MỞ ĐẦU .6
CHƯƠNG 1: BÁO CHÍ VÀ VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ TRONG THÔNG
TIN THỜI LUẬN VỀ KỲ HỌP QUỐC HỘI.15
1.1 Một số khái niệm cơ bản. 15
1.1.1 Kỳ họp Quốc hội.15
1.1.2 Khái niệm thông tin và thông tin trong báo chí .16
1.1.3 Thông tin thời luận.20
1.1.4 Các văn bản quy định về việc thông tin của báo chí đối với Quốc hội22
1.2 Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin thời luận về kỳ họp Quốc hội
.
CHƯƠNG 2. THÔNG TIN THỜI LUẬN VỀ KỲ HỌP THỨ 8 QUỐC
HỘI KHÓA XIII TRÊN CÁC BÁO NHÂN DÂN ĐIỆN TỬ,
VNEXPRESS VÀ TUỔI TRẺ ONLINE.
2.1 Vài nét về các báo Nhân Dân điện tử, VnExpress và Tuổi trẻ online
2.2. Thời gian, tần suất tin, bài phản ánh về Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa
XIII .
2.3 Nội dung thông tin thời luận Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII
2.3.1 Chủ đề về Kinh tế - Xã hội .
2.3.2 Chủ đề Lập pháp.
2.3.3 Chủ đề về Nâng cao chất lƯợng hoạt động Quốc hộiot defined
2.3.4 Chủ đề tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũngot defin
2.4 Hình thức thể hiện của thông tin thời luận Kỳ họp thứ 8 Quốc hội
khóa XIII.
2.4.1 Các thể loại.
2.4.2 Cách đặt tít, sapo.
2.4.3 Các yếu tố phi văn tự .
2.5 Phản hồi của độc giả về thông tin thời luận Kỳ họp thứ 8 Quốc hội
Khóa XIII.
28 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 598 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Báo chí học - Thông tin thời luận về kỳ họp thứ 8 quốc hội khóa XIII trên báo điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ược sửa đổi (Hiến pháp 2013), kỳ họp cuối năm mà Thủ tướng trực
tiếp báo cáo về tình hình KT-XH. Kỳ họp này diễn ra từ ngày 20/10/2014 đến ngày
28/11/2014 là kỳ họp thông qua 18 bộ luật, 11 nghị quyết, cho ý kiến về 12 dự luật,
có số lượng luật được thảo luận và thông qua lớn nhất từ trước tới nay. Kỳ họp
diễn ra trong bối cảnh đất nước có nhiều điểm nóng, buộc QH phải bày tỏ chính
kiến, đó là chủ quyền Biển Đông, vấn đề nợ xấu, nợ công tăng cao, tình trạng thất
nghiệp trầm trọng, cải cách giáo dục, cải tiến sách giáo khoa; chất lượng và hiệu
quả của các công trình trọng điểm; những yếu kém trong tái cơ cấu nền kinh tế
được bộc lộ sâu sắc; tham nhũng chưa được đẩy lùi; mất công bằng xã hội trở nên
nghiêm trọng; tệ nạn xã hội vẫn giữ chiều hướng gia tăng
Với tất cả những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Thông tin thời luận
về Kỳ họp thứ 8 Quốc hội Khóa XIII trên báo điện tử”(Khảo sát trên báo Nhân
Dân điện tử, Tuổi trẻ Online và VnExpress từ tháng 10/2014 – 12/2014) làm đề tài
luận văn thạc sĩ chuyên ngành báo chí học. Luận văn sẽ tiến hành khảo sát, đánh
8
giá thực trạng, chỉ ra những ưu điểm và hạn chế trong công tác tuyên truyền, thông
tin. Đồng thời, phân tích về các ý kiến, bình luận, phản hồi của công chúng đối với
các vấn đề được thông tin tại Kỳ họp thứ 8, QH Khóa XIII. Từ đó, tác giả đề xuất
và kiến nghị các giải pháp hiệu nhằm nâng cao hiệu quả thông tin, tuyên truyền tại
các kỳ họp QH. Đồng thời, gián tiếp góp phần xây dựng đội ngũ nhà báo chính
luận.
Khoảng thời gian tác giả tiến hành khảo sát từ tháng 10/2014 – 12/2014. Kỳ
họp thứ 8 QH khóa XIII chính thức khai mạc ngày 20/10/2014 và bế mạc ngày
28/11/2014. Trước và sau khi diễn ra kỳ họp, báo chí vẫn đưa tin về sự kiện này
nên khoảng thời gian khảo sát suốt 2 tháng sẽ đưa ra được các đánh giá mang tính
tổng quát cho đề tài.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, vấn đề tuyên truyền chính sách của Đảng, Nhà nước;
vai trò của báo chí trong công tác xây dựng Đảng, tác động của báo chí đến công
chúng, vai trò của báo chí đến định hướng dư luận xã hội đã có nhiều công trình
khoa học có giá trị, ít nhiều có liên quan đến đề tài. Tuy nhiên, có rất ít công trình
nghiên cứu tiệm cận với vấn đề liên quan đến tính thời luận, cũng chưa có công
trình nào lấy một kỳ họp cụ thể để nghiên cứu.
Đầu tiên, phải nói đến một số hội thảo do Văn phòng Quốc hội tổ chức như:
“Kinh nghiệm và phương thức hiệu quả của báo chí trong việc đưa tin về Quốc
hội”, “Đại biểu Quốc hội với thông tin công chúng và quan hệ với báo chí”,
“Thông tin công chúng phục vụ các hoạt động của Quốc hội: Kinh nghiệm và kỹ
năng”
Nhiều cuốn sách, tư liệu viết về lý luận báo chí và truyền thông xuất bản ở
trong và ngoài nước ít nhiều cũng đề cập đến vai trò, tác động của báo chí đối với
công tác thông tin, tuyên truyền như: “Cơ sở lý luận báo chí truyền thông” do tác
giả Tạ Ngọc Tấn chủ biên; “Cơ sở lý luận báo chí và truyền thông” do nhóm tác giả
9
Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang chủ biên; “Báo chí và dư luận xã
hội” của Tác giả Nguyễn Văn Dững; “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền
thông hiện đại” của tác giả Nguyễn Thành Lợi; “Quản lý nhà nước và pháp luật về
báo chí” của tác giả Lê Thanh Bình và Phí Thanh Tâm; “Ngoại giao văn hóa - cơ sở
lý luận, kinh nghiệm quốc tế và ứng dụng” của tác giả Phạm Thái Việt và Lý Thị Hải
Yến; “Báo chí thế giới và xu hướng phát triển” của tác giả Đinh Thị Thúy Hằng;
“Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn” gồm 8 tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội;
Dương Văn Thắng, 2011
Một số các bài viết được đăng tải trên các tạp chí Người làm báo, Xã hội
học có liên quan đến tác động của báo chí đối với công chúng nói chung như là:
“Nghiên cứu dư luận xã hội về hoạt động Quốc hội” của tác giả Mai Quỳnh Nam
đăng tải trên Tạp chí Xã hội học, số 3, năm 2005, trang 16. Các bài viết của tác giả
Nguyễn Văn Dững như “Đối tượng tác động của báo chí và ý nghĩa của nó đối với
hoạt động của nhà báo” đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 4, 2002 hay “Báo chí và
dư luận xã hội: Một số hình thức của mối quan hệ tác động” gồm 4 kỳ đăng trên
Tạp chí Người làm báo, Số 53, 54, 55, 56, năm 2012. Một số suy nghĩ về tính
chuyên nghiệp của báo chí hiện đại, vấn đề đặt ra và giải pháp, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Quốc gia “Tính chuyên nghiệp của báo chí hiện đại – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn”, Hội Nhà báo Việt Nam, Học viện Báo chí và Tuyên truyền. Bài
viết của tác giả Văn Tiến đăng tải trên Vietbao.vn ngày 14/2/2004, “Báo chí là cầu
nối giữa Quốc hội với nhân dân cả nước”; “Mong đợi của báo chí với Quốc hội và
Đại biểu Quốc hội” của tác giả Tô Nam đăng trên website của trung tâm bồi dưỡng
đại biểu dân cử 22/9/2008; “Cởi mở với báo chí, Quốc hội đã đến gần dân hơn”
của tác giả Hồng Loan đăng trên báo Đại biểu Nhân Dân online 21/6/2008 .
Bên cạnh đó, một số luận văn, luận án, khóa luận đã từng công bố cũng có
phần liên quan đến đề tài như: Luận văn “Thông tin hai chiều giữa Quốc hội với cử tri
trên báo Đại biểu Nhân Dân” của tác giả Đặng Thị Mai, 2013, Học viện Báo chí và
10
Tuyên Truyền; công trình luận văn của thạc sĩ Lê Thị Thanh Loan “Tuyên truyền các
hoạt động của Quốc hội trên báo in hiện nay”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
“Báo chí với vấn đề cải cách thể chế hành chính nhà nước Việt Nam hiện nay (Khảo
sát Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Quản lý nhà nước, Tạp chí Tổ chức nhà nước từ tháng
1/2006 đến tháng 1/2010”, của tác giả Nguyễn Thùy Vân Anh, Học viện Báo chí
Tuyên truyền; “Chương trình Việt Nam Online với công tác thông tin tuyên truyền về
hoạt động của Chính phủ (Khảo sát chương trình Việt Nam Online từ tháng 5/2008
đến tháng 5/2010” của tác giả Nguyễn Hồng Sơn, tại Khoa Báo chí và Truyền thông,
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội; “Nâng cao hiệu quả hoạt động giám
sát tối cao của Quốc hội, hiệu quả hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc
hội”, của tác giả Nguyễn Hữu Lộc, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Luận án
“Vai trò của Báo chí trong định hướng dư luận xã hội” của tác giả Đỗ Chí Nghĩ,
2010, Học viện Báo chí và Tuyên truyền; luận văn “Phản biện xã hội của báo
mạng điện tử Việt Nam hiện nay (khảo sát các sự kiện tiêu biểu của báo
VietnamNet, Dân Trí, Tuổi Trẻ Online)” của Trần Quý Thuân, 2014, Học viện Báo
chí và Tuyên truyền.
Các công trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu tập trung vào đối tượng công
chúng và các hoạt động của công chúng với báo điện tử ở phạm trù rộng; tác động,
khả năng định hướng dư luận của báo chí; công tác xử lý thông tin tại tòa soạn.
Trong khi đó, luận văn của tác giả đi sâu tập trung vào một sự kiện lớn, quan trọng
của đất nước, được đông đảo người dân cả nước quan tâm theo dõi.
Thông tin thời luận về hoạt động của QH tại Kỳ họp thứ 8, QH Khóa XIII là
một đề tài mới, do đó chắc chắn tác giả không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Thành tựu nếu có được, cũng chỉ có được ở mức mở đường.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu của luận văn là tìm hiểu về thông tin thời luận
của Kỳ họp thứ 8, QH khóa XIII. Đó chính là nghiên cứu nội dung và hình thức
11
thông tin thời luận trên 3 tờ báo Nhân Dân điện tử, Tuổi trẻ online và Vnexpress để
từ đó rút ra kinh nghiệm về vấn đề này.
Cao hơn nữa, luận văn cố gắng đưa ra những khuyến nghị và giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nội dung và đổi mới phương thức truyền tải thông tin về kỳ
họp QH, mà ở đây cụ thể là trên báo điện tử.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, tác giả luận văn xác định các nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Thống kê, nghiên cứu tài liệu nhằm hệ thống hóa các lý thuyết liên quan.
- Phân tích nội dung và hình thức trên 3 tờ báo được lựa chọn khảo sát ở
trên.
- Đánh giá ưu điểm và hạn chế về việc thông tin tại kỳ họp.
- Khảo sát, đánh giá phản hồi của độc giả với các tin bài, tính tương tác giữa
tòa soạn báo điện tử và độc giả.
- Đề xuất những giải pháp và khuyến nghị phù hợp, có tính khả thi để nâng
cao chất lượng của các tin, bài về tuyên truyền kỳ họp QH.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nội dung và hình thức của các tin, bài
được đăng tải về Kỳ họp thứ 8, QH Khóa XIII trên 3 tờ báo điện tử được lựa chọn,
trong khoảng thời gian từ tháng 10/2014 – 12/2014.
Tác giả lựa chọn 3 tờ báo để khảo sát vì các lý do sau đây. Báo Nhân Dân điện
tử là cơ quan ngôn luận chính thức của Đảng và Nhà nước. VnExpress là tờ báo điện
tử có số lượng người đọc nhiều nhất, tính tương tác của người dùng đối với tờ báo này
rất cao. Báo Tuổi trẻ Online tờ báo có uy tín ở phía nam và trong cả nước, cũng là một
trong những tờ báo có lượng công chúng đông đảo, nội dung các bài viết rất phong
12
phú, thông tin đa chiều, mang nhiều tinh thần đổi mới, thể hiện rõ nét tiếng nói của
các tầng lớp nhân dân.
Nghiên cứu thông tin trên ba tờ báo này sẽ đem đến nhiều góc độ khác nhau
và hợp lại, có tính đại diện cho các báo điện tử nói riêng, báo chí nói chung trong
việc thông tin về kỳ họp của QH cũng như báo chí với các vấn đề chính trị.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ nghiên cứu của đề tài này, luận văn sẽ khảo sát các tin, bài,
ảnh, đồ họa, clip và các hình thức thông tin khác được đăng tải trên 3 tờ báo điện
tử Nhân Dân điện tử, Tuổi trẻ Online và VnExpress trong khoảng thời gian từ
tháng 10/2014 – 12/2014 viết về Kỳ họp thứ 8, QH Khóa XIII.
Với thời gian khảo sát trên, bằng những tài liệu tin, bài thu thập được liên
quan đến vấn đề, nghiên cứu sẽ là cơ sở nhận xét đánh giá khách quan cho đề tài
nghiên cứu.
Trong quá trình khảo sát, nghiên cứu, tác giả cũng tham khảo thêm những tài
liệu có liên quan đến luận văn trên một số, sách, báo, các hội thảo khoa học để có
những ví dụ trích dẫn phù hợp với nội dung nghiên cứu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống lý luận và quan điểm nền
tảng của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước, về báo chí
và những phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể nhằm giải quyết các nhiệm vụ
để từ đó, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể, đưa ra những đánh giá
khách quan nhất thực trạng thông tin báo chí về Kỳ họp thứ 8, QH khóa XIII, cũng
như giải pháp để nâng cao hơn nữa công tác thông tin tại các kỳ họp tiếp sau.
Phƣơng pháp luận: Phương pháp nghiên cứu của luận văn dựa trên nền
tảng khoa học lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chính Minh, các
quan điểm đường lối chính sách của Đảng về báo chí và công tác tư tưởng. Đề tài
thực hiện trên các nguyên lý, phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
13
đồng thời tuân thủ các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét, đánh
giá vấn đề.
Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể: Tác giả sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu:
- Phương pháp thống kê phân loại: Các tin, bài phản ánh và bình luận về
hoạt động của QH và số lượng các ý kiến bình luận của độc giả.
- Phương pháp phân tích nội dung: Dùng để khảo sát thực trạng thông tin về
Kỳ họp thứ 8, QH Khóa XIII trên 3 tờ báo điện tử Nhân Dân điện tử, Tuổi trẻ
Online và VnExpress để đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ ưu khuyết điểm và
nguyên nhân.
Phỏng vấn sâu các nhà quản lý và chuyên gia: Từ đó, làm tăng dữ liệu, tăng
sự xác tín của những kết luận khoa học; mở rộng các khả năng tìm tòi giải pháp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về vấn đề thông tin thời luận tại một
kỳ họp QH, cụ thể là Kỳ họp thứ 8, QH Khóa XIII, cho nên có ý nghĩa cả lý luận
lẫn thực tiễn về một vấn đề khá chuyên biệt.
Về nhận thức và lý luận, luận văn làm sáng tỏ hơn vai trò của báo chí trong
tuyên truyền chính trị qua một sự kiện cụ thể, diễn ra dài ngày (đây là kỳ họp QH);
làm sáng tỏ hơn sức mạnh, tính ưu việt của báo điện tử. Đồng thời, nâng cao hiểu
biết của nhà báo và bạn đọc nói chung về Nhà nước, QH và hệ thống chính trị ở
nước ta.
Về thực tiễn, luận văn giúp cho các nhà báo, tòa soạn báo nhìn lại và đánh
giá đúng hiệu quả tuyên truyền về kỳ họp QH của mình để rút ra những bài học bổ
ích. Đồng thời, giúp cho Văn phòng Quốc hội phối hợp tốt hơn nữa với các tòa
soạn để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các phóng viên nghị trường, cộng tác chặt
chẽ hơn trong việc cung cấp, điều chỉnh thông tin nhằm ngày càng nâng cao chất
14
lượng, hiệu quả của thông tin báo chí về hoạt động của QH nói chung, kỳ họp QH
nói riêng.
Với những ý nghĩa đó, hy vọng luận văn sẽ góp thêm tài liệu tham khảo
phục vụ cho sinh viên báo chí, những người đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí,
cho Văn phòng QH và các nhà quản lý.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương.
Chương 1: Báo chí và vai trò của báo chí trong thông tin thời luận về kỳ họp
của Quốc hội.
Chương 2: Thông tin thời luận về Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII trên các
báo Nhân Dân điện tử, Vnexpress và Tuổi trẻ online.
Chương 3: Một số khuyến nghị khoa học nhằm nâng cao chất lượng thông
tin thời luận trên báo điện tử về các kỳ họp Quốc hội.
15
CHƢƠNG 1: BÁO CHÍ VÀ VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ TRONG THÔNG TIN
THỜI LUẬN VỀ KỲ HỌP QUỐC HỘI
Một số khái niệm cơ bản
Kỳ họp Quốc hội
Kỳ họp QH là hình thức hoạt động chủ yếu quan trọng nhất của QH. Tại kỳ
họp, QH thảo luận và quyết định các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn theo quy
định của pháp luật.
Ðiều 4 Luật Tổ chức Quốc hội quy định:
"Quốc hội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ; làm việc
theo chế độ hội nghị và quyết định theo đa số.
Hiệu quả hoạt động của Quốc hội được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ
họp của Quốc hội, hoạt động của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và các đại biểu Quốc hội."
Theo Nghị quyết số 102/2015/QH13 – Nghị quyết ban hành Nội quy Kỳ họp
Quốc hội: QH họp thường lệ mỗi năm hai kỳ. Kỳ họp giữa năm khai mạc vào ngày
20/5; kỳ họp cuối năm khai mạc vào ngày 20/10. Trường hợp ngày 20/5 và ngày
20/10 trùng vào ngày thứ sáu của tuần hoặc ngày nghỉ theo quy định của pháp luật
thì ngày khai mạc kỳ họp là ngày làm việc kế tiếp. Trường hợp bất khả kháng
không thể tổ chức kỳ họp vào các thời điểm trên do Ủy ban Thường vụ Quốc hội
quyết định.
Các kỳ họp của QH do Uỷ ban Thường vụ QH triệu tập. Kỳ họp thứ nhất
của mỗi khoá QH do Uỷ ban Thường vụ QH khoá trước triệu tập, chậm nhất là hai
tháng sau khi tuyển cử.
Nhiệm kỳ mỗi khóa QH là 5 năm. Nhiệm kỳ được tính từ kỳ họp thứ nhất
QH khóa đó đến kỳ họp thứ nhất của QH khóa sau.
16
Kỳ họp QH là hoạt động quan trọng nhất của QH bởi vì nội dung lập pháp
và các vấn đề trọng đại của đất nước đều được quyết định ở đây. Đây cũng là nơi
thử thách tài năng, bản lĩnh, sự trung thành, trung thực của các đại biểu nhân dân;
của các chính khách. Đặc biệt, các phiên chất vấn tại kỳ họp QH luôn nhận được
sự quan tâm và theo dõi của đông đảo cử tri cả nước và quốc tế.
Khái niệm thông tin và thông tin trong báo chí
1.1.2.1 Khái niệm thông tin
Có rất nhiều cách hiểu về thông tin. Thậm chí, ngay các từ điển cũng không
thể có một định nghĩ thống nhất. Ví dụ từ điển Oxford English Dictionary thì cho
rằng thông tin là điều mà người ta đánh giá hoặc nói đến; là tri thức, tin tức. Một số
từ điểm thì đơn giản đồng nhất thông tin với kiến thức – Thông tin là điều mà
người ta biết, hoặc thông tin là sự chuyển giao tri thức làm tăng thêm sự hiểu biết
của con người,
Trong cuốn sách “Bùng nổ truyền thông” (NXB Văn hóa – Thông tin, H,
1996), hai tác giả Philippe Breton và Serge Proulx giải thích từ thông tin
(infomation) có nguồn gốc từ tiếng Latinh “informetio”. Đây là một từ ghép có hai
hướng định nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để tạo ra một hình
dạng (forme), thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tưởng, một khái niệm hay biểu
tượng (metio).
“Thông tin” theo nghĩa gốc từ Hán Việt vừa là động từ, vừa là danh từ.
Động từ là truyền đạt tin tức thông suốt đến mọi người. Danh từ được hiểu là bản
thân nội dung, hình thức – tức là xét về mặt hàm lượng, chất lượng, hình thức của
tin tức, của thông báo. Từ điển Tiếng Việt (sdd) cũng định nghĩa thông tin trên hai
phương diện, là động từ “truyền tin cho nhau để biết”; là danh từ “điều được truyền
đi cho biết, tin truyền đi”.
Theo nghĩa thông thường, thông tin là tất cả các sự kiện, sự việc, ý tưởng, phán
đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người. Thông tin hình thành trong quá trình
17
giao tiếp: một người có thể nhận thông tin trực tiếp từ người khác thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng, từ các ngân hàng dữ liệu hoặc từ tất cả các hiện tượng
quan sát được trong môi trường xung quanh.
Theo quan điểm triết học, thông tin là sự phản ánh của tự nhiên và xã hội
(thế giới vật chất) bằng ngôn từ, ký hiệu, hình ảnhhay nói rộng hơn bằng tất cả
các phương tiện tác động lên giác quan của con người.
Khi khoa học công nghệ phát triển đến trình độ cao, trong các lĩnh vực khoa
học khác nhau, thuật ngữ thông tin cũng có những cách hiểu khác nhau khi sử dụng
đến nó:
“Trong lĩnh vực viễn thông, thông tin là toàn bộ hoạt động nhằm mục đích
vận chuyển, đảm bảo tính chính xác của các thông điệp.
Trong lĩnh vực truyền thông đại chúng, thông tin hoạt động chủ yếu dựa trên
nội dung của các thông điệp, nhất là khi tiếp xúc với công chúng.
Trong lĩnh vực báo chí, thông tin được dùng để nói đến chất liệu ngôn ngữ
sống, sự miêu tả câu chuyện, bằng chúng, chỉ cần nó thể hiện một nhân tố của thực
tại. Ví dụ khi ta sử dụng thông tin để nói về câu chuyện do nhà báo kể lại bao gồm
một hoặc một số sự kiện liên kết thành.
Những người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông đại chúng như: phóng
viên, biên tập viên, nhà báolà những người được đào tạo chủ yếu về lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn. Những vấn đề liên quan đến con người luôn là nguồn
cảm hứng chính trong các hoạt động thông tin của họ. Với họ, thông tin là mục tiêu
để họ sáng tạo không ngừng”. (E.P. Prôkhôrốp, “Cơ sở lý luận báo chí”, Nxb
Thông tấn, 2004).
Như vậy, cùng sử dụng thuật ngữ thông tin, nhưng khái niệm thông tin mà
các nhà báo sử dụng hoàn toàn khác với những khái niệm thông tin mà các nhà kỹ
thuật viễn thông xử lý hoặc thông tin mà các nhà tin học chế tạo. Để có cái nhìn
18
phù hợp với định hướng, trong nghiên cứu này, chúng ta đi sâu vào phân tích thuật
ngữ thông tin trong báo chí.
1.1.2.2 Thông tin báo chí
Báo chí là một hiện tượng lịch sử, một hoạt động xã hội có chủ đích. Thông
tin báo chí do đó là loại thông tin mang tính xã hội và có định hướng. Thông tin
báo chí là thông tin từ các tác phẩm báo chí do nhà báo sáng tạo ra bắt nguồn từ
hiện thực đời sống, mang tính xác thực cao; truyền đạt tới công chúng, nhằm mục
đích cải biến xã hội theo hướng tích cực.
Trong cuốn Nhà báo hiện đại (NXB Trẻ, 2017), các giáo sư báo chí của ĐH
Missouri (Hoa Kỳ) cho rằng, tin, thông tin báo chí có ba phẩm chất, hay ba tiêu chí
cơ bản, đó là có liên quan, hữu ích, gây được sự quan tâm.
Vì luận văn không nghiên cứu thông tin báo chí nói chung, mà nghiên cứu
thông tin chí ở Việt Nam, nên chúng tôi bám vào các khái niệm được Nhà nước
Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định.
Luật Báo chí hiện hành quy định về mục đích, tính chất thông tin báo chí
như sau:
a) Thông tin trung thực về tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích
của đất nước và của nhân dân;
b) Tuyên truyền, phổ biến, góp phần xây dựng, thực hiện và bảo vệ đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thành tựu của đất
nước và thế giới theo tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí; góp phần ổn định
chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu văn hoá
lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây
dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân
tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
c) Phản ánh và hướng dẫn dư luận xã hội; làm diễn đàn thực hiện quyền tự
do ngôn luận của nhân dân;
19
d) Phát hiện, nêu gương người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến;
đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực
trong xã hội;
đ) Góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, tiếng các dân tộc thiểu số
Việt Nam;
e) Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia
vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
“Chiến lược phát triển thông tin đến năm 2010” ban hành kèm theo Quyết
định số 219/2005/QĐ-TTg ngày 9/9/2005 của Thủ tướng Chính phủ khẳng định:
“Thông tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã hội, là công cụ để
điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện hữu hiệu để mở rộng
giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn cung cấp tri thức mọi mặt
cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội”.
Trong thực tiễn báo chí và đời sống, thuật ngữ “thông tin” “thông tin báo
chí” có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Có trường hợp để biểu thị một
sự kiện, một hiện tượng mới hoặc cũ nhưng mới phát hiện trong một tin, một tác
phẩm báo chí cụ thể trên một tờ báo cụ thể. Có trường hợp để chỉ chung toàn bộ
thông tin và ảnh hưởng của cả một nền báo chí. Có trường hợp được dùng trong
thời điểm nhất định, có trường hợp được dùng cho cả một giai đoạn dài Có
trường hợp có tác phẩm báo chí nhưng lại được coi là không có thông tin. Trên báo
chí, có thông tin sự kiện, có thông tin tuyên truyền, giải thích, lại có cả thông tin
nghệ thuật
Ở dạng hoàn chỉnh, khái niệm thông tin chứa đựng nội dung phong phú, nó
có quan hệ trực tiếp đến chức năng và hiệu quả của công tác báo chí, đến “nguyên
tắc” cung cấp thông tin, đến những yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc
20
tác động lẫn nhau của các mặt nói trên. “Thông tin” là nền tảng, có thể nói là tất cả
của báo chí.
Trên cơ sở của Luật Báo chí, của lý thuyết về báo chí và thông tin; tác giả
đưa ra khái niệm “Thông tin báo chí” (ở Việt Nam) với trường nghĩa như sau:
Thông tin báo chí là thông tin do nhà báo sáng tạo nên trong việc phản ánh kịp
thời, chính xác, trung thực và sáng tạo những gì đã, đang và sẽ diễn ra trong tự
nhiên và đặc biệt là trong xã hội, nhằm đem đến những hiểu biết thiết thân cho
đời sống con người, tạo ra dư luận xã hội, phong trào xã hội nhằm thúc đẩy sự
tiến bộ xã hội; đặc biệt để bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích của đa số.
Báo chí và Thông tin báo chí ở Việt Nam còn đảm nhận công tác tư tưởng, đóng
vai trò là cầu nối của các tổ chức của Đảng, cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội
với nhân dân; phụng sự sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của ĐCS Việt Nam. Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các
nước và các dân tộc, tham gia vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Thông tin thời luận
Thời luận đồng nghĩa với thời đàm. Thời luận là từ gốc Hán, nghĩa đen có
thể hiểu là “bàn bạc, tranh luận, bày tỏ ý kiến về những vấn đề thời sự, thời thế”.
“Luận”, theo nhà báo Hoàng Tùng là “hướng dẫn tư tưởng, hướng dẫn suy nghĩ,
phân tích tình hình, sự kiện trên một dòng biến đổi, phát triển không ngừng” ( Hà
Minh Đức, Thời gian và nhân chứng, NXB Chính trị quốc gia, 1997, tr. 453).
Trong kiến văn của mình, chúng tôi chưa thấy có một định nghĩa nào về
“thông tin thời luận”. Song cụm từ này vẫn được dùng trong thực tế. “Thông tin
thời luận” là một bộ phận của thông tin báo chí, trong đó, cùng với tin được đưa,
có thêm phân tích, bình luận của nhà báo; thể hiện rõ quan điểm của tờ báo về một
vấn đề thời sự được đông đảo bạn đọc quan tâm.
21
Thể loại chủ yếu của Thông tin thời luận là chính luận. Về “Chính luận”,
PGS.TS Dương Xuân Sơn xác định: “Các thể loại báo chí chính luận (nghị luận)
gồm xã luận, bình luận, chuyên luận, bài phê bình. Đặc điểm của nhóm chính luận
là trên cơ sở các tư liệu, sự kiện, hiện tượng, quá trình có hệ thống để phân tích,
đánh giá, bình luận một vấn đề nào đó theo ý đồ và mục đích nhất định” (Các thể
loại báo chí chính luận, nghệ thuật – NXB ĐHQG Hà Nội, 2004; tr.19). Còn trong
cuốn “Tác phẩm chính luận báo chí”, PGS.TS Trần Thế Phiệt chia ra bốn thể loại
báo chí là Thông tấn báo chí, Chính luận báo chí, Thông tấn nghệ thuật (ký báo
chí) và Văn nghệ trên báo.
Về các tác phẩm báo chí chính luận, PGS.TS Trần Thế Phiệt viết:
“Đối tượng phản ánh là các sự kiện, hiện tượng, vấn đề mà xã hội quan
tâmmuốn nhận thức về mối quan hệ phức tạp, tính chất, quy luật, nguyên nhân
cũng như xu hướng vận động của chúng. Chất lượng thông tin ở loại thể này chủ
yếu là những phán
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004392_1206_2006708.pdf