng định trong các văn bản pháp lý. Điều đặc biệt quan tâm là một số chị em phụ nữ mặc dù có trính độ chuyên môn, năng lực thực sự nhưng chưa năng nổ, hăng hái, vượt qua mặc cảm, tự khẳng định vị thế của mính trong xã hội. Nguyên nhân của những hạn chế trên bắt nguồn từ sự định kiến về giới. Điều này do trính độ nhận thức của một bộ phận đông đảo do lịch sử để lại. Mặc dù các cấp uỷ Đảng, chình quyền, Hội Liên hiệp Phụ nữ đã có nhiều nỗ lực nhằm hạn chế sự định kiến về giới nhưng kết quả còn hạn chế. 2.2.2. Bảo đảm quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của phụ nữ Việc đảm bảo cho phụ nữ thực hiện quyền chình trị trên địa bàn tỉnh Phú Yên là rất quan trọng để phụ nữ tự khẳng định vai trò, vị trì của mính trong quá trính tham gia vào đời sống chình trị - xã hội của tỉnh. Khi phụ nữ được tham gia vào quản lý, lãnh đạo ở các cấp, tức là họ đã thật sự tham gia vào các cơ quan quyền lực nhà nước, đại diện cho giới nữ trực tiếp tham gia vào công tác hoạch định chình sách và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, có cơ hội trực tiếp tham gia vào việc quyết định những chủ trương và biện pháp quan trọng của địa phương, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đồng thời có những điều kiện, cơ hội thuận lợi để phản ánh tâm tư, nguyện vọng, bảo vệ quyền lợi ìch chình đáng của phụ nữ ở địa phương. Tuy nhiên, qua thống kê số liệu, ở địa bàn tỉnh Phú Yên, cán bộ nữ tham gia Đại biểu Quốc Hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, tham gia cấp ủy Đảng, tham gia lãnh đạo, quản lý trong chình quyền, tham gia các tổ chức chình trị - xã hội với tỷ lệ rất thấp so với nam 14 giới. Khoảng cách giữa nam và nữ là rất lớn, tỷ lệ nữ còn thấp so với chỉ tiêu của Nghị quyết 11-NQ/TW và Chiến lược quốc gia về bính đẳng giới giai đoạn 2011- 2010 đề ra. 2.2.3. Bảo đảm quyền bỏ phiếu trưng cầu dân ý của phụ nữ Trong bối cảnh đất nước Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với các nước trong khu vực và trên thế giới, Tỉnh Phú Yên luôn quan tâm chú trọng việc tổ chức trưng cầu ý dân, đây là vấn đề hết sức cần thiết, tạo điều kiện để nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng có thể tham gia sâu hơn, thể hiện chình kiến của mính, có tình quyết định với tư cách chủ thể đối với những vấn đề quan trọng của đất nước thông qua việc thực hiện nguyên tắc phổ thông, bính đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kìn khi trưng cầu ý dân nhằm tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường sự đồng thuận xã hội, góp phần đảm bảo sự phát triển bền vững của Việt Nam trong quá trính hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những tồn tại, hạn chế ở một số địa phương, do nhận thức chưa đầy đủ về bản chất dân chủ của trưng cầu dân ý, nhất là chưa nhận thức được ý nghĩa của việc nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp. Bên cạnh đó có những cán bộ do trính độ hạn chế, không nhận thức đúng về các hính thức dân chủ trực tiếp, nên quá trính triển khai thực hiện trưng cầu dân ý chưa đạt yêu cầu ví thế chất lượng dân chủ bị hạn chế. Mặt khác, một bộ phận nhân dân nói chung và phụ nữ nói riêng thường chỉ quan tâm đến quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, hoặc chưa thực sự mạnh dạn đề xuất nói lên những chình kiến của mính, sợ bị đụng chạm hoặc trù dập nên chưa làm tốt nghĩa vụ của công dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội. 2.2.4. Bảo đảm quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tình của phụ nữ Đảm bảo quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tính của công dân là vấn đề hết sức cần thiết. Người dân nói chung và phụ nữ nói riêng luôn được Đảng, chình quyền Phú Yên quan tâm, tạo điều kiện, đảm bảo thực hiện quyền tự do hội họp, lập hội, biểu tính nhằm phát huy quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc bàn bạc, thảo luận, góp ý kiến vào những vấn đề quan trọng của địa phương, của đất nước, bảo vệ quyền lợi chình đáng của mính, cùng tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội... góp phần xây dựng quê hương, đất nước ngày càng phát triển vững mạnh. 15 Tuy nhiên, để đảm bảo thực hiện quyền này theo quy định của pháp luật, đòi hỏi cần nâng cao năng lực lãnh đạo của các cấp ủy Đảng và sự quản lý của chình quyền tỉnh Phú Yên phải hết sức nghiêm túc, chặt chẽ, tránh để người dân lợi dụng sự dân chủ quá trớn để thực hiện hành vi trục lợi cá nhân, hoặc chống phá cách mạng, làm ảnh hưởng đến an ninh địa phương, đất nước. 2.3. Đánh giá chung về đảm bảo quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị ở tỉnh Phú Yên hiện nay 2.3.1. Thành tựu và nguyên nhân Cùng với phụ nữ cả nước, Phụ nữ tỉnh Phú Yên luôn giữ vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc và và có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của đất nước. Bước vào thời kỳ mới, phụ nữ Phú Yên đã và đang cần cù lao động, vượt khó, vươn lên thoát nghèo. Hiện nay, tham gia trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực chình trị, ví sự tiến bộ của phụ nữ và ví sự nghiệp bính đẳng giới; Phụ nữ được phát huy khả năng của mính trong hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội, các tầng lớp phụ nữ trong tỉnh ngày càng thể hiện vai trò đóng góp vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng đất nước. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Mặc dù pháp luật nước ta có nhiều quy định về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị, thể hiện được quan điểm, chủ trương của Đảng về bính đẳng nam nữ, về quyền chình trị của phụ nữ nhưng trong việc thực hiện các quy định này trên thực tế vẫn còn nhiều điểm hạn chế như: - Công tác triển khai, phổ biến pháp luật nói chung về quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị chưa thực sự đạt hiệu quả, chưa phù hợp với từng đối tượng tham gia, đặc biệt ở cấp cơ sở. - Vẫn còn sự mất cân bằng giới, tỷ lệ nữ tham gia trong các cấp ủy Đảng, Quốc hội, Hội đồng nhân dân còn thấp và có chiều hướng giảm. Rất ìt nữ lãnh đạo chủ chốt, nếu có chỉ liên quan các lĩnh vực xã hội, rất hiếm trong lĩnh vực quản lý kinh tế, nghiên cứu khoa học, nếu có chỉ là cấp phó. - Chưa có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ giữa Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tỉnh và Ban ví sự tiến bộ của phụ nữ với các ban ngành liên quan trong việc thực hiện quyền của phụ nữ nói chung và quyền chình trị của phụ nữ nói riêng. 16 - Trính độ và sự vươn lên của chình bản thân phụ nữ vẫn còn hạn chế. Thực tế cho thấy nhiều chị em có tư tưởng an phận, không muốn học hỏi và có suy nghĩ rằng việc học hành, việc tiến thân là của đàn ông, còn phụ nữ chỉ cần học ìt và dành nhiều thời gian cho chồng con và gia đính. Điều này dẫn đến việc thiếu nguồn lực nữ có trính độ chuyên môn trong quá trính bầu cử và tuyển chọn. Những tồn tại, hạn chế trên nêu trên do nhiều nguyên nhân tác động làm ảnh hưởng đến quyền của phụ nữ trong lĩnh vực chình trị, cụ thể: Thứ nhất, Nhiều cấp uỷ và chình quyền các cấp, các ngành nhận thức chưa đầy đủ quan điểm công tác cán bộ nữ là một bộ phận quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng, là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới. Còn biểu hiện hẹp hòi, thiếu tin tưởng vào khả năng của cán bộ nữ, đánh giá cán bộ nữ thiếu khách quan, chưa công bằng, nhất là cấp cơ sở. Thứ hai, cơ chế, chình sách tạo nguồn, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ chưa có tình chiến lược lâu dài và thiếu tình đột phá. Thứ ba, vẫn còn một số cấp ủy và chình quyền các cấp, các ngành, đơn vị chưa chú trọng đúng mức công tác quy hoạch, đào tạo, bố trì, sử dụng cán bộ nữ; quy hoạch chưa gắn với đào tạo, bố trì và sử dụng cán bộ; tạo nguồn cán bộ nữ còn hẫng hụt thiếu tình bền vững. Thứ tư, chình sách đối với công tác cán bộ chưa kịp thời, nên chưa động viên, khuyến khìch được phụ nữ tham gia các hoạt động chình trị - xã hội và nắm giữ các vị trì cao trong xã hội. Thứ năm, Do sự khác biệt về tuổi nghỉ hưu, dẫn đến sự khác biệt độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm giữa nam giới và phụ nữ, trong khi phụ nữ mất thời gian ìt nhất 5 năm sinh con và nuôi con nhỏ. Từ đó phụ nữ ìt có cơ hội được đề bạt, bổ nhiệm ở những vị trì cao hơn nam giới. Thứ sáu, một bộ phận phụ nữ vẫn còn biểu hiện tự ti, an phận, chưa có ý chì phấn đấu vươn lên. Một bộ phận không nhỏ ìt nhận được sự chia sẻ của nam giới cũng như sự ủng hộ của gia đính, nên nhiều phụ nữ còn an phận, chấp nhận hoàn cảnh và không sẵn sàng nhận vị trì công tác khi được phân công. Thứ bảy, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa Ban ví sự tiến bộ phụ nữ tỉnh và Hội LHPN tỉnh, là các cơ quan tham mưu về công tác 17 cán bộ nữ. Công tác quản lý nhà nước về bính đẳng giới còn hính thức, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách tại cơ sở. Thứ tám, Phú Yên là tỉnh miền núi nghèo, thu nhập bính quân đầu người thấp so với mức bính quân chung cả nước; đời sống của một bộ phận nhân dân ở khu vực nông thôn, miền núi, dân tộc còn nhiều khó khăn... đã ảnh hưởng đến việc thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu về bính đẳng giới và hoạt động ví sự tiến bộ của phụ nữ ở địa phương. Tiểu kết chƣơng 2 Chương 2 luận văn tập trung phân tìch thực trạng quyền chình trị của phụ nữ tham gia đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, cấp ủy Đảng, nhà nước, các tổ chức chình trị – xã hội trên địa bàn tỉnh Phú Yên. Qua đó, cho thấy quyền chình trị của phụ nữ được thể hiện trên nhiều lĩnh vực trong đời sống chình trị - xã hội của tỉnh, vai trò của phụ nữ ngày càng được ghi nhận như nam giới đóng góp ví lợi ìch cộng đồng. Nhờ có chủ trương, chình sách đúng đắn, sự quan tâm của cấp ủy Đảng, chình quyền, sự phối hợp của các tổ chức chình trị xã hội do đó việc triển khai thực hiện quyền chình trị của phụ nữ ngày càng được nâng cao, và ngày càng có nhiều phụ nữ trong tỉnh phát huy được vai trò trong việc tham gia chình trị với nhiều vị trì trong các cơ quan quản lý nhà nước và xã hội. Phụ nữ được đảm bảo quyền bính đẳng trong đời sống chình trị, đảm bảo quyền ứng cử, bầu cử, tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước, tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân. Trong quá trính triển khai, bên cạnh những thuận lợi còn có những khó khăn, hạn chế do điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa tỉnh Phú Yên có những đặc thù ảnh hưởng, tác động đến việc thực hiện quyền chình trị của phụ nữ. Đời sống nhân dân trong đó có phụ nữ ở 3 huyện miền núi, vùng sâu, vùng xa của tỉnh kinh tế còn khó khăn, công tác tuyên truyền về sự bính đẳng của phụ nữ trong đó có quyền tham gia chình trị của phụ nữ chưa sâu rộng, một bộ phận lớn phụ nữ nhất là ở cơ sở do hoàn cảnh khó khăn dẫn đến trính độ học vấn hạn chế. Nhận thức của nam giới và chình trong nữ giới do lịch sử để lại dẫn đến định kiến, hiểu chưa toàn diện về phụ nữ tham gia chình trị dẫn đến công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bầu cử, ứng cử phụ nữ tham gia vào các cơ quan quản lý Nhà nước và xã hội, các tổ chức chình trị 18 xã hội gặp nhiều khó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftom_tat_luan_an_quyen_cua_phu_nu_trong_linh_vuc_chinh_tri_o.pdf
Tài liệu liên quan