Luận văn Các tội phạm về tham nhũng theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định)

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

MỞ ĐẦ U . 1

Chương 1: MỘT SỐ VẦN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM THAM

NHŨNG TRONG LUÂṬ HÌNH SƢ̣ VIÊṬ NAM. 6

1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội phạm tham nhũng.6

1.1.1. Khái niệm các tội phạm tham nhũng . 6

1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của các tội phạm tham nhũng. 9

1.2. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội phạm tham nhũng .12

1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tá m năm 1945 . 13

1.2.2. Giai đoạn từ sau Cá ch maṇ g Thá ng Tá m năm 1945 đến trước khi ban

hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985. 17

1.2.3. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 đến

trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999. 20

Chƣơng 2: CÁC QUY ĐỊNH VỀ TỘI PHẠM THAM NHŨNG TRONG

BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 1999 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG. 24

2.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tham nhũng và hình phạt

áp dụng.24

2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội phạm tham nhũng. 24

2.1.2. Hình phạt áp dụng đối với các tội phạm tham nhũng . 35

2.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về các tội

phạm tham nhũng của các Tòa án nhân dân trên địa bàn tỉnh Nam Định.37

2.2.1. Khái quát tình hình xét xử các tội phạm tham nhũng trên cả nước. 37

2.2.2. Thực tiễn xét xử các tội phạm tham nhũng trên địa bàn tỉnh Nam Điṇ h

. 39

2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, thiếu sót trong áp dụng các quy định về

các tội phạm tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999 . 47

pdf35 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 642 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các tội phạm về tham nhũng theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn tỉnh Nam Định), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
như sau: “Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ”. Theo khái niệm này, có rất nhiều căn cứ khác nhau để xác định một người có chức vụ như do được bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khácHình thức khác ở đây có thể hiểu là bất cứ hình thức 8 nào mà gắn những quyền năng nhất định của chủ thể với chức vụ mà họ có. Như vậy, trong khái niệm này theo chúng tôi người có chức vụ có thể được hiểu một cách ngắn gọn là “người được giao thực hiện công vụ (mang tính chất hợp pháp) và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ đó”. Chẳng hạn: Bác sĩ được giao nhiệm vụ khám sức khoẻ để tuyển dụng cán bộ, viên chức; thủ kho được giao nhiệm vụ quản lý kho hàng của công ty, dân phòng đang đuổi bắt tội phạm Tất cả những người này đều được coi là người có chức vụbởi vì họ được giao thực hiện công vụ vì lợi ích chung của toàn xã hội và có những quyền năng nhất định trong khi thi hành công vụ. Trong Bô ̣luâṭ hình sư ̣ năm 2015 cũng đưa ra khái niệm người có chức vụ như sau: Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ, nhiệm vụ [45, tr 03]. Theo quy điṇh của Điều 352 BLHS năm 2015 các tội phạm tham nhũng trong pháp luật hình sự là những hành vi xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ (là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác có hưởng lương hoặc không hưởng lương được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ) thực hiện trong khi thi hành công vụ, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức. Các tội phạm tham nhũng trực tiếp xâm hại sự hoạt động đúng đắn của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội. Xâm hại đến quan hệ sở hữu Nhà nước và xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp cơ bản của công dân. Trong đó, hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy định, những hoạt động này nhằm thực hiện chức năng và mục đích đã đề ra. Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì cán bộ, công chức phải chí công, vô tư, không được lợi dụng chức vụ để trục lợi, nhưng trong cơ quan, tổ chức nào đó có cán bộ đã tham ô, nhận hối lộ, hoặc lấy tiền của cơ quan, tổ chức 9 mà mình là thành viên để đưa hối lộ... là đã xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức đó. Có thể nói, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm do các tội phạm về tham nhũng gây ra, chính là những quy định của pháp luật hoặc của điều lệ buộc phải làm mà không làm, cấm không được làm thì lại làm. Những quy định cụ thể này được thể hiện trong từng hành vi phạm tội cụ thể trong từng tội phạm về tham nhũng trong chương này. Hành vi khách quan của các tội phạm tham nhũng là đa số các tội phạm về tham nhũng được thể hiện bằng hành động. Đa số các tội phạm tham nhũng có cấu thành tội phạm (CTTP) hình thức - tức là trong mặt khách quan chỉ có dấu hiệu hành vi khách quan mà không có dấu hiệu hậu quả [7,tr 14]. Từ những phâ n tích trên có thể rút ra khái niệm các tội phạm tham nhũng như sau: Tội phạm tham nhũng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong luật hình sự do người có chức vụ thực hiện trong khi thực hiện công vụ bằng lôĩ cố ý trực tiếp xâm phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức. 1.1.2. Các đặc điểm cơ bản của các tội phạm tham nhũng Thứ nhất, các tội phạm tham nhũng xâm phạm trực tiếp đến hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân: Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để thực hiện hành vi trái với công vụ được giao nhằm mục đích vụ lợi nhưng không xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, thì không được coi là tội phạm về tham nhũng mà chỉ là những vi phạm pháp luật khác của người có chức vụ, quyền hạn. Thông thường, một người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện hành vi trái với công vụ được giao, thì sẽ xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích của hà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là 10 những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Hay nói cách khác, sự xâm hại đến các quan hệ xã hội nói trên là hậu quả tất yếu của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái với công vụ của người có chức vụ, quyền hạn. Trên thực tế, người có chức vụ, quyền hạn mặc dù đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình thực hiện hành vi trái với công vụ được giao nhằm mục đích vụ lợi nhưng không xâm phạm đến những quan hệ xã hội nói trên hoặc mức độ xâm hại đến những quan hệ xã hội đó chưa đến mức độ nguy hiểm cho xã hội, thì hành vi đó không được coi là phạm tội tham nhũng [9, tr 22]. Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, ở mỗi giai đoạn khác nhau, PLHS quy định mức độ xâm hại đến các quan hệ xã hội của hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn cũng khác nhau. Tuy nhiên, cần khẳng định rằng, không thể quy kết bất kỳ một hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ của người có chức vụ, quyền hạn là phạm tội tham nhũng khi hành vi đó không xâm hại đến uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Thứ hai, trong các tội phạm tham nhũng, người có chức vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi trái với công vu.̣ Trên cơ sở quyền hạn được giao, trong khi thi hành công vụ, người có chức vụ, quyền hạn đã thực hiện hành vi (hành động hoặc không hành động) trái với công vụ được giao, trái với các quy định của pháp luật. Tội phạm về tham nhũng bao giờ cũng được thực hiện trong mối liên hệ chặt chẽ với chức năng, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn. Hay nói một cách cụ thể hơn, trong tất cả các tội phạm về tham nhũng nhất thiết phải có dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn của người có chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái công vụ được giao. Trường hợp không chứng minh được dấu hiệu lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái công vụ được giao, thì không thể coi bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào của người có chức vụ, quyền hạn là tội phạm về tham nhũng. Đối với các tội phạm khác, dấu hiệu lợi 11 dụng chức vụ, quyền hạn chỉ là tình tiết tăng nặng định khung trong BLHS. Thứ ba, chủ thể của các tội phạm tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn. Chức vụ và quyền hạn là hai dấu hiệu quan hệ chặt chẽ với nhau nhưng không đồng nhất. Một người có chức vụ thì đương nhiên người đó có một số quyền hạn nhất định. Tuy nhiên, một người có quyền hạn thì không nhất thiết người đó phải là người có chức vụ. Tùy theo từng cách tiếp cận, có nhiều quan điểm về các dấu hiệu, điều kiện của người có chức vụ, theo các phạm vi rộng, hẹp khác nhau. Tuy nhiên, phần lớn các quan điểm đều thống nhất rằng, người có chức vụ phải là người thỏa mãn các điều kiện sau: - Do bổ nhiệm, do dân cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác; - Đang làm việc trong một cơ quan hoặc tổ chức; - Có hưởng lương hoặc không hưởng lương; - Được cơ quan, tổ chức, giao cho thưc̣ hiêṇ môṭ công vu ̣nhất điṇh; - Theo nhiêṃ vu ̣đươc̣ giao , khi thưc̣ hiêṇ công vu ̣ , người đó có quyền hạn nhất định [9, tr 35]. Thứ tư, các tội phạm tham nhũng được thực hiện bằng lỗi cố ý trực tiếp và mục đích vụ lợi. Tội phạm về tham nhũng là các hành vi cố ý trực tiếp, có mục đích. Mục đích của các tội phạm về tham nhũng phải là mục đích vụ lợi. Trường hợp một người có chức vụ, quyền hạn thực hiện hành vi không cố ý hoặc không có mục đích vụ lợi thì hành vi đó không được coi là hành vi lơị dụng chức vụ quyền hạn. Việc chứng minh dấu hiệu mục đích vụ lợi để từ đó truy cứu trách nhiệm của người phạm tội luôn là vấn đề khó khăn, phức tạp nhất trong các vụ việc có dấu hiệu tham nhũng. Trước khi Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành, trong các văn bản pháp luật về phòng, chống tham nhũng của Việt Nam quy định về dấu hiệu vụ lợi chỉ dừng lại ở các lợi ích vật chất có thể định lượng được một cách cụ thể. Điều này đã làm hạn chế không nhỏ đến hiệu quả của công tác phòng, chống tham nhũng nói chung và tội phạm về tham nhũng nói riêng. Để thống nhất về mặt nhận thức 12 và tạo cơ sở cho việc áp dụng pháp luật, tại khoản 5, Điều 2 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2005 quy định: “Vụ lợi là lợi ích vật chất, tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng” [42, tr 11]. Như vậy, dấu hiệu vụ lợi đối với các hành vi tham nhũng được xác định, không chỉ riêng trường hợp người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được lợi ích mà còn bao gồm cả trường hợp người đó sẽ đạt được lợi ích trong tương lai. Đồng thời, lợi ích bao gồm cả lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần . Theo quy điṇh của BLHS năm 2015 thì ngoài các lợi ích vật chất thì các lợi ích phi vật chất. 1.2. Khái quát lịch sử Luật hình sự Việt Nam quy định về các tội phạm tham nhũng Các tội phạm về tham nhũng là một hiện tượng mang tính lịch sử xã hội, nó ra đời, tồn tại gắn với sự tồn tại của Nhà nước. Đó không chỉ là sự băng hoại đạo đức, bất công xã hội mà còn có thể làm suy vong những quốc gia hùng mạnh nhất, sụp đổ cả thể chế chính trị. Đặc biệt, các tội về tham nhũng chức vụ làm xói mòn nền pháp quyền và gây tổn hại đến uy tín của Nhà nước, cũng như làm giảm niềm tin của người dân vào hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan Nhà nước. Lịch sử loài ngừời đã chứng minh rằng tham nhũng là mặt trái của quyền lực nhưng song hành với quyền lực. Xã hội nguyên thủy không có tư hữu, của cải dùng chung hoặc chia đều; không có giai cấp với đặc quyền, đặc lợi, không áp bức, bóc lột nên không có các tội về tham nhũng, tham nhũng. Chế độ tư hữu, giai cấp và Nhà nước đã tạo ra quyền lực với các loại chức tước, đẳng cấp, đặc quyền, đặc lợi... Quyền lực đó không được giám sát chặt chẽ sẽ xảy ra hiện tượng độc quyền, cửa quyền, lạm quyềnlà nguồn gốc của tham nhũng và các tội phạm tham nhũng. Tham nhũng là một căn bệnh của Nhà nước. Do đó, nghiên cứu tham nhũng, phòng, chống tham nhũng chủ yếu là nghiên cứu Nhà nước, phương thức tổ chức và thực thi quyền lực Nhà nước. Vậy nên việc kiểm soát và tiêu trừ các tội phạm 13 liên quan đến tham nhũng là mục tiêu của hầu hết các chính quyền, nhà nước. Nhưng đến nay, có thể khẳng định chưa có Nhà nước nào trên thế giới dám tuyên bố đã có thể kiểm soát và tiêu trừ được hoàn toàn các tội phạm tham nhũng [19, tr21]. Do đó, đối mặt và tuyên chiến với các tội phạm tham nhũng, tham nhũng là vấn đề của mọi quốc gia, dân tộc. Bởi lẽ tham nhũng luôn gắn liền với quyền lực, gắn liền với Nhà nước nên khi còn quyền lực, còn Nhà nước thì còn tham nhũng, còn tội phạm về tham nhũng. Ngay cả những quốc gia tiên tiến nhất thế giới cũng cần thường xuyên phòng, chống tham nhũng. Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật đó và đã có một lịch sử lập pháp lâu dài ghi dấu những nỗ lực đấu tranh chống tham nhũng và các tội phạm về tham nhũng khác như được ghi nhận dưới đây. 1.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 Ở nước ta, ngay từ trong xã hội phong kiến, việc đấu tranh phòng, chống các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội đã được đặt ra như một yêu cầu tất yếu để bảo vệ chế độ và bộ máy nhà nước phong kiến đương thời. Các đạo luật quan trọng trong lịch sử như: Bộ luật Hình thư (Nhà Lý), Bộ Quốc triều Thông lễ (Nhà Trần), Bộ Quốc triều Hình luật (Nhà Lê), Bộ luật Gia Long (Nhà Nguyễn) đều có ghi nhận và trừng trị những hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội của những người có chức vụ, quyền hạn trong xã hội thời bấy giờ. Nổi bật trong đó là Bộ Quốc triều Hình luật đã đặt ra các quy định trừng trị nhiều hành vi phạm tội tham nhũng, tội phạm liên quan đến tham nhũng như: nhận hối lộ, đưa hối lộ, làm trung gian hối lộ, lợi dụng chức vụ để chiếm đoạt tài sản; v.v... Hành vi nhận hối lộ được Quốc triều Hình luật quy định chung tại Điều 138 - quan lại ăn hối lộ với khung hình phạt nghiêm khắc: “Quan ty làm trái pháp luật mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì xử tội biếm hay bãi chức; từ 10 đến 19 quan thì xử tội đồ hay lưu, từ 20 quan trở lên thì xử tội chém. Những bậc công thần, quý thần cùng những người có tài dự vào hạng bát nghị mà ăn hối lộ từ 1 quan đến 9 quan thì phạt tiền 50 quan; từ 10 đến 19 quan thì phạt tiền 60 quan đến 100 quan, 14 từ 20 quan trở lên thì xử tội đồ, những tiền ăn hối lộ xử phạt gấp đôi nộp vào kho” [11, tr 12]. Bên cạnh quy định chung này, Bộ luật còn có quy định về các hành vi nhận hối lộ trong lĩnh vực cụ thể như: Điều 170 về nhận hối lộ trong việc tuyển đinh, tráng vào quân đội; Điều 197 về nhận hối lộ trong khi mật tra của quan Liêm phóng; Điều 229 về nhận hối lộ để không tâu với quan trên về hành vi khinh nhờn; .... Như vậy, có thể khẳng định rằng, những quy định này khá chặt chẽ về kỹ thuật lập pháp, xác định ra các mức khung hình phạt rạch ròi, từ thấp đến cao, tương ứng với mức độ nghiêm trọng của hành vi nhận hối lộ. Tuy nhiên, đằng sau đó vẫn ẩn chứa tính bất bình đẳng khi ít nhiều nương nhẹ cho tầng lớp quý tộc, hoàng thân, quốc thích phạm tội bằng việc đặc cách cho áp dụng hình phạt tiền hoặc hình phạt nhẹ hơn quy định. Đồng thời với trừng phạt hành vi nhận hối lộ, Quốc triều Hình luật cũng có những quy định tiến bộ về xử lý cả hành vi đưa hối lộ, trung gian, môi giới hối lộ. Điều 137 quy định: “Những kẻ đến cầu cạnh với quan chủ ty việc trái pháp luật và kẻ vì người khác mà đến cầu cạnh thay, đều xử tội biếm hay phạt; quan chủ ty nghe theo thì phải ghép vào tội làm trái pháp luật, việc chưa thi hành thì xử tội biếm hay phạt. Việc làm trái pháp luật ấy thuộc về tội nặng thì quan chủ ty phải ghép tội ăn tiền mà xóa tội hay gán tội cho người ta trái sự thực; kẻ vì người mà đến cầu cạnh thì xử tội nhẹ hơn quan chủ ty ba bậc; tự mình có tội mà đến cầu cạnh thì xử tội nhẹ hơn quan chủ ty hai bậc”. Ngoài ra, Điều 140 quy định: “Những người đưa hối lộ mà xét ra việc của họ có trái lẽ thì theo việc của họ mà định tội. Còn người nào thật oan khổ, vì muốn cho khỏi tội mà hối lộ thì được giảm tội. Người nào không phải việc mình mà đi hối lộ thay người khác thì xử tội nhẹ hơn người ăn hối lộ hai bậc. Những người thuộc hạ mà xúc xiểm quan trên thì cũng xử tội như thế. Của hối lộ phải nộp vào kho” [22, tr 32]... Những quy định này đã đặt ra những giả định rất cụ thể, sát với tình huống trong đời sống thực tế (hối lộ, giúp hối lộ, nhận hối lộ, đưa hối lộ vì muốn giải oan, nhận hối lộ nhưng chưa thực hiện việc được yêu cầu); cũng như phân hóa trách nhiệm hình sự sâu 15 sắc tương ứng với từng loại chủ thể và tính chất của hành vi (người đưa hối lộ, người trung gian, người nhận hối lộ); thể hiện tinh thần nhân đạo với những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự hợp lý, hợp tình. Ngoài hành vi nhận, đưa, trung gian đưa hối lộ, Quốc triều Hình luật còn quy định một số hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn khác để trục lợi như: quan giám quản tự tiện dùng dân đinh làm việc riêng cho mình (Điều 166); quan thu thuế giấu bớt thuế đã thu hoặc thu thêm thuế để làm của riêng (Điều 206); ... Như vậy, có thể nói rằng những quy định của Quốc triều Hình luật về các tội phạm về tham nhũng, tham nhũng là một điểm sáng trong lịch sử lập pháp Việt Nam. Sau đó, Hoàng Việt luật lệ của triều Nguyễn mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc từ pháp luật phong kiến Trung Hoa nhưng cũng vẫn tiếp thu được một phần những tiến bộ đó trong quy định các tội phạm về tham nhũng, tham nhũng. Luật này quy định về các hành vi nhận hối lộ hoặc lợi dụng chức vụ nhũng nhiễu nhân dân và đều bị xử lý nghiêm khắc. Chẳng hạn, Chương IX - Nhận hối lộ, Quyển XVII quy định chín điều luật để xử lý như: Điều 1 - Quan lại nhận tiền của; Điều 2 - Tọa tang chí tội; Điều 3 - Sau công việc mới nhận tiền; Điều 4 - Quan lại hứa nhận tiền của; Điều 5 - Có công việc dùng tiền của cầu cạnh; Điều 6 - Làm quan lại sách nhiễu vay mượn tiền của của dân; Điều 7 - Cho người nhà sách nhiễu tiền của; Điều 8 - Nhận việc công bắt dân đóng góp và Điều 9 - Lưu giữ tang vật ăn trộm. Điều 1 quy định quan lại nhận tiền của nêu rõ: “Phàm quan lại mà nhận của thì tính hết tang vật mà định tội. Quan thì bị truy thu bằng sắc và bị cấm không được dùng các danh hiệu quan chức hoặc phẩm hàm, lại thì bị bãi chức dịch, đều không được tiếp tục sử dụng... Theo lệ thì các quan viên phạm tội từ phạt 100 trượng đều bị bãi chức, không được tiếp tục sử dụng, riêng phạm tội nhận hối lội chỉ từ 1 lạng trở xuống, nếu uổng pháp phạt 70 trượng, nếu bất uổng pháp phạt 60 trượng, đều bị bãi chức” [22, tr 23]; Điều 4 quy định về quan lại hứa nhận tiền của nêu: “Phàm quan lại đồng ý cho đem tiền của tới, tuy chưa tiếp nhận, nhưng nếu là trường hợp việc bị xử sai, chuẩn theo điều uổng pháp mà luận tội”; 16 Điều 6 quy định về làm quan lại sách nhiễu, vay mượn tiền của dân nghiêm trị “phạm quan lại cấu kết với đồng bọn cường hào sách nhiễu, vay mượn tiền của của dân sở tại thuộc mình cai quản, thì tính toàn bộ tang, chuẩn theo điều bất uổng pháp mà luận tội. Nếu là cưỡng mức thì chuẩn theo điều uổng pháp mà luận tội, tiền của trả lại cho chủ”; Điều 9 quy định trường hợp “phàm quan tuần bố đã bắt được bọn trộm cướp kèm theo tang vật mà lưu giữ tang vật không đưa lên quan thì phạt 40 roi. Nếu bỏ túi tính tang thì lấy bất uổng pháp luận tội...”. Thậm chí, ngay cả các quan lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng dân đinh, phu thợ làm việc riêng cũng bị xử lý. Điều 9 (Chương I - Hộ dịch, Quyển VI) quy định: “Phàm các quan ty sai khiến dân sở tại làm việc riêng cho mình và quan giám công sai dân thợ làm việc riêng cho mình ở nơi xa ngoài 100 dặm hoặc sai khiến lâu ngày ở nhà mình, thì đối với quan ti cứ sai khiến 1 tên dân là bị xử đánh 40 roi, cứ 5 tên lại tăng thêm một mức, tội nặng nhất cũng chỉ đánh 80 trượng”. Tiếp đến, cả việc gây khó dễ ở cửa quan, bến đò cũng bị xử lý nghiêm khắc. Điều 3 (Chương III - Quan ải, Quyển XI) quy định: “Người và thuyền bè qua lại nơi cửa quan, bến đò mà thủ bá không lập tức xét hỏi, kiểm tra rồi quan đi qua mà vô cớ gây cản trở, thì cứ chậm một ngày bị xử phạt 20 roi, thêm một ngày thì xử tăng một mức, tội chỉ tới mức 50 roi. Nếu nhận hối lộ thì chiếu theo lệ quan lại làm việc nhận hối lộ thì người hữu sự, luận tội uổngpháp, tính theo số tang vật mà xử tội...”. Đặc biệt, để phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, tham ô, Bộ luật còn quy định tại Ðiều 5 - Tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản (Chương II - Ruộng đất, Quyển VI) nêu rõ: “Phàm quan lại đương chức không được mua tậu ruộng đất, nhà cửa ở khu vực mình cai quản. Nếu vi phạm, xử phạt 50 roi, bãi nhiệm, ruộng đất nhà cửa đem sung công”; Điều 7 - Vay mượn riêng tiền lương của công (Chương IV - Kho tàng, Quyển VIII) quy định: “Phàm giám thủ, chủ thủ đem các loại tiền lương của Nhà nước mượn riêng hoặc chuyển cho người khác vay mượn, tuy có văn tự, đều bị tính theo tang vật mà xử vào tội giám thủ tự lấy trộm... Nếu đem đồ vật của mình 17 thay thế đổi lấy đồ vật của Nhà nước thì cũng xử tội như thế. Đồ vật của riêng đó đem sung công...” [22, tr41]... Tóm lại, trong xã hội phong kiến Việt Nam, việc đấu tranh phòng, chống tội phạm chức vụ và các tội phạm về tham nhũng đã được các triều đình quan tâm sâu sắc. Mặc dù pháp luật phong kiến quy định về các tội phạm mà đối tượng là quan lại hoặc những người có chức sắc nhất định có thể còn chứa đựng sự bất công, phân biệt đẳng cấp (về sau đặc biệt là trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược) hoặc chịu ảnh hưởng chi phối của pháp luật Trung Hoa nhưng cơ bản đã đạt được các thành tựu nhất định trong đấu tranh phòng , chống tham nhũng , lãng phí , tiêu cực mà những điểm tiến bộ của chúng có thể kế thừa để hoàn thiện pháp luật (hình sự) Việt Nam hiện đại. 1.2.2. Giai đoạn từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Nhận thức rõ muốn xây dựng được chính quyền trong sạch, vững mạnh và củng cố nền độc lập vừa giành được thì phải chú trọng việc ngăn chặn tệ nạn tham nhũng và các tội phạm về tham nhũng, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã sớm ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định và trừng phạt các hành vi tham nhũng. Trước khi có một Bộ luật hình sự năm 1985, phải kể đến một số các văn bản tiêu biểu có quy định trực tiếp hoặc gián tiếp các tội phạm về tham nhũng như: Sắc lệnh 267/SL ngày 15/6/1946 quy định trừng trị những âm mưu và hoạt động phá hoại tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước; Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ; Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội phạm xâm phạm tài sản riêng của công dân được ban hành ngày 21/10/1970; Sắc luật 267/SL ngày 15/5/1956 về tội 18 cố ý làm trái công tác phụ trách gây hậu quả nghiêm trọng; Sắc luật số 001/SL ngày 19/4/1957 về cấm mọi hành vi đầu cơ kinh tế; Quyết định số 550/QĐ-TTg ngày 16/02/1971 của Thủ tướng Chính phủ về việc nghiêm cấm lập quỹ trái phép trong các xí nghiệp và các cơ quan Nhà nước; Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ được ban hành ngày 20/5/1981...Trong đó, Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946 về trừng trị các tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ là văn bản pháp luật đầu tiên tập trung quy định riêng về tội phạm tham nhũng của Nhà nước ta. Mặc dù được ban hành khi Nhà nước non trẻ mới ra đời một năm nhưng Sắc lệnh này đã có nhiều điểm tiến bộ đáng ghi nhận như: Một là, Sắc lệnh quy định và trừng phạt hai dạng hành vi cơ bản liên quan đến tham nhũng: hối lộ (đưa, nhận hối lộ) và tham ô (phù lạm, biển thủ). Điều 1 Sắc lệnh quy định: “Tội đưa hối lộ cho công chức, tội công chức nhận hối lộ hoặc phù lạm, biển thủ công quỹ hay của công dân đều bị phạt khổ sai từ năm đến hai mươi năm và phạt bạc gấp đôi tang vật hối lộ, phù lạm hay biển thủ; tang vật hối lộ bị tịch thu sung công; người phạm tội có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản; các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên” [24, tr 45]. Hai là, Sắc lệnh đã xác định một cách rõ ràng về chủ thể của các tội phạm về tham nhũng. Điều 3 Sắc lệnh này quy định: “Đối với tội trên, công chức còn gồm nhân viên Chính phủ, trong Ủy ban hành chính các cấp, các cơ quan do nhân dân bầu lên, trong bộ đội và tất cả những người phụ trách một công vụ”. Như vậy, chủ thể của tội phạm về tham nhũng khá rộng, là cán bộ, công chức và có thể là bất kỳ ai có chức vụ, quyền hạn. Ba là, các hình phạt được quy định hợp lý và hiệu quả. Hình phạt ở đây vừa thể hiện tính nghiêm khắc vừa có tinh thần nhân đạo, lại phù hợp với đặc thù của tội phạm về tham nhũng. Hình phạt cao nhất đối với các tội phạm này có thể lên đến 20 năm tù khổ sai, thể hiện thái độ đấu tranh kiên quyết và không khoan nhượng của Nhà nước. Các hình phạt mang nặng tính kinh tế rất phù hợp để thu hồi tài sản thất thoát do tham nhũng. Tuy nhiên, quy định “tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản” của người 19 phạm tội lại thể hiện tính nhân văn sâu sắc của chế độ dân chủ mới (để lại một phần tư gia sản có thể bảo đảm cuộc sống cho những người phụ thuộc). Bốn là, Sắc lệnh đã thể hiện sự phân hóa trách nhiệm hình sự sâu sắc trong đường lối xử lý - phân biệt người đưa hối lộ chủ động hay bị bắt ép; khoan hồng đối với những người tự thú, tố giác đồng bọn. Theo đó, Điều 2 Sắc lệnh này quy định: “Người phạm tội đưa hối lộ cho một công chức mà tự ý cáo giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh rằng đưa hối lộ là vì bị công chức cưỡng bách ước hứa hay là dùng cách trá ngụy thì người ấy được miễn hết các tội. Trong trường hợp này, tang vật hối lộ được hoàn lại”. Do đó, với những ưu điểm đã nêu, có thể khẳng định “đạo luật” đầu tiên về các tội tham nhũng với vẻn vẹn 300 từ của Nhà nước ta cho đến nay vẫn còn nguyên những giá trị xứng đáng để kế thừa 24 [48]. Sau Sắc lệnh số 223/SL ngày 27/11/1946, các văn bản pháp luật khác cũng tiếp tục đề cập đến một số hành vi phạm tội liên quan đến chức vụ. Tuy nhiên, chỉ đến Pháp lệnh trừng trị các tội hối lộ ngày 20/5/1981 thì các tội phạm về tham

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008265_1166_2002956.pdf
Tài liệu liên quan