Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa)

Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "Hoạt động tư pháp mà trọng

tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao" và đề ra yêu cầu: "Đổi mới việc tổ

chức ra phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và

người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng

tranh tụng tại phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp".

Vì vậy nâng cao chất lượng xét xử của Tòa án nói chung xét xử hình sự nói riêng đang là yêu cầu

cấp thiết hiện nay. Qua nghiên cứu thực tế toàn bộ hoạt động ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh

Hóa trong 05 năm từ 2006 đến năm 2010 thấy rằng hoạt động ADPL hình sự của Tòa án chủ yếu là do

Hội đồng xét xử áp dụng tại phiên tòa, theo thủ tục tố tụng hình sự, kết quả được thể hiện dưới hình

thức là những bản án. Trong những năm qua hầu hết hoạt động ADPL hình sự của Tòa án tỉnh Thanh

Hóa là đúng quy định của pháp luật, góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội, tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho kinh tế - xã hội phát triển. Tuy nhiên bên cạnh những

thành tích đạt được vẫn còn tình trạng án oan, sai, bỏ lọt người phạm tội. Nguyên nhân chủ yếu là do

Hội đồng xét xử sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, xác định đồng phạm, không đánh giá khách quan

toàn diện vụ án hoặc không cập nhật kịp thời các văn bản pháp luật mới, vi phạm nghiêm trọng các thủ

tục tố tụng Mặc dù tỷ lệ án bị hủy, cải sửa lớn chiếm tỷ lệ rất nhỏ (dưới 1,5 % tổng số vụ án đã giải

quyết) nhưng ảnh hưởng lớn đến uy tín của Tòa án, niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

pdf22 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân (qua thực tiễn tỉnh Thanh Hóa), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à bản án hình sự sơ thẩm. 1.2.3.2. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm Xét xử phúc thẩm là việc Tòa cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị. Bản án phúc thẩm có thể y án sơ thẩm hoặc thay đổi một phần hoặc toàn bộ bản án sơ thẩm, có hiệu lực ngay sau khi tuyên án. 1.2.3.3. Áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án trong giai đoạn thi hành bản án hình sự. Theo quy định tại phần thứ năm của BLTTHS năm 2003, Điều 20 Luật Thi hành án hình sự năm 2010 và các văn bản hướng dẫn thì Tòa án còn có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn thi hành án hình sự. 1.2.3.4. Áp dụng pháp luật của Tòa án trong giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án hình sự Giám đốc thẩm đối với các bản án đã có hiệu lực pháp luật là việc phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về xử lý nội dung vụ án hoặc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng cần phải kháng nghị hủy bản án để xét xử lại. ADPL hình sự của Tòa án trong giai đoạn tái thẩm: Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án hoặc quyết định đó. 1.3. Vai trò áp dụng pháp luật hình sự của tòa án nhân dân - Trước hết ADPL hình sự của Tòa án có vai trò bảo vệ các quyền con người, quyền công dân trước nguy cơ xâm hại của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như các chủ thể khác. - Bằng những bản án nghiêm minh, Tòa án đã góp phần vào việc duy trì trật tự xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thực hiện các nhiệm vụ cụ thể tại Điều 1 BLHS 1999. - ADPL hình sự của Tòa án có vai trò to lớn trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật thực định nói chung và pháp luật hình sự nói riêng. - ADPL hình sự của Tòa án có vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp đối với nhân dân - ADPL của TAND có vai trò quan trọng trong việc thực hiện các chính sách của Nhà nước và đường lối của Đảng Cộng Sản Việt Nam. 1.4. Các tiêu chí đánh giá chất lƣợng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân 1.4.1. Xét xử thấu tình đạt lý Xét xử thấu tình đạt lý là mong muốn lớn nhất của xã hội đối với việc xét xử của Tòa án nói chung, đặc biệt là xét xử hình sự. Vì vậy xét xử kịp thời, đúng người đúng tội, đúng pháp luật (cả pháp luật nội dung và tố tụng) là tiêu chí đầu tiên và quan trọng nhất của việc ADPL hình sự của Tòa án. Không chỉ đúng pháp luật mà bản án của Tòa án phải mang tính thuyết phục cao. 1.4.2. Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải thực sự dân chủ, minh bạch, bảo vệ các quyền lợi chính đáng hợp pháp của công dân. Quyền con người luôn luôn được pháp luật hình sự đặc biệt coi trọng trong tất cả các giai đoạn tố tụng. 1.4.3. Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân ADPL hình sự của Tòa án phải góp phần khuyến khích hành vi hướng thiện, hợp pháp, phòng chống tội phạm và các vi phạm pháp luật khác. 1.4.4. Việc áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án phải góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng và nhà nước. Kết luận chƣơng 1 Chương 1 luận văn đã nghiên cứu lý luận chung về ADPL, khái niệm, đặc điểm, các giai đoạn ADPL hình sự của Tòa án. Ngoài đặc điểm chung của ADPL thì ADPL hình sự của Tòa án còn có những đặc trưng riêng. Đó là hoạt động ADPL hình sự của Tòa án được tiến hành chủ yếu tại phiên tòa, do Hội đồng xét xử nhân danh quyền lực nhà nước, trực tiếp tiến hành theo quy định của BLTTHS nhằm xác định tội danh và áp dụng hình phạt đối với bị cáo có tội theo quy định của BLHS. Qua đó làm rõ vai trò và các tiêu chí đánh giá chất lượng ADPL hình sự của Tòa án. Kết quả hoạt động ADPL hình sự của Tòa án chủ yếu là các bản án hình sự. Bản án hình sự của Tòa án phải thấu tình đạt lý, nghĩa là đúng người đúng tội đúng pháp luật và có sức thuyết phục cao. Bảo đảm tính công khai, dân chủ, khách quan, minh bạch của hoạt động xét xử, bảo vệ được các quyền lợi chính đáng hợp pháp của những người tham gia tố tụng, góp phần tích cực vào việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước trong mỗi giai đoạn cách mạng. Chất lượng của bản án hình sự là thước đo chất lượng hoạt động ADPL hình sự của Tòa án, luôn là mối quan tâm lớn của xã hội, đặc biệt là trong giai đoạn thực hiện cải cách tư pháp hiện nay, nhằm thực hiện tốt nhất công cuộc đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nước ta. Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN QUA THỰC TIỄN TỈNH THANH HÓA 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh thanh hóa; cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa - những yếu tố ảnh hƣởng đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của tòa án 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội của tỉnh Thanh Hóa - ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án Thanh Hóa là một tỉnh nằm ở cực Bắc miền Trung, có diện tích: 1.112.033 ha; dân số gần 04 triệu người, với 7 dân tộc anh em sinh sống, được chia thành 27 đơn vị hành chính cấp huyện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, tình trạng thiếu đói giáp hạt vẫn xảy ra ở miền núi. Tình trạng buôn bán, vận chuyển ma túy còn diễn biến phức tạp; số người nghiện hút ma túy có xu hướng tăng. Hoạt động tội phạm sử dụng vũ khí nóng tiếp tục tái diễn; Tai nạn giao thông còn xảy ra nhiều. Công tác cải cách hành chính, phòng chống tham nhũng, lãng phí chưa đáp ứng yêu cầu. Các điều kiện, yếu tố trên ảnh hưởng không nhỏ đến việc ADPL hình sự của ngành Tòa án ở tỉnh Thanh Hóa. 2.1.2. Tình hình tội phạm ở tỉnh Thanh Hóa Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, tình hình tội phạm có chiều hướng gia tăng, hàng năm trên địa bàn tỉnh xảy ra khoảng 1300 vụ án hình sự. 2.1.3. Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa Hệ thống tổ chức của TAND ở Thanh Hóa gồm: TAND tỉnh có 05 chuyên trách, 03 phòng việc và 27 TAND cấp huyện. Đến hết năm 2010, có 353 biên chế, trong đó 287 người có trình độ đại học chiếm 81,3%. 474 Hội thẩm là những người có uy tín trong nhân dân, đại diện cho nhân dân trực tiếp tham gia xét xử. 2.2. Kết quả áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa 2.2.1. Áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự sơ thẩm Từ năm 2006 đến 2010, tỷ lệ giải quyết án hình sự hàng năm đều đạt tỷ lệ từ 92 đến 99 % các vụ án đã thụ lý, là phần việc chính trong hoạt động ADPL hình sự của Tòa án. Chủ yếu thông qua phiên Tòa xét xử hình sự sơ thẩm, Hội đồng xét xử đánh giá chứng cứ, xác định tội danh và áp dụng hình phạt cụ thể đối với mỗi bị cáo. 2.2.2. Áp dụng pháp luật trong xét xử án hình sự phúc thẩm Trong 05 năm từ 2006 đến 2010 TAND tỉnh Thanh Hóa đã giải quyết theo trình tự phúc thẩm đối với 951 vụ án hình sự của tòa án cấp huyện. Trong đó chủ yếu là y án sơ thẩm, chỉ thay đổi hình phạt đối với 33 bị cáo do có tình tiết mới tại cấp phúc thẩm (do bị cáo tích cực khắc phục hậu quả) và hủy án 14 vụ án (chiếm 1,47%). TANDTC xét xử phúc thẩm các bản án do TAND tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị, từ năm 2006 đến năm 2010 là 340 vụ, trong đó giảm hình phạt cho 37 bị cáo, tăng hình phạt đối với 02 bị cáo, hủy án 05 vụ, thay đổi tội danh đối với 02 bị cáo. 2.2.3. Áp dụng pháp luật trong giai đoạn thi hành án hình sự Từ năm 2006 đến năm 2010 TAND tỉnh Thanh Hóa: - Đã ra quyết định thi hành án đối với 1866 người bị kết án, bằng 100% các bản án đã có hiệu lực pháp luật. - Quyết định tạm đình chỉ chấp hành án đối với 819 người bị kết án bị bệnh nặng (chủ yếu bị HIV/AIDS) cần được điều trị. - Quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù cho 25550 người bị kết án đã tích cực lao động cải tạo, đang chấp hành hình phạt tù tại các trại giam đóng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa, đúng theo quy định của pháp luật. 2.2.4. Áp dụng pháp luật trong giám đốc thẩm, tái thẩm Từ 2006 đến 2010 TAND ở tỉnh Thanh Hóa không có vụ án nào bị kháng nghị theo trình tự tái thẩm; quyết định giám đốc thẩm đối với 27 vụ án hình sự của TAND cấp huyện, trong đó 21 vụ đã bị hủy án theo trình tự giám đốc thẩm. Từ năm 2006 đến 2010 TANDTC đã hủy theo trình tự giám đốc của TAND tỉnh Thanh Hóa 03 vụ án hình sự, hủy cả bản án sơ thẩm của Tòa án cấp huyện và án phúc thẩm của TAND tỉnh Thanh Hóa 02 vụ, hủy án sơ thẩm của TAND tỉnh Thanh Hóa và án hình sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm TANDTC 01 vụ. 2.3. Những hạn chế trong áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thanh Hóa 2.3.1. Những hạn chế Qua nghiên cứu toàn bộ hoạt động ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa trong 05 năm từ 2006 đến năm 2010, hầu hết các vụ án xét xử đều đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Bên cạnh những thành tích đáng được nghi nhận thì vẫn còn những vụ án bị hủy, cải sửa lớn do sai lầm trong việc đánh giá chứng cứ, đánh giá vai trò đồng phạm, xác định tội danh, áp dụng hình phạt, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. 2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế Nghiên cứu thực tiễn ADPL hình sự của TAND ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2006 đến năm 2010 (05 năm), 43 vụ án hình sự bị hủy để điều tra hoặc xét xử lại, 02 vụ án bị Tòa án cấp trên thay đổi về tội danh, 02 vụ án xử oan người không có tội, 01 vụ bỏ lọt tội phạm, luận văn rút ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những sai lầm trong việc ADPL hình sự của Tòa án như sau: Thứ nhất: Trình độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực xét xử của một số thẩm phán và hội thẩm nhân dân còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác xét xử. Thứ hai: Cơ quan điều tra điều tra không đầy đủ các tình tiết của vụ án hoặc các cơ quan giám định không giám định chính xác, dẫn đến rất khó khăn cho Hội đồng xét xử trong việc xác định tội danh cũng như các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ của bị cáo, có nhiều tình tiết không thể xác định tại phiên tòa. Thứ ba: Các cơ quan tiến hành tố tụng còn thiếu cương quyết trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, có thể do nể nang, ngại va chạm, bị ảnh hưởng của người có chức vụ, quyền hạn hoặc do tác động tiêu cực nên các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ lọt người phạm tội hoặc bỏ bớt các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự của người phạm tội; áp dụng hình phạt nhẹ không tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, nhất là các vụ án xâm phạm trật tự công cộng, không có bị hại cụ thể. Thứ tư: Chế độ đãi ngộ và tuyển chọn, sử dụng thẩm phán còn nhiều bất cập. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ xét xử còn nhiều thiếu thốn. Thứ năm: Hệ thống pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động ADPL của Tòa án chưa hoàn thiện, là nguyên nhân khách quan hạn chế chất lượng ADPL của Tòa án. Thứ sáu: Công tác giám sát hoạt động xét xử của Tòa án chưa hiệu quả. Kết luận chƣơng 2 Tòa án ở tỉnh Thanh Hóa đã thực hiện nghiêm túc các nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp. Giải quyết tốt các tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội, tích cực đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của công dân, góp phần giữ vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đã đạt được, vẫn còn một số vụ án còn có sai lầm về đánh giá chứng cứ, quyết định tội danh, quyết định hình phạt và áp dụng các thủ tục tố tụng hình sự. Chương 3 QUAN ĐIỂM VÀ CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN VỀ BẢO ĐẢM CHẤT LƢỢNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 3.1. Các quan điểm cơ bản về về nâng cao chất lƣợng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân - Bảo đảm chất lượng hoạt động ADPL hình sự của TAND để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, của dân do dân và vì dân. - Bảo đảm chất lượng hoạt động ADPL hình sự của TAND để đáp ứng yêu cầu xây dựng cải cách tư pháp, bảo vệ các quyền con người, hội nhập quốc tế. - Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, vì sự ổn định và phát triển bền vững của đất nước. 3.2. Các giải pháp bảo đảm chất lƣợng áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân Bảo đảm chất lượng ADPL hình sự của TAND cần phải tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ, các giải pháp này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo thành cơ chế vận hành thúc đẩy hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong hoạt động ADPL hình sự. Các giải pháp bảo đảm chất lượng ADPL hình sự của TAND bao gồm: 3.2.1. Các giải pháp chung - Hoàn thiện pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Đây là giải pháp có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng ADPL được thống nhất và chính xác. Hiện nay BLHS và BLTTHS dù được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhưng một số quy định vẫn còn những bất cập, không phù hợp, gây khó khăn cho các chủ thể ADPL và không đáp ứng được yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ các quyền lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân. + Tranh tụng tại phiên tòa cần phải được đưa lên thành một nguyên tắc trong BLTTHS. + Bảo đảm sự bình đẳng giữa Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa với luật sư bào chữa cho bị cáo, bị cáo. + Quy định cụ thể trách nhiệm chứng minh tội phạm. + Chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát đối với Tòa án cần phải loại bỏ. - Cần sớm thành lập hệ thống cơ quan điều tra độc lập theo nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp. - Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Tòa án 3.2.2. Các giải pháp cụ thể - Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ, nâng cao ý thức chính trị, đạo đức nghề nghiệp, trình độ năng lực chuyên môn của thẩm phán. Để bảo đảm chất lượng của hoạt động ADPL hình sự của Tòa án, việc đổi mới công tác tổ chức cán bộ có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bởi suy cho cùng công tác cán bộ là yếu tố con người - chủ thể trực tiếp ADPL. Chủ thể chủ yếu và trực tiếp ADPL hình sự của TAND là Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử sơ thẩm là 01 thẩm phán và 02 hội thẩm hoặc 02 thẩm phán và 03 hội thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm là 03 thẩm phán. Dù là xử sơ thẩm hay phúc thẩm thì thẩm phán đều là chủ tọa phiên tòa, trực tiếp xét xử và điều hành phiên tòa, có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng ADPL hình sự của Tòa án. + Trình độ năng lực của thẩm phán là yếu tố trực tiếp quyết định đến chất lượng ADPL hình sự của Tòa án. Vì vậy cần phải tập trung xây dựng đội ngũ thẩm phán xét xử án hình sự có chuyên môn hóa cao, là những chuyên gia giỏi cả về lý luận và thực tiễn (có thể chuyên môn hóa theo nhóm tội danh của BLHS). Quá trình tuyển chọn này phải được sàng lọc và chứng minh từ thực tế xét xử, từ chất lượng các bản án hình sự đã xét xử, được sự đánh giá cao của đồng nghiệp, cấp trên và kể cả cơ quan tố tụng khác, luật sư, hội thẩm..., kịp thời phát hiện những công chức, thẩm phán có năng khiếu, năng lực sở trường về xét xử án hình sự để giúp đỡ, bồi dưỡng, đào tạo chuyên sâu họ xét xử án hình sự. Tổ chức phân tích, đánh giá, rút kinh nghiệm kịp thời đối với những vụ án bị hủy, cải sửa lớn do lỗi chủ quan của Hội đồng xét xử. Tìm ra nguyên nhân dẫn đến bị hủy án để không vướng phải những lỗi ấy ở các vụ án tiếp theo. Nâng cao trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, ngoại ngữ, tin học cho đội ngũ thẩm phán. Có chính sách khuyến khích thẩm phán tích cực học tập để nâng cao trình độ của mình, đáp ứng với nhiệm vụ được giao. Kịp thời cập nhật các văn bản pháp luật chuyên ngành, văn bản pháp luật liên quan lên website của ngành để thẩm phán, công chức thuận lợi tra cứu, cập nhật văn bản mới. Thường xuyên tổ chức tập huấn, hội thảo các chuyên đề về luật hình sự, luật tố tụng hình sự, kỹ năng nghiệp vụ xét xử án hình sự. Tổ chức các phiên tòa mẫu, yêu cầu các thẩm phán khác dự và đóng góp ý kiến. Sớm hoàn thiện các quy định về tuyển chọn, bổ nhiệm thẩm phán phán. Ngoài tiêu chuẩn theo quy định hiện hành cần phải kết hợp với đánh giá hiệu quả công tác, năng lực thực tiễn. Trước khi bổ nhiệm hoặc tái nhiệm cần tổ chức thi tuyển nghiệp vụ xét xử hoặc 05 năm 01 lần tổ chức thi sát hạch với toàn thể đội ngũ thẩm phán để sàng lọc những thẩm phán trình độ chuyên môn nghiệp vụ kém. Việc thi tuyển hoặc thi sát hạch phải hết sức khách quan, công bằng, thông qua việc xử lý các tình huống cụ thể mà quá trình xét xử đòi hỏi người thẩm phán phải giải quyết. Việc tạo nguồn thẩm phán nên nghiên cứu theo hướng mở, không chỉ là thư ký, công chức Tòa án. TANDTC nên tổ chức thi tuyển đào tạo chức danh thẩm phán đối với những người có bằng tốt nghiệp Đại học luật trở lên, có nguyện vọng làm thẩm phán. Sau thời gian đào tạo xét xử chuyên sâu một lĩnh vực, sát hạch nghiêm túc, khách quan, công bằng (công khai các bài thi của người trúng tuyển lên mạng internet để nhiều chủ thể có thể giám sát). Nếu họ vượt qua được thì tuyển dụng họ vào làm thư ký Tòa án các cấp và là nguồn bổ nhiệm thẩm phán. Điều này sẽ nâng cao chất lượng nguồn bổ nhiệm thẩm phán, tạo điều kiện cho những người có năng lực và tâm huyết với nghề thẩm phán có cơ hội được làm thẩm phán, mặt khác giảm được gánh nặng ngân sách của nhà nước cho việc đào tạo nghiệp vụ xét xử cũng như những tiêu cực trong việc xét duyệt cử đi học lớp nghiệp vụ xét xử. + Đãi ngộ thỏa đáng và sử dụng hợp lý đội ngũ thẩm phán. Lao động của thẩm phán là lao động đặc thù, chịu nhiều áp lực, đòi hỏi phải có trí tuệ, bản lĩnh, chuyên môn nghiệp vụ cao. Cần phải có mức lương tương xứng với lao động đặc thù của thẩm phán. Chỉ khi mức lương của thẩm phán đáp ứng được nhu cầu cuộc sống của bản thân và gia đình thì họ mới yên tâm công tác, đầu tư thời gian nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu hồ sơ vụ án, hạn chế bị ảnh hưởng bởi các yếu tố tiêu cực, vô tư, khách quan trong việc ADPL. Thực hiện chế độ khen thưởng bằng vật chất tương xứng với hiệu quả công tác, chất lượng, số lượng các vụ án đã xét xử hàng năm. Xây dựng các danh hiệu, như thẩm phán nhân dân, thẩm phán ưu túđể xã hội tôn vinh những thẩm phán mẫu mực. Phân công nhiệm vụ phù hợp với trình độ và năng lực thực tế của từng thẩm phán. Việc sắp xếp, bố trí, phân công nhiệm vụ đối với thẩm phán phải căn cứ vào trình độ chuyên môn, kinh nghiệm xét xử, sở trường công tác của mỗi thẩm phán. Đồng thời có cơ chế tạo áp lực để thẩm phán phải luôn cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, thay thế những thẩm phán không đáp ứng được yêu cầu như: Xử oan người vô tội, xử sai tội danh, bỏ lọt tội phạmKỷ luật nghiêm những thẩm phán thiếu tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân, dọa nạt, vòi vĩnh, đòi hối lộ Việc luân chuyển thẩm phán chỉ nên đặt ra đối với thẩm phán là nguồn bổ nhiệm chánh án Tòa án, vì chánh án là người lãnh đạo cơ quan Tòa án, chịu trách nhiệm phân công tổ chức hoạt động xét xử của Tòa án, đòi hỏi phải có năng lực chuyên môn vượt trội, toàn diện và kinh nghiệm quản lý, điều hành hoạt động xét xử các loại án thuộc thẩm quyền của Tòa án, như: Hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. + Đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức đối với thẩm phán và công chức Tòa án. Phát động toàn thể thẩm phán, công chức Tòa án tích cực học tập tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, thực hiện tốt lời Bác Hồ dạy: "Phụng công thủ pháp, chí công vô tư". Không chỉ có đủ năng lực trình độ mà mỗi Thẩm phán cần phải tự ý thức được rằng: Quyền lực Nhà nước là của nhân dân, nhân dân trao cho mình là để phụng sự tổ quốc, phục vụ nhân dân. Không được sử dụng tùy tiện quyền lực ấy hoặc để tư lợi cho mình. Người Thẩm phán phải biết vượt qua các cám dỗ, để tận tụy phục vụ nhân dân, trung thành với Tổ quốc, với chế độ, dũng cảm bảo vệ công lý, công bằng xã hội, quyền và lợi ích chính đáng hợp pháp của công dân. - Nâng cao chất lượng hoạt động, chế độ đãi ngộ, trách nhiệm và đảm bảo sự độc lập của Hội thẩm nhân dân. Hội thẩm nhân dân là những thành viên của hội đồng xét xử, là những người có uy tín trong nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra để thay mặt nhân dân trực tiếp tham gia xét xử các vụ án, là chủ thể quan trọng trong việc ADPL hình sự tại Tòa án, đặc biệt là xét xử sơ thẩm án hình sự thì quyết định của bản án chính là quyết định của các hội thẩm vì số Hội thẩm tham gia Hội đồng xét xử đông hơn thẩm phán mà lại biểu quyết theo đa số, thẩm phán ngang quyền với Hội thẩm. Các phán quyết sơ thẩm này không bao giờ có hiệu lực pháp luật ngay mà phải sau một thời gian nhất định, các chủ thể bị ADPL cảm thấy quyết định là phù hợp và Viện kiểm sát thấy phán quyết đã đúng pháp luật, họ không có kháng cáo, kháng nghị thì phán quyết này mới có hiệu lực pháp luật. Sau khi được bầu làm hội thẩm thì Tòa án cần tổ chức tập huấn nghiệp vụ xét xử, bồi dưỡng kiến thức pháp lý cho các hội thẩm nhân dân. Vì là đại diện cho nhân dân không chỉ căn cứ vào pháp luật mà còn căn cứ vào lẽ công bằng, lẽ phải ở đời, dưới góc nhìn của những người dân để phán quyết đối với bị cáo có tội hay không có tội, tội danh gì và mức hình phạt tương xứng. Vì vậy không thể yêu cầu Hội thẩm phải có trình độ chuyên môn cao, chuyên nghiệp như thẩm phán. Không chỉ Việt Nam mà hầu hết các nước trên thế giới, thành viên bồi thẩm đoàn đều là những công dân có uy tín đại diện cho các bộ phận dân cư trực tiếp tham gia xét xử, không yêu cầu cao về tiêu chuẩn trình độ pháp lý. Tuy nhiên các Hội thẩm nhân dân cần chủ động tìm hiểu pháp luật, nâng cao trách nhiệm của mình đối với công tác xét xử, để có đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ Hội thẩm của mình. Đoàn Hội thẩm nhân dân cần độc lập về tài chính và việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa. Để khuyến khích Hội thẩm nhân dân nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích cực nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử có hiệu quả cần có chế độ đãi ngộ tương xứng. Kinh phí hoạt động của Đoàn Hội thẩm nhân dân cần phải độc lập không phụ thuộc vào Tòa án như hiện nay, để đoàn hội thẩm chủ động chi trực tiếp cho các hội thẩm tham gia nghiên cứu hồ sơ và xét xử. Mặt khác cũng là để tạo điều kiện cho Hội thẩm nhân dân độc lập khi xét xử, giao việc bố trí Hội thẩm tham gia phiên tòa cho Đoàn Hội thẩm. Đoàn Hội thẩm cần có quy chế bố trí Hội thẩm lần lượt tham gia phiên tòa, nếu vì lý do không tham gia xét xử được khi đến lượt phải có văn bản báo cáo và được bố trí tham gia vào lần tiếp theo. Tránh tình trạng Hội thẩm không theo định hướng của thẩm phán khi nghị án thì ít được mời tham gia xét xử hoặc để tiết kiệm kinh phí, thời gian Tòa án bố trí cho Hội thẩm nghiên cứu hồ sơ quá ít so với yêu cầu. - Bảo đảm nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Nguyên tắc này được đảm bảo dưới các khía cạnh sau: Thứ nhất: Độc lập với những yếu tố khách quan tác động từ bên ngoài Tòa án. Thứ hai: Độc lập từ các yếu tố khách quan tác động từ bên trong các mối quan hệ nội bộ của Tòa án. Độc lập giữa Tòa án cấp dưới với Tòa án cấp trên, độc lập trong nội bộ một Tòa án, giữa thẩm phán chủ tọa với chánh án, chánh tòa. Cần phải tách bạch giữa quan hệ hành chính với quan hệ tố tụng. Đề cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử đối với phán quyết của mình. Thứ ba: Độc lập giữa các thành viên trong Hội đồng xét xử, mỗi thành viên độc lập và ngang quyền với nhau trong việc đánh giá chứng cứ và đưa ra kết luận. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là hai nội dung có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Chỉ khi nào bảo đảm cho Thẩm phán và Hội thẩm độc lập, thì họ mới chỉ tuân theo pháp luật và ngược lại. Thẩm phán và Hội thẩm độc lập mới nâng cao được chất lượng xét xử, nâng cao trách nhiệm cá nhân của các thành viên Hội đồng xét xử, đúng với tính chất của hoạt động xét xử, bảo đảm khách quan đúng với diễn biến phiên tòa. - Nâng cao chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra và công tố cũng như các cơ quan bổ trợ tư pháp khác. Trong chiến lược cải cách tư pháp, Tòa án được xác định là trung tâm, xét xử là trọng tâm. Xét xử là một giai đoạn tố tụng độc lập, nhưng chất lượng xét xử phụ thuộc rất lớn vào chất lượng hoạt động của cơ quan điều tra, cơ quan công tố và chất lượng hoạt động của các cơ quan bổ trợ tư pháp. - Tăng cường và đổi mới công tác giám sát hoạt động ADPL hình sự của Tòa án. Kịp thời đưa bản án hình sự lên mạng internet tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể giám sát hoạt động ADPL của Tòa án. Tăng cường công tác giám sát của cơ quan đại diện, các thành viên trong hệ thống chính trị cũng như mọi công dân đối với công tác xét xử của Tòa án. Chú trọng công tác tự kiểm tra của ngành thông qua công tác giám đốc án, kịp thời phát hiện và khắc phục sai sót của Tòa án cấp dưới. Kết luận chƣơng 3 Để bảo đảm chất lượng ADPL hình sự cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. Đó là giải pháp chung như hoàn thiện pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án. Các giải pháp cụ thể, như Bảo đảm sự độc lập của Thẩm phán và Hội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050001286_888_2009394.pdf
Tài liệu liên quan