MỤC LỤC 
Trang 
MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài . 1 
2.Lịch sử vấn đềnghiêncứu . 2 
3.Mục đích nghiên cứu . 4 
4. Phạm vi nghiên cứu . 5 
5. Phương pháp nghiên cứu . 5
NỘI DUNG. 6 
Chương 1: Những vấn đề chungvề ngườilính trong thơ ca Việt Nam. 6
1.1.Kháiniệm về người lính . 6 
1.2.Người lính –ngu ồn cảmhứng sáng tạocủathơca . 6 
1.3.Vàinétvềchân dung ng ười lính trong thơca Việt Nam. 9 
1.3.1.Chân dung ng ười lính trong thơca trung đại . 9 
1.3.2.Chân dung ng ười lính trong thơca hiện đại . 11 
Chương 2: Những vẻ đẹpcủa người línhtrong thơ NguyễnDuy . 15
2.1.Vẻ đẹp của người lính trong đời sống chiến tranh . 15 
2.1.1.Vẻ đẹp tâm hồn. 15 
2.1.1.1.Nỗi nhớ quêhương ,gia đình ,người yêu . 15 
2.1.1.2.Tình đồng chí, đồng đội . 22 
2.1.1.3.Tinh th ần lạc quan . 26 
2.1.2.Vẻ đẹp nhận thức tưtưởng . 29 
2.1.2.1.Ý thức vềnghĩa vụcủabản thân . 29 
2.1.2.2.Lýtưởng cao đẹp . 31 
2.1.2.3.Tình yêu quêhương đấtnước. 33 
2.2.Vẻ đẹp của người lính giữa đời thường . 38 
2.2.1.Ngườilính trong cuộc sống gia đình . 38 
2.2.2.Ngườilính ngoài xãhội . 42 
Chương 3: Nghệthuật thể hiệnvẻ đẹpcủa ngườilính trong thơ Nguyễn Duy . 49 
3.1.Thể thơ . 49 
3.1.1.Thể thơ ngũngôn . 49 
3.1.2.Thể thơlụcbát . 51 
3.1.3.Thể thơtự do . 53 
3.2.Ngôn ngữ. 56 
3.3.Hình ảnh . 57 
KẾT LUẬN . 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 67 trang
67 trang | 
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3540 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chân dung người lính trong thơ Nguyễn Duy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đối với nơi yên nghỉ cuối cùng của đồng đội. Vì hoàn cảnh, người 
chiến sĩ phải chôn bạn trong rừng đước-rừng ngập mặn nên: “thuỷ triều lên nấm 
mộ cũng ngập chìm”. 
 “Đúng như Nguyễn Duy tâm sự: anh luôn cảm thấy mình mắc nợ 
cuộc sống, mắc nợ những đồng đội. Cái cảm giác đáng quý cũng là cái ý thức 
trách nhiệm ấy đã thôi thúc anh, nâng giúp anh viết ngày một nhiều, ngày một hay 
hơn về người chiến sĩ”[20;289]. 
 Có thể nói, tình đồng chí, đồng đội là một tình cảm thiêng liêng không 
thể thiếu của người chiến sĩ. Tình cảm ấy thể hiện rất rõ trong thơ của Nguyễn 
Duy viết về người lính. Người lính của Nguyễn Duy luôn có sự thông cảm, chia sẻ 
những khó khăn, vất vả với đồng đội. Đồng thời, người lính ấy còn hiểu được cả 
tâm tư, tình cảm của đồng đội. 
 2.1.1.3. Tinh thần lạc quan: 
 Là một người lính, bước chân vào chiến trường là đi vào nơi lửa đạn, 
đối mặt với cái chết, nhưng người lính ấy không hề sợ hãi. Những người lính ra đi 
một cách vui vẻ, tự nguyện bởi vì họ luôn tin tưởng vào ngày mai, vào ngày chiến 
thắng. Một nhà phê bình đã viết: “Tâm hồn lính biểu hiện ở niềm lạc quan chiến 
thắng”[23;99]. Người lính của Nguyễn Duy cũng vậy. những khó khăn vất vả, 
thiếu thốn nơi chiến trường không làm họ nản lòng. 
 Cuộc sống của người lính trong chiến tranh không phải là chăn êm 
nệm ấm, là nhà cao cửa rộng mà là khó khăn, nguy hiểm. Họ không những thiếu 
thốn về vật chất mà còn thiếu thốn cả về tinh thần. Họ phải đối mặt với bệnh tật và 
cả cái chết. Cuộc sống của những người lính là cuộc sống không biết đến ngày 
mai nhưng họ vẫn tin tưởng vào tương lai phía trước. 
 Nguyễn Duy đã miêu tả cuộc sống của người lính trong chiến tranh: 
 “...là hầm, là tăng, là võng 
 là cơn sốt rét rừng vàng bủng 
 là muỗi, vắt, bom, mìn, vực sâu, đèo trơn...” 
 (Nghe tắc kè kêu trong thành phố). 
 Có một căn bệnh mà trong thời chiến hầu như người chiến sĩ nào cũng 
mắc phải. Đó là sốt rét rừng. hậu quả của nó là làm cho da người lính trở nên 
“vàng bủng”. Nếu hình ảnh người lính của Nguyễn Duy hiện ra với hình ảnh 
“cơn sốt rét rừng vàng bủng” thì người lính trong thơ Quang Dũng là “xanh màu 
lá”: 
 “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc 
 Quân xanh màu lá dữ oai hùm”. 
 (Tây Tiến) 
 Bên cạnh bệnh tật, người chiến sĩ còn đối mặt với nhiều nguy hiểm 
khác:bom, mìn, vực sâu, đèo trơn,… .Có thể nói, tất cả điều gây bất lợi cho họ. 
Thế nhưng tinh thần của người lính thì ngược lại. Đứng trước những nguy hiểm 
đó, họ vẫn có thể: “rung võng cười khoái trá” (Nghe tắc kè kêu trong thành phố) 
 Tiếng cười của người lính sau trận đánh, trong những lúc thanh thản 
càng làm nổi bật tinh thần lạc quan của họ. Nếu trong chiến đấu họ anh dũng bao 
nhiêu thì sau đó người lính lại hồn nhiên bấy nhiêu. Không giống người lính của 
Nguyễn Duy, người lính trong thơ Hồng Nguyên lại có cách cười khác: 
 “Cả lũ cười vang bên ruộng bắp 
 Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu” 
 (Nhớ). 
 Tiếng cười trong thơ Hồng Nguyên là tiếng cười của sự tin tưởng vào 
tương lai, tin tưởng vào ngày độc lập. 
 Như đã nói ở trên, những khó khăn, nguy hiểm nơi chiến trường 
không làm người lính nản lòng. Họ hăng hái tham gia những đoàn quân ra mặt 
trận với một tư thế sẵn sàng, tự nguyện.Mục đích của họ đi vào chiến trường thật 
đơn giản, đó là “nhận mặt họ hàng”. Không phải một hay hai mà rất nhiều người 
tham gia chiến đấu: 
 “Những đứa con sông Mạ vẫn lên đường 
 nhận mặt họ hàng ngoài mặt trận” 
 (Dòng sông mẹ). 
 Yếu tố nào đã giúp cho những con người ấy tiếp tục lên đường dù biết 
rằng khó khăn gian khổ đang ở phía trước. Đó chính là niềm lạc quan cách mạng. 
 Chiến trường ác liệt rồi vẫn có lúc bình yên. Sau những phút “sục sôi 
bom lửa chiến trường”, sau những khi đối đầu với quân giặc, người lính lại có 
những phút giây yên tĩnh. Nguyễn Duy đã đo được sự yên tĩnh đó trong tâm tư 
người lính: 
 “Tâm tư yên tĩnh vẫn vuông một vùng” 
 (Bầu trời vuông). 
 Nguồn động viên lớn nhất đối với người lính có lẽ là những lá thư từ 
hậu phương. Những lá thư chứa đựng trong nó muôn vàn tình cảm của người gửi. 
Đó có thể là thư của mẹ, của vợ, em gái hay người yêu. Sau trận chiến, người lính 
lại đem những lá thư ra đọc. Trận đánh ác liệt vừa xảy ra hay trận đánh sắp tới giớ 
đây không khiến cho họ bận tâm, lo lắng. Những giây phút bình yên đối với người 
lính thật quý báu. Họ đã trở về con người thật và nói lên tâm trạng của mình lúc 
bấy giờ: 
 “Khoái nào bằng phút ngả lưng 
 mở trang thư dưới bóng rừng đu đưa” 
 (Bầu trời vuông) 
 Ngày mai đối với họ là bắt đầu của một ngày mới, là nơi khởi đầu 
của đời người. Mặt trận đối với người lính giờ đây không còn là nơi nguy hiểm, 
chết chóc mà là nơi để người lính “nhận mặt họ hàng”, là nơi khởi đầu của cuộc 
đời: 
 “Mặt trận dời vào sâu 
 ngày mai ta dừng chân nơi nào 
 khoảng trống phía trước vẫn bỏ ngỏ 
 đâu biết những gì chờ ta đằng kia 
 chỉ biết đời ta khởi đầu từ nơi ấy”. 
 (Xó bếp). 
 Tinh thần lạc quan còn giúp cho người chiến sĩ vượt qua những thiếu 
thốn trong cuộc sống. Người lính của Nguyễn Duy đã tìm thấy trong ổ rơm của 
một nhà ven đường “hương mật ong của ruộng”, sự ấm áp “hơn chăn đệm”: 
 Niềm lạc quan ấy,tinh thần lạc quan ấy không phải tự dưng mà có.Nó 
là sự tiếp nối của truyền thống, “niềm lạc quan ấy là của cả một thế hệ” [23;100]. 
Những thế hệ người lính nối tiếp nhau vào chiến trường, tiếp nối tinh thần lạc 
quan để đi đến thành công của cuộc cách mạng. 
 2.1.2. Vẻ đẹp nhận thức, tư tưởng: 
 2.1.2.1. Ý thức về nghĩa vụ của bản thân: 
 Sinh ra và lớn lên trong lúc đất nước gặp chiến tranh, “chàng lính này 
vào chiến trường sẵn sàng xã hết mình vì nước gặp tai ương” [ 21;265]. Đó là 
những suy nghĩ chung của những thanh niên trong thời chiến. Người lính của 
Nguyễn Duy cũng đã ý thức được điều đó, nhận thức được trách nhiệm của mình 
đối với quê hương, đất nước: 
 “Mười tám tuổi ra đi 
 bước thứ nhất đặt bàn chân vào lửa 
 đường chiến tranh biết chỗ nào dừng” 
 (Dòng sông mẹ) 
 Mười tám tuổi, lứa tuổi đẹp nhất của đời người. Thế mà người thanh 
niên ấy sẵn sàng dấn thân vào lửa đạn để bảo vệ quê hương, bảo vệ dòng sông Mạ 
mến yêu. Đây là thời điểm quan trọng đối với người lính, nó đánh dấu sự trưởng 
thành của một con người. Có thể thấy rằng bước đi vào đời đầu tiên của người 
thanh niên này là đi vào chiến trường: “bước thứ nhất đặt bàn chân vào lửa”. 
Không ai muốn điều đó xảy ra nhưng hoàn cảnh không cho phép. Mặc dù lường 
trước những khó khăn nhưng người lính ra đi vì trách nhiệm, vì nghĩa vụ. 
 Trong chiến tranh, có biết bao nhiêu người con gái con trai đã đi vào 
chiến trường với lứa tuổi mười tám, hai mươi mang theo cả mối tình thơ mộng. 
Cũng giống như người lính của Nguyễn Duy,người lính trong thơ của Trương 
Nhân Huyền đi vào chiến trường năm mười tám tuổi: 
“Tôi đi xa năm mười tám tuổi 
 Cuốn nhật kí nằm dưới đáy ba lô 
 Chiếc khăn thêu nằm dưới đáy balô 
 Và em trong tim 
 Những ngày trận mạc” 
 (Có một loài trăng). 
 Cuộc chiến tranh diễn ra, người lính đã tự ý thức được nghĩa vụ của 
mình đối với quê hương đất nước. Bởi vì họ nghĩ rằng: 
 “Có ai trên đất nước này 
 mà số phận không dính vào chiến tranh” 
 (Chiến hào). 
 Người lính cho rằng họ tham gia vào cuộc chến tranh do số phận họ 
phải “dính vào chiến tranh”. Vì vậy, họ nhập vào cuộc chiến một cách tự nhiên 
với một tinh thần tự nguyện, hăng hái: 
 “Rất tự nhiên, đến lượt chúng ta thôi 
 lại trần trụi con người với đất đá 
 ta đào 
 hối hả nào 
 hối hả nữa lên” 
 (Chiến hào). 
 Trong những giờ phút nghỉ ngơi, người chiến sĩ nhìn thấy căn hầm 
chữ A và chợt nhận ra nghĩa vụ của mình ngay cả với những căn hầm: 
“hứng bom đỡ đạn đã nhiều 
vẫn lặng thinh với cỏ rêu bên đường”. 
 (Hầm chữ A). 
 Những căn hầm là tấm lòng của nhân dân đối với những người chiến 
sĩ. Cuộc kháng chiến sẽ không thành công nếu không có những con người hi sinh 
một cách “lặng thinh” như những căn hầm. Vì vậy, những người lính của Nguyễn 
Duy đã tự ý thức được nghĩa vụ của bản thân đối với nhân dân, những người âm 
thầm góp sức cho cuộc cách mạng. Người lính ấy tâm niệm một điều: 
“Một đời không thể nào quên 
lòng dân - chiếc mộc vững bền cho ta” 
 (Hầm chữ A). 
 Cuộc chiến tranh đã đi qua mang theo cả thời trai trẻ của người lính, 
vì cuộc đời của họ gắn liền với cuộc kháng chiến. Người lính cảm nhận được sự tỉ 
lệ thuận giữa thời gian của chiến tranh và thời gian của đời người: 
 “Chiến tranh đi qua - thời trai anh đi qua” 
 (Gửi về Lam Sơn) 
 Cuộc chiến bằng súng đạn đã kết thúc, giờ đây người lính lại bước 
vào cuộc chiến khác ác liệt và gian khổ hơn. Cuộc chiến đi tìm những người đã 
khuất, đi tìm đội, tìm thân nhân. Hoà bình lập lại, trước “những dòng tin như vết 
cứa của lòng” người lính biết mình phải đối mặt với những khó khăn mới. Bản 
chất của anh bộ đội cụ Hồ không cho phép người lính quên đi nhiệm vụ của mình: 
 “Góp với mọi người 
 Cùng mọi người 
 Đi tìm thân nhân”. 
 (Tìm thân nhân). 
 Đi tìm thân nhân cũng chính là cách để người lính không quên nghĩa 
vụ của mình, nghĩa vụ của những người được trở về sau chiến tranh đối với những 
người nằm xuống: 
 “Thằng còn sống chớ phụ lòng thằng chết”. 
 (Mười năm bấm đốt ngón tay). 
 2.1.2.2. Lí tưởng cao đẹp: 
 Là một người lính, đều quan trọng nhất là phải có lí tưởng. Hơn nữa, 
đó phải là một lí tưởng cao đẹp. Nguyễn Duy cũng vậy. Người lính trong ông vào 
chiến trường “cóc phải vì ham sung đạn mơ chiến tích hay màng huân chương” 
[21; 265]. Họ ra đi vì lí tưởng cao đẹp của mình. 
 Con đường chiến tranh mở ra như một “dòng nước xiết” và người 
lính phải lèo lái con thuyền của cuộc đời trên dòng nước đó. Vậy mà người lính 
vẫn tìm thấy bên cạnh dòng nước xiết đó là bến bờ của sự sống: 
 “Tôi nhập cuộc đời giữa dòng nước xiết 
 dù tới đâu dù dạt bến nào 
 thấy hạt cát có cái gì bất diệt” 
 (Dòng sông mẹ) 
 Người lính đã nhận ra bên trong hạt cát nhỏ nhoi, tầm thường kia sự bất diệt. 
 Trong những đêm ở chốt 417, nhìn thấy ánh sáng xanh lè của đạn nổ, 
người lính lại nghĩ đến ánh đèn ở những làng dân. Đó là thứ ánh sáng luôn có mặt 
trong lòng người lính, ánh sáng như thiêu đốt người lính trong những đêm không 
ngủ. Thế nhưng, đó lại là ánh sáng của những ngọn đèn đã tắt: 
 “Lửa đốt lòng ta những đêm không ngủ 
 là ánh đèn đã tắt dưới làng dân” 
 (Đêm ở chốt 417). 
 Giữa cảnh “sục sôi bom lửa chiến trường” người lính vẫn cảm nhận 
được sự bình yên của những mái ấm gia đình qua những căn hầm che chắn bom 
đạn. Điều đó chứng tỏ giữa cảnh chiến đấu ác liệt người lính vẫn luôn mong có 
được sự yên tĩnh trong tâm tư, sự bình yên trong tâm hồn. Họ chiến đấu không 
phải vì họ muốn làm mà vì họ phải làm. Điều đó chứng tỏ họ bước vào cuộc chiến 
không phải vì ham muốn cầm súng mà vì lí tưởng: bảo vệ độc lập tự do cho Tổ 
quốc. Đối với những người lính, lí tưởng của họ là “sự tự khẳng định mạnh mẽ 
của thế hệ mình, một thế hệ do cách mạng đẻ ra và đào luyện từ trong lòng nôi 
một chế độ mới và đen cống hiến cho chế độ toàn bộ khát vọng, nhiệt tình, ý thức 
cho đến cả chính xương máu, số phận, sinh mạng mình” [24;43]. 
 Người lính trong thơ Nguyễn Duy không chỉ có lí tưởng cao đẹp là 
bảo vệ quê hương đất nước mà còn phải là một người có ích cho xã hội. Người 
lính ấy đã từng có mong muốn mình là loài cỏ dại vô danh mà hữu ích. Người lính 
khao khát được chia sẻ mọi buồn dau với mọi người, đem lại cho mọi người 
những “màu sắc vui tươi” của cuộc sống. Với một lí tưởng, một ý thức cao đẹp, 
người lính không nghĩ đến mình, chỉ nghĩ đến mọi người, chỉ “mong có ích cho 
người”: 
 “Chia mình cho mọi buồn đau 
 tan mình trong mỗi sắc màu vui tươi 
 những mong có ích cho người 
 dẫu làm thân cỏ dập dùi…xá chi” 
 (Cỏ dại). 
 Dù đi đâu, về đâu, người lính ấy vẫn mang trong lòng một mong 
muốn: được trở về với thiên nhiên, trở về với tuổi thơ. Nơi ấy luôn có dáng dấp 
của một “miền quê”, một “nguồn cội” của kiếp người: 
 “Trọn kiếp người ta chập chờn nguồn cội 
 có một miền quê trong đi đứng nói cười” 
 (Tuổi thơ). 
 Trải qua bao năm chiến tranh, người lính ấy đã đi qua thời trai trẻ, đã 
từng vào sinh ra tử nhưng vẫn mang một lí tưởng: chiến đấu vì chính nghĩa, vì lẽ 
phải. Dù tham gia vào cuộc chiến tranh nhưng người lính ấy vẫn chán ghét chiến 
tranh. Người lính đã có một lời chúc rất nhân tình đối với một tân binh: 
 “Chúc chú mày cứ đẹp như cây cảnh 
 lại trời không bao giờ phải ra trận” 
 Lời chúc ấy thể hiện khát vọng hoà bình của người lính. 
 Trong chiến tranh, người lính đã không chùn bước trước những khó 
khăn thì trong đời sống hằng ngày, trước những thử thách của cuộc sống anh cũng 
không hề chùn bước. Có bao người đã không chiến thắng được ngay chính bản 
thân mình nhưng người lính lại khác. Lí tưởng của người kính không cho phép 
anh “chùn chân” trước những khó khăn thử thách: 
 “Lẽ nào giờ đây anh chùn chân 
 trước vách núi cheo leo 
 dựng đứng trong lòng 
 dù rằng cao thật đấy” 
 (Trở lại khúc hát ru). 
 Dù người lính ấy có chiến đấu anh dũng đến đâu thì anh cũng là một anh 
nông dân mặc áo lính, vẫn đứng về phía nhân dân. Người lính ấy đi vào chiến 
trường nhưng “không ham giết một kẻ thù, chỉ mong cứu một đời người” 
[21;266]. Đó chính là lí tưởng cao đẹp của một người lính. Lí tưởng ấy là đứng về 
phía nhân dân, chiến đấu vì nhân dân . 
 2.1.2.3. Tình yêu quê hương đất nước: 
 Tình yêu quê hương đất nước là đặc điểm nổi bật trong tâm hồn của 
những người lính.Vì thế , “người lính ra trận nhân danh tình yêu quê hương” 
[17;102] .Đối với những người lính, chỉ có tình yêu quê hương đất nước mới giúp 
họ có đủ tự tin,nghị lực sẵn sàng xã thân vì độc lập tự do của dân tộc, vì sự thanh 
bình cho quê hương.: 
“Sông Mạ ơi 
 hạt cát dạt bến nào 
 điệp khúc sông trong lòng nguyên vẹn” 
 (Dòng sông mẹ) 
Tình yêu quê hương của người lính được thể hiện qua niềm tự hào. 
Người lính tự hào về quê hương , ca ngợi những đặc sản, những địa danh của quê 
hương đất nước: 
 “Ai qua Thanh Hoá về Quảng Xá 
 men rượu là hương vị của làng tôi 
 nhắc cầu Bố chắc nhiều người cò nhớ 
 đình nhà Lê rêu phủ đã bao đời”. 
 (Cầu Bố). 
 Không chỉ có người lính của Nguyễn Duy mới ca ngợi quê hương mà 
người lính trong thơ Hoàng Cầm cũng vậy. Người lính của Hoàng Cầm tự hào về 
những bức tranh Đông Hồ đã làm nên nét văn hoá đặc trưng của quê hương: 
 “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng 
 Tranh Đồng hồ gà lợn nét tươi trong 
 Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” 
 (Bên kia sông Đuống). 
 Tình yêu quê hương đất nước còn được thể hiện ở tình thương yêu đối 
với “những người chịu đen da cho muối trắng” (Muối trắng). Chỉ có tình yêu quê 
hương đất nước mới giúp người lính nhận ra được cái mộc mạc, nồng nàn của 
“hơi ấm ổ rơm”. Xuất thân từ nông thôn, người lính hiểu được những điều đơn 
giản nhất: cái ấm của ổ rơm,của tình quân dân không dễ chia cho những người 
không hiểu được nó: 
 “…cái ấm nồng nàn như lửa 
 cái mộc mạc lên hương của lúa 
 đâu dễ chia cho tất cả mọi người” 
 (Hơi ấm ổ rơm). 
 Cũng chính tình yêu ấy đã giúp người lính nhận ra “cái “rễ siêng”của 
đất nghèo, cái manh áo cộc của tre nhường cho măng [ 22;69]. Chỉ có những 
người sống gắn bó với quê hương mới hiểu được sự siêng năng, sự hi sinh của 
những cây Tre Việt Nam. 
 Nếu không có tình yêu quê hương đất nước người lính không chỉ nhìn 
thấy ánh trăng qua cửa sổ mà giật mình. Sống trong lòng thành phố người lính vẫn 
“rưng rưng” khi nhớ về “đồng” về “bể”, về “sông” về “rừng”. Người lính như 
nhìn thấy lại hình ảnh của quê hương qua ánh trăng ngoài cửa sổ: 
 “Ngửa mặt lên nhìn mặt 
 thấy cái gì rưng rưng 
 như là đồng là bể 
 như là sông là rừng”. 
 (Ánh trăng). 
 Lê Quang Hưng trong Thơ Nguyễn Duy và Ánh trăng đã từng nhận 
xét: “Ánh trăng đã “bao” được hầu hết các vùng trong Tổ quốc” [ 20;287]. Điều 
này càng thể hiện tình yêu đối với quê hương đất nước của người lính trong thơ 
Nguyễn Duy. Đọc Ánh trăng ta có một cái nhìn tổng quan về những miền quê 
khác nhau trên đất nước Việt Nam. 
 Qua ánh trăng, chúng ta có thể thấy được cái “dáng người vừa thoáng 
gặp” của một cô giáo ở Lạng Sơn, đại diện cho những con người ở vùng biên 
giới. Để rồi sau nhiều năm xa cách, hình ảnh cô giáo ấy vẫn còn mãi trong lòng 
người lính: 
 “Dáng điệu ấy chốt lại lòng ta mãi 
 như dạ hương thoáng gặp một đêm nào” 
 (Dạ hương) 
 Ta lại bắt gặp những “chiến hào xẻ dọc ngang mặt đất” những chiến 
hào đã tạo nên dấu ấn của một vùng quê. Bởi vì đó không phải là một chiến hào 
bình thường mà nó mang dáng dấp của một con người: 
 “Chiến hào với ta là một phần thân thể 
 đường chỉ tay trong lòng bàn tay 
 nếp nhăn dầy trên vỏ não 
 lằn gân xanh 
 và mạch máu đỏ” 
 (Chiến hào) 
 Từ tình yêu đối với quê hương đất nước, người lính nhận ra được cái 
đẹp của những cơn mưa ở Hà Nội, những cơn mưa bất chợt, “tự dưng” đến và tự 
dưng đi: 
 “Tự dưng lộp độp ngang đầu ồ mưa! 
 Mưa rào giữa nắng hay chưa 
 Hạt mưa ném thẳng có chừa ai dâu” 
 (Mưa trong nắng, nắng trong mưa) 
 Nguyễn Duy còn thể hiện một quan niệm mới về quê hương.Tình yêu 
quê hương đất nước của người lính trải dài khắp các nẻo đường, từ bắc vào nam, 
từ Lạng Sơn qua Hà Nội đến cố đô Huế thơ mộng và cổ kính. Cố đô Huế hiện ra 
trong nỗi nhớ của người lính với sông Hương, bến Ngự, với lan báo hỉ, ngô đồng: 
“Lan báo hỉ nở tình cờ 
bông ngô đồng rụng xuống bờ Hương Giang 
chợ chiều bến Ngự chưa tan 
ai đi ngược dốc Phú Cam một mình” 
 (Nhớ bạn) 
 Nếu vẻ đẹp của cố đô Huế là cổ kính thì Đà Lạt mang một vẻ đẹp mờ 
ảo. Người lính của Nguyễn Duy không chỉ ca ngợi vẻ đẹp của quê hương Thanh 
Hoá mà còn ca ngợi vẻ đẹp của những miền quê khác trên đất nước. Vẻ đẹp của 
Đà Lạt được cụ thể hoá qua hình ảnh ánh trăng “ảo ảnh”, qua làn sương trắng, 
“chiếc lá thông rơi”. Điều đó tạo nên sự khác biệt giữa Đà Lạt và những vùng quê 
khác: 
 “Trăng ảo ảnh lập lờ trong sương trắng 
 ngọn gió nhà ai thấp thoáng bên đồi 
 tiếng móng ngựa gõ ròn trên dốc nắng 
 nghe mơ hồ một chiếc lá thông rơi” 
 (Đà Lạt một lần trăng) 
 Không chỉ đến với Đà Lạt, người lính ấy còn đi đến nơi tận cùng của 
tổ quốc – mũi Cà Mau. Theo tiếng gọi của quê hương, để giữ gìn quê hương đất 
nước, người lính đã “đến với trời và nước / Mũi Cà Mau xa xôi” (Tình ca nơi cuối 
đất). tình yêu của người lính không phân biệt bắc nam, gần xa. Dù là một nơi rất 
xa xôi nhưng người lính vẫn đi tới. Và người lính ấy không hề cô đơn nơi “cuối 
đất” vì tình yêu không có ranh giới, không bến bờ: 
 “Nơi tận cùng đất nước 
 Tình yêu không bến bờ” 
 (Tình ca nơi cuối đất) 
 Tình yêu quê hương đất nước còn được thể hiện qua tình yêu thiên 
nhiên.Với lý tưởng sống cao đẹp, người lính luôn sống hết mình vì mọi người, 
cống hiến hết mình ngay cả khi chết đi rồi. Người lính ao ước dù sau này có trở 
thành loài cỏ dại, thành “bùn mục” vẫn phải có ích cho đời, cho đất nước: 
 “Rồi khi ta rũ xuống rồi 
 hoá thân bùn mục đắp bồi mai sau 
 trái tim ta rất mỡ màu 
 bao nhiêu là cỏ theo nhau bật mầm” 
 (Cỏ dại) 
 Yêu quê hương đất nước, người lính có một niềm mơ ước thật lớn lao. 
Đó là mơ ước cho đất nước được vươn xa hơn qua bên kia “bờ đại dương”. Mơ 
ước ấy gắn liền với hình ảnh “con cò” ,một hình ảnh gần gũi, thân thuộc của con 
người Việt Nam, dân tộc Việt Nam: 
“Mai rồi lại hát à ơ 
Con cò lặn lội bên bờ đại dương” 
 (Lời ru con cò biển) 
 Chính tình yêu quê hương đất nước đã giúp cho “người dưng” dám 
đến nơi miền quê Sa Đéc xa xôi để “đi cùng ta một chuyền đi xuồng đầy”(Xuồng 
đầy). Trong chuyến đi ấy, nggười lính đã cảm nhận được hình ảnh “sông nước 
Cửu Long hư thực và ám ảnh”[ 6;93] qua hình ảnh lau già, cu cườm, khói sương, 
…. Từ đó, người lính càng thêm yêu mến vẻ đẹp của mảnh đất phương Nam qua 
hình ảnh ánh trăng trên sông Tiền. Ở đây, người lính có sự so sánh về màu sắc 
giữa ánh trăng và dòng nước: 
 “Trăng thì xanh mà nước thì lại đỏ”. 
 Ánh trăng trên sông Tiền không gợi cho người lính hình ảnh của ánh 
trăng nơi chiến trường mà gợi lên sự thanh bình, yên ả: 
 “Sóng lăn tăn óng ánh gió mùa thu 
 chiếc xuồng nhẹ tựa hồ câu thơ cổ 
 lục bình trôi mộng du” 
 (Trăng sông Tiền) 
 Yêu quê hương đất nước, người lính còn yêu cả hình ảnh “Cây đước 
lỡ làng cuối mũi Cà Mau”(Quà tặng). 
 Mỗi vùng quê Nguyễn Duy đi qua đều in đậm dấu ấn trong thơ ông. 
Nhà thơ ca ngợi những vẻ đẹp của miền quê đó bởi vì nơi đâu cũng là quê hương, 
cũng có ở đấy những “gương mặt bạn bè”: 
 Xin thương mến đến tận cùng chân thật 
 những miền quê gương mặt bạn bè”. 
 (Tuổi thơ). 
 Nguyễn Duy đi rất nhiều nơi trên đất nước và cả ra nước ngoài. Vì 
vậy quê hương đối với ông dường như không có ranh giới. Ông cho rằng tổ quốc 
không phải được tính từ ải Nam Quan đến mũi Cà Mau mà là mọi nơi, mọi chốn: 
 “Dù ở đâu cũng tổ quốc trong lòng 
 cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”. 
 2.2.VẺ ĐẸP CỦA NGƯỜI LÍNH GIỮA ĐỜI THƯỜNG: 
 2.2.1 Người lính trong cuộc sống gia đình: 
 Sự trở về của người lính sau chiến tranh là một môtip quen thuộc của 
nhiều tác phẩm văn học nói chung, thơ ca nói riêng. “ Nhưng sự trở về của người 
lính trong đời sống hôm nay có những nét khu biệt so với trước đây”.[17;129]. 
Nếu trước đây người lính trở về trong vinh quang của sự chiến thắng thì người 
lính hôm nay lại khác. “Người chiến sĩ trở về với đời sống dân sự hôm nay đã 
phải đón nhận những thử thách mới không kém phần gay go và ác liệt đối với số 
phận của cá nhân và gia đình họ”[17;129]. 
 Thử thách đầu tiên đối với người lính khi vừa trở về lại xảy ra trong 
chính ngôi nhà của anh. Một sự đổi thay đột ngột như một qua bom nổ “giữa 
ngực anh”. Đó là một thử thách rất lớn đối với người lính. Sau tám năm xa cách, 
“Vợ anh vừa đẻ một thằng con”(Trở lại khúc hát ru). Một sự thật phũ phàng 
không thể chấp nhận, một câu hỏi lớn được đặt ra: thằng bé là con ai? Nguyễn 
Duy đã rất tài tình trong việc tạo ra một tình huống éo le dẫn đến một cuộc độc 
thoại nội tâm troong người lính. Điều đó “thể hiện thành công lòng nhân hậu cao 
cả, đức tính quên mình của người chiến sĩ ngay trong cuộc chiến đấu rất riêng tư 
mà mang ý nghĩa phổ biến, không có tiếng súng mà vô cùng quyết liệt”[ 20;288]. 
 Người lính này đã trải qua không biết bao nhiêu sự thay đổi của cuộc 
sống trong chiến tranh. Đối với anh, cái gì đã mất thì đã mất đi rồi, cái gì đáng còn 
thì đang tồn tại. Người lính đã chứng kiến nhiều cuộc chia ly, nhiều sự mất mát 
nên anh hiểu thế nào là giá trị của sự sum họp: 
 “Để có được ngày sum họp lớn 
 ta trải qua nhiều xa cách và hy sinh” 
 (Trở lại khúc hát ru) 
 Một thử thách lớn đặt ra cho một gia đình nhỏ. Trong lòng người lính 
xuất hiện một mâu thuẫn: đứa bé ra đời là “hạnh phúc lớn lao” hay là nguyên 
nhân của “sự xa cách”. Người lính cất lên câu hỏi: “sao lại thế?”, câu hỏi mà 
chính anh mới là người trả lời. 
 Vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh, người lính lại dấn thân vào một 
trận chiến mới, trận chiến không có tiếng súng. Đó là trận chiến ngay trong lòng 
anh. Người lính biết rằng mình cần phải làm gì và làm như thế nào nhưng điều 
quan trọng là anh phải thắng nổi lòng mình, phải nói ra được điều nên nói: 
 “Điều ấy cần gì phải nghĩ ngợi lâu 
 ngập ngừng 
 khó khăn 
 là đặt nổi lòng mình lên lưỡi” 
 (Trở lại khúc hát ru) 
 Vượt qua thử thách ấy, người lính còn phải tiếp xúc , va chạm với 
những lo toan của cuộc sống đời thường. Anh buộc phải thích nghi với nó. Người 
lính trở về với gia đình không còn là một anh hùng, không được nhớ đến quá khứ 
hào hùng của mình mà phải quên đi để sống một cuộc sống mới. 
 “Anh nhét tấm huân chương vào hộc tủ 
 dửng dưng dưng với mọi vui mừng 
 ............................................................... 
 mọi đau buồn anh cũng dửng dừng dưng” 
 (Từng trải) 
 Giống như người lính của Nguyễn Duy, vị tướng trong thơ Nguyễn 
Đức Mậu cũng có một tâm trạng như thế. Sau khi trải qua những năm tháng chiến 
đấu, người lính ấy trở về với gia đình với một thái độ dường như dửng dưng với 
tất cả: 
 “Huân chương xếp vào góc tủ 
 Nay hàm tướng tá mà chi 
 Tuổi già công danh xem nhẹ 
 Cuộc đời như nước trôi đi” 
 (Một vị tướng về hưu) 
 Ngỡ như người lính ấy đã “dửng dừng dưng” với mọi vui buồn 
nhưng bản chất của anh bộ đội cụ Hồ không cho phép anh làm như vậy. Trong 
lòng anh vẫn có nỗi lo sợ, nhưng không phải sợ khổ, sợ khó mà chỉ sợ sự trống 
trải, sự dửng dưng của tâm hồn: 
 “Chỉ sợ lòng trống trải dửng dừng dưng” 
 (Từng trải) 
 Mười năm sau chiến tranh cuộc sống của người lính đã thay đổi. Từ 
việc sống ở rừng, người lính được trở về thành phố như niềm ao ước lúc trước. Vì 
vậy, không gian sống của người lính cũng thay đổi: 
 “Mười năm ta ở đây 
 lầu ba nhà một trăm chín mươi Nam Kỳ Khởi Nghĩa” 
 (Mười năm bấm đốt ngón tay) 
 Trong cuộc sống nhộn nhịp nơi thành thị, người lính ấy vẫn nhớ về 
thời chiến tranh, cái thời mà giấc ngủ của người lính gắn liền với “tiếng tắc kè”, 
“tiếng mưa rừng”: 
 “Tiếng tắc kè nhỏ giọt trong đêm 
 tiếng mưa rừng nhỏ giọt trong trí nhớ” 
 (Mười năm bấm đốt ngón tay) 
 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 chandungnguoilinhtrongthonguyenduy.pdf chandungnguoilinhtrongthonguyenduy.pdf