Luận văn Chất lượng công chức thanh tra thủ đô Viêng Chăn nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào

PHẦN MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề tài . 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài . 3

3. Mục đích và nhiệm vụ luận văn. 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu luận văn . 5

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn. 5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn . 6

7. Kết cấu luận văn. 6

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC NGÀNH THANH

TRA. 7

1.1. Khái quát về công chức ngành thanh tra. 7

1.1.1. Khái niệm và phân loại công chức ngành thanh tra. 7

1.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn công chức thanh tra. 9

1.1.3. Vị t í, vai t công chức ngành thanh tra. 10

1.2. Khái niệm, yêu cầu và các yếu tố cấu thành chất lượng công chức ngành thanh tra12

1.2.1. Khái niệm chất lượng công chức ngành thanh tra. 12

1.2.2. Yêu cầu về chất lượng công chức ngành thanh tra. 14

1.2.3. Các yếu tố cấu thành chất lượng công chức ngành thanh tra . 15

1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công chức thanh tra . 22

1.3.1. Thể chế . 22

1.3.2. Năng lực hoạt động. 23

1.3.3. Môi t ường làm việc. 25

Tiểu kết Chương 1. 27

Chương 2. TH C TRẠNG CHẤT LƯƠNG ĐỘI NG CÔNG CHỨC THANH TRA

THỦ ĐÔ VIÊNG CHĂN, NƯỚC CHDCNDLÀO .28

2.1. ng quan về thanh tra h đô Viêng Chăn. 28

2.2.1. Tổ chức bộ máy . 28

pdf126 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 21/02/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chất lượng công chức thanh tra thủ đô Viêng Chăn nước cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân đánh giá ở mức “nguyên tắc, cứng nhắc”. Việc thực hiện hướng dẫn thủ tục và các yêu cầu liên quan để giải quyết hồ sơ cho người dân của công chức trong cơ quan được 54,17% ý kiến của người dân tham gia khảo sát đánh giá ở mức “đầy đủ, rõ ràng, dễ hiểu”; 29,17% ý kiến của người dân tham gia khảo sát ở mức “tạm được” và 16,66% ý kiến của người dân đánh giá ở mức “không hiểu, gây phiền hà” Về nội dung “khả năng nắm bắt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước” để giải thích, hướng dẫn cho người dân khi đến liên hệ công tác của đội ngũ CCTT Thủ đô Viêng Chăn được đánh giá khá cao với 52,08% ý kiến người dân được khảo sát đánh giá ở mức “nắm bắt nhanh, am hiểu tường tận” và gần 37,50% đánh giá ở mức “tạm được”, và 10,42% ý kiến của người dân được khảo sát đánh giá rằng khả năng nắm bắt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước của CCTT “còn yếu k m ”. Như vậy, qua kết quả khảo sát ý kiến người dân cho thấy vẫn còn tồn tại một số CCTT chưa nhiệt tình khi tiếp xúc, giải quyết công việc, hướng dẫn thủ tục và các yêu cầu giải quyết hồ sơ cho người dân, thiếu sự thành thạo trong công việc dẫn đến trong quá trình giải quyết công việc cho người dân vẫn còn sai sót, chậm chạp; chưa có phương pháp làm việc khoa học, chưa có cách giải quyết, ứng xử phù hợp với từng đối tượng và điều kiện cụ thể. 47 Bảng 13. Khảo sát ý kiến của người dân về những hạn chế tồn tại đối với các kỹ năng công tác của CCTT Thủ đô Viêng Chăn STT Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%) 1 Kỹ năng quản lý lãnh đạo 47 48,96 2 Kỹ năng giao tiếp 28 29,17 3 Kỹ năng phối hợp 51 53,13 4 Kỹ năng sử dụng ngoại ngữ 14 14,58 5 Kỹ năng soạn thảo văn bản 15 15,63 6 Kỹ năng tin học, máy tính 22 22,92 7 Kỹ năng thích ứng với môi trường và công nghệ mới 34 35,42 8 Kỹ năng phân tích, xử lý tình huống 38 39,58 Ngu n: Kết qu h o sát của học viên năm Kết quả khảo sát ý kiến người dân về những kỹ năng thực thi công vụ của đội ngũ CCTT Thủ đô Viêng Chăn được thể hiện qua số liệu tổng hợp trong Bảng 13: theo đánh giá của người dân thì nhìn chung đội ngũ công chức Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn vẫn còn nhiều hạn chế về những kỹ năng cần thiết trong quá trình thực thi công vụ, cao nhất là kỹ năng phối hợp với 53,13% người dân tham gia đánh giá là cán bộ CCTT Thủ đô còn hạn chế về kỹ năng này; tiếp theo đó là kỹ năng quản lý lãnh đạo: 48,96%; kỹ năng phân tích, xử lý tình huống 39,58%; kỹ năng thích ứng với môi trường và công nghệ mới với 35,42%. Còn đối với các kỹ năng sử dụng ngoại ngữ; kỹ năng soạn thảo văn bản; kỹ năng giao tiếp có mức độ hạn chế thấp hơn, tỉ lệ tương ứng là 14,58%; 1563% và 29,17%. Đồng thời, qua tiến hành khảo sát ý kiến của CCTT về những kỹ năng cần thiết cho họ trong hoạt động thực thi công vụ, kết quả cũng thể hiện rõ điều này. Bảng 13 cho thấy rằng, chính đội ngũ CCTT Thủ đô Viêng Chăn cũng thấy được 48 rằng bản thân họ cần phải có những kỹ năng cần thiết trong qua trình thực thi công vụ cụ thể như sau: kỹ năng quản lý lãnh đạo: 59,57% ; kỹ năng giao tiếp với tỉ lệ đánh giá 36,17%; kỹ năng phối hợp chiếm tỉ lệ cao nhất: 70,21%; kỹ năng tin học, máy tính: 42,55%; kỹ năng phối hợp: 70,21%; kỹ năng sử dụng ngoại ngữ và kỹ năng soạn thảo văn bản đều có chung tỉ lệ đánh giá là 34,88%; kỹ năng thích ứng với môi trường và công nghệ mới: 46,80%; kỹ năng phân tích, xử lý tình huống chiếm tỉ lệ cao thứ hai với 61,70%. Bảng 14. Khảo sát công chức Thanh t a Thủ đô Viêng Chăn về kỹ năng cần thiết t ong hoạt động thực thi công vụ STT Nội dung Số ý kiến (Lượt) Tỷ lệ % 1 Kỹ năng quản lý lãnh đạo 28 59,57 2 Kỹ năng giao tiếp 17 36,17 3 Kỹ năng phối hợp 33 70,21 4 Kỹ năng sử dụng ngoại ngữ 15 34,88 5 Kỹ năng soạn thảo văn bản 15 34,88 6 Kỹ năng tin học, máy tính 20 42,55 7 Kỹ năng tích ứng với môi trường và công nghệ mới 22 46,80 8 Kỹ năng phân tích, xử lý tình huống 29 61,70 Ngu n: Kết qu h o sát của học viên năm Kết quả này lý giải vì sao trong thời gian qua, chất lượng đội ngũ CCTT vẫn chưa đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ cải cách hành chính hiện nay. Vẫn còn tình trạng một số CCTT có bằng cấp chuyên môn nhưng chưa thực sự am hiểu pháp luật, thành thạo về chuyên môn, kỹ luật, có kỹ năng thực thi công vụ cũng như khả năng vận dụng khoa học công nghệ hiện đại vào từng lĩnh vực công tác cụ thể. Thực tế cho thấy một bộ phận không nhỏ CCTT còn hạn chế về kiến thức và kỹ năng quản lý, kỹ năng nghiệp vụ hành chính, phương pháp làm việc cũng như khả năng tư duy độc lập hạn chế. Mặc dù công tác đâo tạo, 49 bồi dưỡng công chức được Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn quan tâm, số lượng CCTT đã qua các lớp các khóa đào tạo, bồi dưỡng ngày càng nhiều như chất lượng thì chưa cao. Việc học tập lấy chứng chỉ để hợp lý hóa theo tiêu chuẩn chức danh chứ chưa chú trọng đầy đủ nhưng kiến thức và kỹ năng đã làm cho đội ngũ CCTT tham gia các khóa học khá nhiều nhưng vẫn thiếu khả năng cần thiết để thực thi công vụ. Điều này một phần làm cho CCTT thiếu tính chuyên nghiệp trong công tác dẫn đến hiệu quả công việc không cao. Do vậy, trước yêu cầu, nhiệm vụ cải cách hành chính Thanh tra ở CHDCND Lào nói chung và Thủ đô Viêng Chăn nói riêng hiện nay đòi hỏi CCTT phải rèn luyện kỹ năng cần thiết cho công tác, từng bước nâng cao năng lực chuyên môn, kỹ năng trong công việc Công tác quản lý và chính sách đãi ngộ đối với đội ng công chức thanh t a Thủ đô Viêng Chăn Trong thời gian dài, những bất cập trong xây dựng và phát triển đội ngũ CCTT như việc tuyển dụng, sử dụng công chức không gắn liên với tiêu chuẩn từng chức danh và yêu cầu thực tế; thiếu quan tâm đến công tác quy hoạch, đào tạo công chức, công tác quản lý công chức có lúc còn lỏng lẻo, thiếu chặt chẽ; chế độ, chính sách tiền lương còn chưa hợp lý, chưa tương xứng với công việc, chưa tạo được động lực trong phát huy trách nhiệm, năng lực của từng CCTT. Để tìm hiểu rõ hơn những nguyên nhân hạn chế này, học viên tiến hành lấy ý kiến khảo sát của 47 CCTT Thủ đô Viêng Chăn, cụ thể như sau: 2.4.1 Công tác tuyển dụng, bố t í, sử dụng, quy hoạch, kiểm t a, giám sát Kết quả khảo sát ý kiến của công chức về công tác quản lý và sử dụng CCTT Thủ đô Viêng Chăn được thể hiện qua số liệu bảng sau. - Về công tác tuyển dụng công chức Từ kết quả khảo sát ở Bảng 15 cho thấy “công tác tuyển dụng thực hiện đúng quy trình, minh bạch và cạnh tranh” được đánh giá khá cao với 82,98% ý kiến khảo sát của công chức; 17,02% CCTT lại cho rằng “công chức tuyển dụng chưa đúng quy trình, chưa công khai, minh bạch, không đảm bảo tính cạnh tranh”. Thực tế cho thấy, việc đăng ký chỉ tiêu tuyển dụng CCTT tại Thủ đô Viêng Chăn hiện nay chủ yếu dựa vào chuyên ngành đào tạo của những người đang làm việc hợp đồng tại Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn chứ không phải 50 theo nhu cầu thực tế còn thiếu của đơn vị. Mặt khác, việc tuyển dụng CCTT vẫn còn tồn tại việc nhận người chưa đạt chuẩn về trình độ, chuyên môn nghiệp vụ nên không ít người không đáp ứng được yêu cầu công tác, phải đưa đi đào tạo hệ vừa học vừa làm để chuẩn hóa mà chưa tập trung bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng bổ trợ dẫn đến tình trạng lãng phí các nguồn lực: thời gian, công sức và tiền bạc và chất lượng hiệu quả công việc không cao. Việc thông báo công khai mọi thông tin về điều kiện, tiêu chuẩn, chỉ tiêu, chuyên ngành tuyển dụng CCTT cũng chưa được thực hiện theo đúng quy định về nội dung và hình thức công khai nên việc tiếp nhận hồ sơ của thí sinh tự do từ bên ngoài có đủ điều kiện dự tuyển còn hạn chế, ảnh hưởng rất nhiều đến việc lựa chọn người thật sự có năng lực vào làm việc trong cơ quan thanh tra nhà nước. Việc tuyển dụng thông qua hình thức thi tuyển do Sở Nội vụ Thủ đô Viêng Chăn tổ chức hàng năm, định kỳ mỗi năm một lần trong khi đó hiện nay tại Thanh tra cấp tỉnh tại Thủ đô Viêng Chăn vẫn có nhiều trường hợp nghỉ việc hoặc chuyển công tác, cần người thay thế mà chưa đến kỳ thi tuyển công chức, trong khi đó chỉ tiêu lại ít. Để giải quyết nhu cầu này, Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn thường tạm tuyển công chức làm việc theo chế độ hợp đồng đợi đến kỳ thi tuyển công chức kế tiếp dự tuyển theo quy định. Đối với những đối tượng này, theo quy định phải dự tuyển công chức trong kỳ thi tuyển kế tiếp và nếu không đạt thì chấm dứt hợp đồng theo quy định. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, có một số trường hợp mà Sở Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn không thực hiện chấm dứt hợp đồng theo quy định. Nguyên nhân là do sự nể nang của lãnh đạo cơ quan, thiếu kiên quyết xử lý dứt điểm đối với những trường hợp này nên ảnh hưởng đến hiệu quả công tác tuyển dụng cũng như chất lượng đội ngũ CCTT của Thủ đô. - Về công tác bố trí và sử dụng, quản lý công chức Việc bố trí, phân công công tác đối với công chức trong cơ quan thanh tra cấp tỉnh về cơ bản đúng ngành nghề được đào tạo, đảm bảo hợp lý giữa công việc được giao so với trình độ đào tạo, phát huy sở trường, năng lực công tác. Qua kết quả khảo sát tại Bảng 15 cho thấy có 65,96% CCTT được khảo sát cho rằng công tác bố trí, sử dụng công chức “thực hiện bố trí, phân công công tác phù hợp” và 34,04 51 % công chức cho rằng “thực hiện bố trí, phân công công chức chưa phù hợp”. Như vậy, vẫn còn tình trạng sau khi tuyển dụng xong nhưng bố trí công tác không hợp lý, làm lãng phí nhân lực. Bảng 15. Khảo sát đánh giá của CCTT Thủ đô Viêng Chăn về công tác quản lý sử dụng công chức Nội dung Số lượng Tỷ lệ % Công tác tuyển dụng công chức 47 + Thực hiện đúng quy trình, minh bạch và cạnh tranh 39 82,98 + Chưa thực hiện đúng quy trình, thiếu minh bạch-cạnh tranh 8 17,02 + Ý kiến khác 0 0,00 Công tác bố t í và sử dụng công chức 47 + Thực hiện bố trí, phân công công tác phù hợp 31 65,96 + Thực hiện bố trí, phân công công tác chưa phù hợp 16 34,04 + Ý kiến khác 0 0,00 Công tác quy hoạch công chức 47 + Triển khai thực hiện đồng bộ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ 26 55,32 + còn hình thức, chưa bám sát yêu cầu nhiệm vụ 19 40,43 + Ý kiến khác 2 5,25 Công tác quản lý, kiểm t a, giám sát công chức 47 + Thường xuyên và chặt chẽ 36 76,60 + Không thường xuyên, không chặt chẽ 10 21,27 + Ý kiến khác 1 2,13 Ngu n: Số liệu điều t a và tính toán của học viên Việc thực hiện định kỳ chuyển đổi công tác theo điều 62 Nghị định số 82/CP ngày 52 19/05/2003 của Chính phủ Lào đối với những công chức không giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý là một chủ trương đúng, tạo bước đột phá trong công tác cán bộ, phù hợp với tình hình thực hiện cải cách hành chính, nhằm xây dựng tổ chức cơ sở trong sạch vững mạnh, tích cực đẩy lùi các biểu hiện, hành vi có nguy cơ phát sinh tham nhũng, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của từng đơn vị. Qua 5 năm công tác, hầu hết công chức thuộc danh mục các vị trí định kỳ chuyển đổi công tác đã dần tiếp cận với công việc và đi vào nề nếp nhưng phải chuyển sang vị trí công tác khác nên phải cần thời gian để nghiên cứu, tiếp cận với công việc mới, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của đơn vị. - Công tác quy hoạch CCTT Qua kết quả khảo sát tại Bảng 5 cho thấy 55,32% CCTT được khảo sát đánh giá “công tác quy hoạch triển khai thực hiện đồng bộ, bám sát yêu cầu nhiệm vụ”; 40,43% công chức được khảo sát cho rằng “công tác quy hoạch còn hình thức, chưa bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị đặt ra, chưa gắn công tác quy hoạch với các khâu đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng công chức” và 2,13% có ý kiến khác về nội dung đánh giá này. Nguyên nhân là do tiêu chuẩn để lựa chọn CCTT còn chung chung, chưa được cụ thể hóa, quy hoạch còn kh p kín trong cơ quan. Cơ quan chưa đi sâu nghiên cứu năng khiếu, sở trường công tác của CCTT để đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cho phù hợp. Việc đưa công chức đi đào tạo tràn lan nhưng chưa có kế hoạch, quy hoạch, bố trí biên chế, công việc đúng chuyên môn, sở trường để rồi người được đào tạo xong trở về chưa nhận được nhiệm vụ, có tâm lý bất mãn, rời bỏ khu vực nhà nước để đi làm bên ngoài. Hàng năm, Sở Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn chưa xem x t đánh giá, điều chỉnh, bổ sung kịp thời danh sách CCTT được quy hoạch, chưa thực hiện rà soát thường xuyên đưa vào quy hoạch những người có đủ tiêu chuẩn và đưa ra khỏi danh sách quy hoạch những công chức không đủ tiêu chuẩn. Quy hoạch chưa gắn với thực trạng đội ngũ CCTT và nhu cầu thực tế nên hiệu quả không cao. CCTT sau khi được đưa vào diện quy hoạch chưa được cấp ủy, cơ quan thực sự quan tâm giúp đỡ, đào tạo và bảo vệ khi có những thông tin sai lạc do tính phức tạp của cuộc sống. - Công tác quản lý, kiểm tra, giám sát công chức 53 Qua kết quả khảo sát Bảng 15 cho thấy 76,60% công chức trong cơ quan đánh giá về công tác quản lý, kiểm tra giám sát công chức “thường xuyên và chặt chẽ ”; 21,27% ý kiến công chức được khảo sát cho rằng công tác quản lý, kiểm tra, giám sát công chức “không thường xuyên và không chặt chẽ ” và 5,25% có ý kiến khác về nội dung đánh giá này. Thực tế cho thấy, việc thanh tra, kiểm tra công vụ. kiểm tra việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng NDCM Lào, pháp luật của Nhà nước CHDCND Lào của Sở Thanh tra chưa được thực hiện một cách thường xuyên, còn thiếu nghiêm túc và có sự nể nang; quy chế làm việc chưa được mọi người tôn trọng: hiện tượng đi trễ, về sớm, làm việc riêng, bỏ ra ngoài trong giờ làm việc, không chấp hành nội quy, quy chế cơ quan, quy định về quyền và nghĩa vụ công chức vẫn còn tồn tại. Do sự lỏng lẻo trong quản lý đối với quá trình thực thi công vụ, quy chế, nội quy cơ quan, chế độ trách nhiệm dẫn đến thái độ, ý thức phục vụ nhân dân, ý thức tổ chức kỷ luật của CCTT còn hạn chế làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả công chức thanh tra ở Thủ đô Viêng Chăn. Công tác đánh giá, khen thưởng, kỷ luật công chức Công tác đánh giá khen thưởng, kỷ luật công chức trong ngành Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn được chính đội ngũ công chức đánh giá qua số liệu minh họa trong bảng dưới đây. Bảng 16. Khảo sát đánh giá của công chức về công tác đánh giá, khen thưởng, kỷ luật tại Thanh t a Thủ đô Viêng Chăn STT Nội dung Số phiếu Tỷ lệ (%) 1 Công tác khen thưởng, kỷ luật đảm bảo tính chính xác, khách quan, công tâm, đúng quy định 31 79,17 2 Công tác khen thưởng, kỷ luật chưa đảm bảo tính chính xác, khách quan, công tâm, đúng quy định 14 29,78 3 Ý kiến khác 2 5,25 Qua khảo sát tại Bảng 16 cho thấy 79,17 % CCTT đánh giá về công tác khen thưởng, kỷ luật đối với công chức đảm bảo tính chính xác, khách quan, công tâm, đúng quy định còn 54 29,78% là “chưa đảm bảo tín chính xác, khách quan, công tâm, đúng quy định” và có 5,25% có ý kiến khác Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn đã có sự chuyển biến tích cực nhưng vẫn còn một số hạn chế như sau: Các tiêu chí, nội dung đánh giá CCTT chưa rõ ràng, cụ thể cho từng đối tượng, mang nặng sự định tính, tập trung nhiều vào các nội dung chính trị tư tưởng mà ít căn cứ vào kết quả công việc cụ thể. Vì thế khi đánh giá dễ chung chung, bình quân, ai cũng tốt như nhau, khó chỉ ra được những thực chất, những điểm yều cần khắc phục, cũng như những điểm mạnh cần phát huy. Mọi người thường cho rằng có đánh giá hàng năm hay không cũng như thế; một số người tỏ thái độ bất cần với vấn đề này, dẫn đến không chú trọng kết quả công tác mà quan tâm đến việc lôi k o, tạo mối quan hệ thân quen với cấp trên. Do không có đánh giá hàng ngày nên khó có thể phát hiện kịp thời các vấn đề để giải quyết, điều chỉnh mà từ đó cũng khó có đánh giá chính xác khi thực hiện vào cuối năm. Việc đánh giá cuối năm thường được ước lệ. Các con số thực hiện công việc có được các cá nhân ghi ra nhưng cũng sẽ chỉ là đại khái, thiếu phần đánh giá về chất lượng công việc. Trong đánh giá công chức có sự đóng góp ý kiến, bỏ phiếu kín đánh giá nhận x t công chức của đồng nghiệp cơ quan nhưng chỉ giới hạn trong cơ quan nên có sự dĩ hòa vi quý trong đánh giá đồng nghiệp với nhau, việc đánh giá công chức trở nên chung chung. Tình trạng phổ biến trong các cơ quan hiện nay là nếu công chức không vi phạm kỉ luật trong năm công tác thì đều được xếp loại ít nhất là từ mức hoàn thành công việc. Việc lấy ý kiến đánh giá của tập thể mang tính hình thức và hệ quả tất yếu là kết quả đánh giá khổng phản ánh đúng hiệu quả làm việc thực tế của từng công chức. Từ đó, không ít CCTT trở nên chây vì không có động lực làm việc vì dù họ không phấn đấu thi cuối năm cũng vẫn được xếp loại tiên tiến. Đặc biệt đối với người thủ trưởng đơn vị do cơ chế bỏ phiếu tín nhiệm cán bộ khi bổ nhiệm nên cũng không dám th ng thắn để đánh giá công chức dưới quyền. Vì vậy, có thể nói việc đánh giá công chức nhìn chung vẫn mang tính hình thức, thiếu toàn diện, chưa thực sự căn cứ vào quá trình công tác, hiệu quả công việc, năng lực thực tiễn, năng lực chuyên môn, đạo đức, phẩm chất và bản lĩnh chính trị ảnh hưởng rất lớn đối với chất lượng đội ngũ CCTT Thủ đô Viêng Chăn. 55 Trên thực tế, sự ghi nhận, tôn vinh những thành tích thể hiện năng lực và sự tận tâm của CCTT trong công việc thể hiện qua hình thức khen thưởng còn mang nặng tính hình thức bởi các tiêu chí thường không cụ thể, rõ rang. Việc bình bầu các danh hiệu thường mang tính cảm tính, cà nể, bình quân chủ nghĩa. Do đó, cách ghi nhận này không đóng góp gì nhiều vào thúc đẩy động lực làm việc cho CCTT. Việc khen thưởng trong cơ quan vẫn còn phiến diện chủ yếu là khen lãnh đạo còn công chức thì ít được khen. Việc phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến hiệu quả chưa cao; biện pháp tuyên truyển thiếu đồng bộ làm hạn chế động lực phấn đấu của tập thể và cá nhân. Mặt khác là do tỷ lệ khen thưởng thường bị khống chế nên khi sơ, tổng kết hầu như chỉ có các lãnh đạo đơn vị liên tục nhận chiến sỹ thi đua cơ sơ, bằng khen của cấp trên, còn chuyên viên thường rất ít. Việc xử lý kỷ luật CCTT còn thực hiện chưa nghiêm, chưa tạo tính răn đe, làm gương đối với công chức. Việc phát hiện hành vi sai phạm của công chức còn chậm, có những trường hợp khi bị phát hiện thì đã hết thời hiệu xử lý kỷ luật theo quy định. Nguyên nhân, là do bộ phận làm công tác đánh giá, kiểm tra hiện nay còn non yếu, lỏng lẻo, chưa kịp thời phát hiện hành vi vi phạm của công chức để xử lý. Chế độ tiền lương, thu nhập và chính sách đãi ngộ đối với công chức Hiện nay, chính sách tiền lương vẫn còn bất cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất chưa theo kịp yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ CC trong giai đoạn mới. Qua kết quả khảo sát tại Bảng 17 cho thấy 72,34 % CCTT Thủ đô Viêng Chăn cho rằng tiền lương và thu nhập được hưởng “còn thấp, chưa tương xứng với công sức đã bỏ ra, chính sách đãi ngộ chưa thỏa đáng, chưa phản ánh đúng năng lực và kết quả công tác”. Chế độ, chính sách chưa đủ khuyến khích được người tài, người năng động, sáng tạo làm việc có hiệu quả. Chính sách tiền lương chậm được cải tiến nên việc thu hút khuyến khích đội ngũ công chức làm việc, CCTT gặp rất nhiều khó khăn. 56 Bảng 17. Khảo sát đánh giá của CCTT Thủ đô Viêng Chăn về chế độ tiền lương, thu nhập và chính sách đãi ngộ đối với CCTT STT Nội dung Số phiếu Tỷ lệ % 1 Đánh giá chế độ tiền lương, thu nhập và chính sách đãi ngộ đối với công chức 47 Tiền lương và thu nhập được hưởng tương xứng với công sức đã bỏ ra, chính sách đãi ngộ thỏa đáng, phản ánh đúng năng lực và kết quả công tác. 13 27,66 Tiền lương và thu nhập được hưởng còn thấp, chưa thỏa đáng, chưa phản ánh đúng năng lực và kết quả công tác. 34 72,34 Không có ý kiến 0 0 2 Hài l ng với thu nhập hiện nay của mình hay không 47 Hài lòng với thu nhập hiện tại 10 21,28 Chưa hài lòng với thu nhập hiện tại 37 78,72 Không có ý kiến 0 0 Ngu n : Số liệu điều t a và tính toán của học viên Chế độ tiền lương chưa tương xứng với nhiệm vụ, với cống hiến của CCTT, để công chức yên tâm, chuyên cần với công việc ở vị trí công tác của mình. Thực tế tiền lương của CCTT hiện nay không phản ánh đúng giá trị lao động của họ. Có 78,72% CCTT Thủ đô Viêng Chăn “ chưa hài lòng với thu nhập hiện tại”. Các chính sách về nâng ngạch, nângbậc lương còn nặng về thâm niên, chưa phản ánh được chất lượng và hiệu quả thực sự hoạt động của công chức. 57 Do đó, nhà nước cần chú ý đến chính sách tiền lương nhằm tạo động lực cho công chức và tăng hiệu quả công tác, hạnh chế tệ nạn nhũng nhiểu, quan liêu, cửa quyền xuất hiện trong cơ quan hành chính nhà nước. Về đào tạo, bồi dư ng công chức Bảng 18. Khảo sát đánh giá của CCTT về đào tạo, bồi dư ng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà nước và kiến thức khác STT Chỉ tiêu Ý kiến đánh giá Rất ít tác động Ít tác động Tác động vừa Tác động Rất tác động SL % SL % SL % SL % SL % 1 Hoàn thành công việc tốt hơn 4 8,51 7 14,89 8 17,02 11 23,40 17 6,17 2 Tự tin hơn trong công việc 3 6,38 11 23,40 11 23,40 9 19,15 13 7,66 3 Hiểu và nắm vững pháp luật 2 42,6 6 12,77 9 19,15 16 34,04 14 9,79 4 Nhận thức đúng về nghề nghiệp 5 10,64 7 14,89 7 14,89 12 25,53 16 4,04 Ngu n : Số liệu điều t a và tính toán của học viên Qua bảng 18 có thể thấy, đại bộ phận CCTT Thủ đô Viêng Chăn đều cho rằng sự tác động của việc được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức đến hiệu quả công việc là rất lớn nên có cái nhìn khá tích cực. Thực tế cũng cho thấy rằng, bất kỳ công chức ở cấp nào cũng vậy nếu được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, một cách khoa học, bài bản và nghiêm túc thì năng suất, lao động cũng như hiệu quả công việc đem lại cũng sẽ cao hơn. 58 Theo số liệu, cả bốn yếu tố đều có tác động trực tiếp đến công việc hàng ngày của CCTT nên được họ đánh giá về mức độ “tác động” và “rất tác động” với tỷ lệ khá cao. Đặc biệt, việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức đã giúp cho CCTT hoàn thành công việc tốt hơn được đa số CCTT được khảo sát đánh giá cao nhất với gần 36,17% ý kiến đồng ý. Việc này cũng đã giúp cho CCTT hiểu biết, nắm vững và cập nhật được các văn bản, giấy tờ liên quan đến pháp luật nói chung và của ngành Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn nói riêng để có thể thực thi công việc được chính xác và nhanh chóng hơn. Như vậy, qua kết quả khảo sát cho thấy rằng đại bộ phận công chức trong ngànhThanh tra Thủ đô Viêng Chăn đều đánh giá rất cao về tầm quan trọng của việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức quản lý nhà nước cũng như một số kiến thức bổ trợ khác (ngoại ngữ, tin học, kỹ năng mềm) đối với hiệu quả công việc. Từ đó họ luôn luôn có nhu cầu được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất chính trị Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, quản lý nhà nước và kiến thức bổ trợ khác (ngoại ngữ, tin học) cho CCTT là vấn đề hết sức quan trọng trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ CCTT. Phần lớn CCTT nhận định rằng trong công việc, ngoài kinh nghiệm cá nhân thì việc cập nhật lý thuyết chuyên môn nghiệp vụ là hết sức quan trọng và cần thiết, là nền tảng hỗ trợ và bổ sung cho kinh nghiệm, nếu thiếu nó thì rất khó hoàn thành tốt nhiệm vụ. Do vậy, công chức cần phải thường xuyên được học tập bồi dưỡng nâng cao kiến thức. Điều kiện và môi t ường làm việc của công chức thanh tra Ngày nay, môi trường làm việc có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến năng suất lao động cũng như động lực làm việc của đội ngũ CCTT. Bảng 19. Khảo sát đánh giá của CCTT về điều kiện và môi t ường làm việc của công chức Thanh t a Thủ đô Viêng Chăn STT Nội dung Số phiếu Tỷ lệ % 59 1 Phương tiện làm việc được trang bị đầy đủ; môi trường làm việc thoải mái, thân thiện, được lãnh đạo quan tâm, động viên, khích lệ. 31 65,96 2 Phương tiện làm việc không được trang bị đầy đủ; môi trường làm việc không thoải mái, lãnh đạo thiếu sự quan tâm, động viên, khích lệ. 16 34,04 3 Không có ý kiến 0 0 Ngu n : Số liệu điều t a và tính toán của học viên Thực tế cho thấy, môi trường làm việc của CCTT Thủ đô Viêng Chăn hiện nay vẫn chưa thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến, sự tích cực làm việc của mỗi công chức. Điều kiện cơ sơ vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu làm việc của CCTT như: diện tích làm việc chật, hẹp, không thông thoáng; trang thiết bị máy mọc cũ kỹ, lỗi thời; việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình công tác chưa được thực hiện đồng bộ do hệ thống hạ tầng mạng còn yếu và trình độ tin học của CCTT còn hạn chế gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng và hiệu quả công tác của CCTT. Qua kết quả khảo sát tại Bảng 19 cho thấy 65,69% công chức Thanh tra Thủ đô Viêng Chăn cho rằng điều kiện và môi trường làm việc của công chức “được trang bị đầy đủ; môi trường làm việc thoải mái, thân thiện, được lãnh đạo quan tâm, động viên, khích lệ” và 21,42% công chức cho là môi trường làm việc của công chức “không được trang bị đầy đủ;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_chat_luong_cong_chuc_thanh_tra_thu_do_vieng_chan_nu.pdf
Tài liệu liên quan