MỤC LỤC
MỞ ĐẦU . 1
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 9
5. Phương pháp nghiên cứu. 10
6. Đóng góp của đề tài. 10
6.1 Về mặt khoa học. 10
6.2. Về mặt thực tiễn. 11
7. Kết cấu luận văn:. 11
Chương 1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH CỦA
HÀN QUỐC ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC KỂ TỪ NĂM 2000. 12
1.1 KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI TRUNG
QUỐC TRƯỚC NĂM 2000 . 12
1.1.1 Giai đoạn trước khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
1992. 12
1.1.2 Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000. 14
1.2 BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC BƯỚC VÀO THẾ KỶ XXI . 17
1.2.1 Bối cảnh quốc tế. 17
1.2.2 Bối cảnh khu vực. 19
1.2.3. Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc. 22
1.2.4 Điều chỉnh chính sách của Trung Quốc chi phối tới quan hệ hai nước. 27
1.3 BỐI CẢNH BÊN TRONG. 29
1.3.1. Tình hình Hàn Quốc kể từ năm 2000. 29
1.3.2. Định hướng điều chỉnh chính sách trong quan hệ với Trung Quốc. 31
Chương 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI
VỚI TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2016 . 352.1 CHÍNH SÁCH TRÊN LĨNH VỰC CHÍNH TRỊ . 35
2.1.1 Xây dựng mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc. 35
2.2.2 Thực hiện chính sách "cân bằng" với Trung Quốc nhằm giảm bớt sự lệ
thuộc vào Mỹ . 45
2.1.3 Tìm kiếm sự ủng hộ của Trung Quốc trong tiến trình phi hạt nhân hóa
và cải thiện quan hệ giữa hai miền Triều Tiên . 49
2.2 CHÍNH SÁCH TRÊN LĨNH VỰC KINH TẾ. 53
2.3 CHÍNH SÁCH TRÊN LĨNH VỰC QUỐC PHÒNG - AN NINH . 66
Chương 3. MỘT VÀI ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT VÀ GỢI Ý CHÍNH
SÁCH CHO VIỆT NAM . 73
3.1 Một vài đánh giá, nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc đối với
Trung Quốc (2000 - 2016). 73
3.1.1 Một vài đánh giá, nhận xét. 73
3.1.2 Những thành công và hạn chế trong chính sách của Hàn Quốc đối
Trung Quốc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016. 76
KẾT LUẬN . 86
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 88
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách của Hàn Quốc đối với Trung Quốc từ năm 2000 đến năm 2016, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu, đây là đề tài nghiên cứu lịch sử nên
phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp giữa chúng được
sử dụng như dòng mạch chủ yếu. Bên cạnh đó, đề tài còn vận dụng linh
hoạt một số phương pháp khoa học liên ngành của các ngành Quan hệ
quốc tế, Quan hệ kinh tế quốc tế, Địa - Chính trị... như các phương pháp:
Phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê, dự báo khoa học khi đi
sâu nghiên cứu từng nội dung cụ thể nhằm nhìn nhận và đánh giá vấn đề
một cách xác thực.
6. Đóng góp của đề tài
6.1 Về mặt khoa học
- Luận án là công trình khoa học ở Việt Nam có tính cập nhật một cách
chi tiết về chính sách của Hàn Quốc với Trung Quốc từ năm 2000 đến 2016,
góp phần khỏa lấp khoảng trống trong các nghiên cứu về chính sách đối ngoại
của Hàn Quốc thời hiện đại.
- Từ việc phân tích cơ sở, mục tiêu, biện pháp triển khai thực thi, luận án đã
rút ra một số nhận xét về chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong giai đoạn này
(đặc biệt là những thành công đạt được và hạn chế cơ bản của các chính sách).
11
- Nhận biết sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Hàn Quốc trong việc
xích lại gần hơn với Trung Quốc để cân bằng với Mỹ từ những năm đầu của
thế kỷ XXI. Trên cơ sở đó, xác định một số vấn đề đặt ra cho Hàn Quốc và
liên hệ đối với Việt Nam trong lĩnh vực quan hệ quốc tế.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu và giảng
dạy cho sinh viên và học viên cao học các chuyên ngành: Lịch sử thế giới,
Quan hệ quốc tế, Quốc tế học, Đông phương học và những ai quan tâm đến
vấn đề này.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài luận án (ở một mức độ nhất định) có thể
cung cấp thêm những thông tin hữu ích cho các nhà nghiên cứu, các nhà
hoạch định chính sách của Việt Nam trong lĩnh vực đối ngoại. Từ đó, tiếp tục
củng cố và tăng cường quan hệ giữa Việt Nam với cả Hàn Quốc và Trung
Quốc là những đối tác chiến lược quan trọng của Việt Nam
7. Kết cấu luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương chính:
Chương 1: Những yếu tố tác động tới chính sách của Hàn Quốc đối với
Trung Quốc kể từ năm 2000. Chương này phân tích những điều kiện khách
quan và chủ quan tác động tới việc hoạch định chính sách của Hàn Quốc đối với
Trung Quốc kể từ sau năm 2000.
Chương 2: Một số nội dung chính sách của Hàn Quốc đối với Trung
Quốc giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2016. Chương này đi sâu phân tích
những nội dung chính sách chủ yếu của Hàn Quốc đối với Trung Quốc trên các
mặt chính trị - đối ngoại, kinh tế và quốc phòng - an ninh giai đoạn từ năm 2000
đến năm 2016.
12
Chương 3: Một vài đánh giá, nhận xét và gợi ý chính sách cho Việt
Nam. Chương này đưa ra những đánh giá và nhận xét về chính sách của Hàn
Quốc đối với Trung Quốc trong 15 năm qua và nêu một số gợi ý chính sách cho
Việt Nam.
Chương 1
NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC
ĐỐI VỚI TRUNG QUỐC KỂ TỪ NĂM 2000
1.1 KHÁI QUÁT CHÍNH SÁCH CỦA HÀN QUỐC ĐỐI VỚI
TRUNG QUỐC TRƯỚC NĂM 2000
1.1.1 Giai đoạn trước khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại
giao 1992
Hàn Quốc và Trung Quốc là hai quốc gia láng giềng với nhau nằm ở khu
vực Đông Bắc Á, rất gần gũi về mặt địa lý, giữa hai nước có nhiều điểm
tương đồng về lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán... Cũng giống như Việt
Nam, trong suốt chiều dài lịch sử, bán đảo Triều Tiên phải chịu sự đô hộ xâm
lược và áp đặt ách thống trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc, do vậy
bán đảo Triều Tiên nói chung và Hàn Quốc ngày nay nói riêng chịu ảnh
hưởng sâu sắc của nền văn hóa Trung Hoa, trong đó có các tư tưởng triết học
Trung Quốc.
Trong cuộc chiến tranh Triều Tiên (1950 – 1953), Trung Quốc đã đưa
Chí nguyện quân sang chi viện cho Triều Tiên chống lại lực lượng liên quân
do Mỹ hỗ trợ, đẩy liên quân sâu hơn về phía Nam vĩ tuyến 38, dẫn đến chia
cắt lâu dài bán đảo Triều Tiên cho đến ngày nay. Sau cuộc chiến tranh Triều
Tiên, Trung Quốc cùng với Liên Xô đã hỗ trợ về kinh tế, chính trị, quân sự ...
cho Triều Tiên để đối phó với Hàn Quốc dưới sự bảo trợ của Mỹ. Xuất phát
từ bối cảnh quốc tế và đối đầu căng thẳng ý thức hệ, nên trong giai đoạn đầu
13
của cuộc Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai nước là mối quan hệ đối đầu, thù
địch. Hàn Quốc coi Trung Quốc là mối đe dọa an ninh của mình vì Trung
Quốc ủng hộ Triều Tiên, viện trợ cho chế độ chính trị của Triều Tiên, lấy
Triều Tiên làm lực lượng đối trọng lại với Mỹ, Hàn Quốc và Nhật Bản.
Giai đoạn từ giữa những năm 1970 đến khi Chiến tranh lạnh kết thúc,
Hàn Quốc điều chỉnh chính sách đối ngoại, chuyển từ quan hệ đối đầu và thù
địch với Trung Quốc sang hòa hoãn và hợp tác. Vào những năm 70 và 80 của
thế kỷ XX, mặc dù vẫn coi nhau là kẻ thù, nhưng quan hệ hai nước đã dần đi
vào hòa hoãn. Hai nước đã bắt đầu đi vào xây dựng các quan hệ khác tách rời
với chính trị. Ngày 05/3/1983, một chiếc máy bay hàng không dân dụng của
Trung Quốc trên hành trình bay từ Tứ Xuyên về Thượng Hải đã bị không tặc
khống chế phải hạ cánh xuống sân bay Hàn Quốc, dẫn tới những cuộc tiếp
xúc đầu tiên giữa quan chức hai nước để bàn thảo giải quyết. Năm 1986, cùng
với việc tổ chức Đại hội thể thao châu Á (Asiad) lần thứ 10 và Thế vận hội
Olympic mùa hè năm 1988, Hàn Quốc đã thực hiện điều chỉnh mạnh mẽ
chính sách ngoại giao của mình trong quan hệ với các nước, không phân biệt
thể chế chính trị; năm 1990, Trung Quốc cũng tổ chức Đại hội thể thao châu
Á lần thứ 11, phía Hàn Quốc coi đây là thời cơ quan trọng để thúc đẩy quan
hệ với Trung Quốc. Phía Hàn Quốc đã cử đoàn vận động viên thể thao hơn
700 người tham gia thi tài ở các nội dung của đại hội; các doanh nghiệp Hàn
Quốc đã chi tới hơn 5 triệu USD cho chi phí quảng cáo trong thời gian diễn ra
đại hội; các tập đoàn xe hơi của Hàn Quốc đã tài trợ cho ban tổ chức khoảng
100 chiếc xe hơi để phục vụ cho các hoạt động đi lại, trong trong thời gian
diễn ra đại hội có tới 4000 lượt du khách Hàn Quốc tới thăm Trung Quốc. Để
đáp lại thái độ thiện chí của phía Hàn Quốc, khi tổ chức các nghi thức chào cờ
nhận huy chương của các vận động viên Hàn Quốc, phía Trung Quốc sử dụng
từ "Đại Hàn dân quốc bằng tiếng Anh". Sau khi Hàn Quốc thiết lập văn
14
phòng đại diện thương mại tại thủ đô Bắc Kinh của Trung Quốc (01/1991) và
Hiệp hội Hoa thương của Trung Quốc thiết lập văn phòng đại diện tại thủ đô
Xơ-un (4/1991), Hàn Quốc đã đẩy mạnh điều chỉnh chính sách đối ngoại, chủ
động thúc đẩy trao đổi giao lưu văn hóa, trao đổi thương mại với Trung Quốc
từ nước thứ 3 sang trao đổi buôn bán trực tiếp. Hai nước tiến tới thiết lập quan
hệ ngoại giao chính thức.
1.1.2 Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2000
Sau khi hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao, Hàn Quốc điều
chỉnh chính sách đối ngoại, cải thiện quan hệ với các nước lớn, nhằm tìm
kiếm lợi ích chiến lược, trong đó có Trung Quốc. Tháng 01/1991, Hội đồng
Bảo an Liên Hợp Quốc đã chính thức công nhận sự tồn tại song song của hai
nhà nước độc lập trong thời kỳ quá độ đi đến thống nhất, đó là Hàn Quốc và
Triều Tiên ngày nay. Ngày 24/8/1992, Chính phủ Đại Hàn dân quốc chính
thức thừa nhận "trên thế giới chỉ có một nước Trung Quốc, Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa là chính phủ hợp pháp duy nhất của Trung Quốc" đồng thời
chấm dứt quan hệ chính thức về mặt ngoại giao với Đài Loan đã kéo dài sau
43 năm, và cùng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thiết lập quan hệ ngoại
giao chính thức. Việc Hàn Quốc tuyên bố chấm dứt quan hệ ngoại giao với
Đài Loan, công nhận Đài Loan là một phần lãnh thổ của Trung Quốc, chính là
nhân tố quan trọng để Trung Quốc đồng ý thiết lập quan hệ ngoại giao với
Hàn Quốc.
Từ ngày 27 đến 30/9/1992, chỉ sau hơn một tháng thiết lập quan hệ ngoại
giao, Tổng thống Hàn Quốc Rô Tê U đã có chuyến thăm chính thức đầu tiên
cấp nhà nước tới Trung Quốc, mở ra một thời kỳ lịch sử phát triển quan hệ
rực rỡ giữa hai nước. Trong chuyến thăm này, hai bên đã ký các Hiệp định
mậu dịch, bảo hộ và đầu tư giữa hai chính phủ, thảo luận thẳng thắn các vấn
15
đề hai nước cùng quan tâm, cũng như xác định phương hướng phát triển quan
hệ hai nước trên tinh thần khép lại quá khứ, hướng tới tương lai.
Có thể nói, việc Hàn Quốc điều chỉnh chính sách theo hướng xích lại
gần hơn với Trung Quốc, hay Hàn Quốc chủ động thúc đẩy quan hệ với
Trung Quốc là hoàn toàn phù hợp với xu hướng trong quan hệ quốc tế thời
kỳ sau Chiến tranh lạnh đang diễn ra mạnh mẽ. Về phía Hàn Quốc, giới
chức lãnh đạo Xơ-un thấy được sức hấp dẫn từ thị trường gần 1,3 tỷ dân,
trong bối cảnh Trung Quốc là quốc gia đang phát triển, công cuộc cải cách
kinh tế đang được chính phủ đẩy mạnh, cần rất nhiều vốn, công nghệ, kỹ
thuật, kinh nghiệm quản lý hiện đại nhưng phải chịu chính sách bao vây cô
lập của Mỹ và các nước phương Tây sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989.
Cũng cần nói thêm rằng, bản thân Trung Quốc giai đoạn này đang rất muốn
phát triển quan hệ với các nước phát triển, nhất là Hàn Quốc, một quốc gia
đồng minh của Mỹ, để giảm bớt sức ép, cô lập ngoại giao từ bên ngoài1.
Giai đoạn 1994 - 1998, Tổng thống Kim Dâng Sam lên nắm quyền đã
thực hiện những cải cách mạnh mẽ về chính trị, đề cao giá trị tự do dân chủ
trong xã hội Hàn Quốc theo mô hình phát triển của các nước như Mỹ và
phương Tây. Về kinh tế, những thành tựu đã đạt được từ "Kỳ tích sông Hàn"
trong giai đoạn những năm 70 và 80 đã đưa Hàn Quốc trở thành một nước
công nghiệp với nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế phát triển mạnh, đặc biệt là sự
nổi lên của các tập đoàn công nghiệp lớn như Hyundai, Sam Sung, LG,
Daewoo... Trong khi đó, vấn đề dân số lão hóa dẫn tới thiếu hụt nguồn lao
động và chi phí thuê lao động trong nước của Hàn Quốc ở giai đoạn này bắt
đầu ngày càng có xu hướng lên cao... khiến giới đầu tư của Hàn Quốc bắt đầu
tìm kiếm các thị trường ở các nước trong khu vực để gia công sản xuất nhằm
1
Hoàng Minh Hằng, "Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc kể từ khi bình thường hóa quan hệ", Tạp chí nghiên
cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á số 5 (59), 10/2005, trang 74.
16
giảm bớt giá thành sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa trên
trường quốc tế. Về đối ngoại, trên cơ sở lợi ích chính trị và kinh tế từ những
năm đầu thiết lập quan hệ ngoại giao đưa lại cho Hàn Quốc, chính phủ của
Tổng thống Kim Dâng Sam tiếp tục chính sách coi Trung Quốc là đối tác,
củng cố và phát triển các mối quan hệ tốt đẹp với Trung Quốc. Phân tích từ
góc độ chính trị có thể tạo dựng ảnh hưởng sâu hơn vai trò của Hàn Quốc ở
châu Á, đây cũng cho thấy sự khác biệt về nhận thức giữa Hàn Quốc và Nhật
Bản. Từ góc độ của các nhà đầu tư, các nhà đầu tư vừa và nhỏ, các ngành chế
tạo Hàn Quốc coi thị trường Trung Quốc hấp dẫn là vì giá thuê nhân công lao
động tương đối thấp và sự hấp dẫn từ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài
của chính phủ Trung Quốc lúc bấy giờ.
Khi hai nước bước sang thế kỷ XXI với hành trang là "Tuyên bố chung
Hàn – Trung" được đưa ra năm 1998, trong chuyến thăm Trung Quốc của
Tổng thống Hàn Quốc Kim Tê-chung. Bản Tuyên bố nêu rõ: (1) "Xây dựng
mối quan hệ hợp tác Trung – Hàn hướng tới thế kỷ XXI" nhằm mục đích
thiết lập quan hệ cho tương lai dựa trên nguyên tắc của "Hiến chương Liên
hợp quốc", tinh thần "Thông cáo chung về thiết lập quan hệ ngoại giao giữa
Đại Hàn Dân Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa" và quan hệ láng
giềng thân thiện, láng giềng hữu nghị, láng giềng hợp tác được tăng cường
giữa hai nước; (2) Tiếp tục theo đuổi đàm phán 4 bên, từng bước thiết lập
một cơ chế hòa bình lâu dài trên bán đảo Triều Tiên; (3) Mở rộng và tăng
cường trao đổi, thăm viếng giữa các nhà lãnh đạo, cơ quan Chính phủ, Quốc
hội và đảng phái chính trị của hai nước. Hàn Quốc coi việc tăng cường tiếp
xúc trao đổi với Trung Quốc để hai bên có thể thấy rõ được lập trường của
nhau đối với những vấn đề mang lại lợi ích cho hai nước và cho hòa bình, ổn
định và hợp tác khu vực2.
2
"Tuyên bố chung Hàn Quốc – Trung Quốc", Tài liệu tham khảo đặc biệt, số ra ngày 17/11/1998.
17
1.2 BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ KHU VỰC BƯỚC VÀO THẾ KỶ XXI
1.2.1 Bối cảnh quốc tế
Bước vào thế kỷ XXI, về cơ bản hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn
là xu hướng chính của thế giới. Tuy nhiên, thế giới đứng trước những bất
ổn mới, tiềm ẩn nhiều nguy cơ và thách thức an ninh đe dọa hòa bình, ổn
định và phát triển.
Mở đầu là sự kiện khủng bố 11/9 ở Mỹ dẫn tới việc Mỹ triển khai các
hoạt động chống khủng bố trên toàn cầu, trong đó có việc Mỹ phát động
cuộc chiến tranh tại Afghanistan và Iraq để tiêu diệt tận gốc cái gọi là "căn
cứ địa" của chủ nghĩa khủng bố quốc tế. Hoạt động chống khủng bố của Mỹ
đã tác động mạnh mẽ tới đời sống chính trị trên toàn cầu. Việc Mỹ và các
nước phương Tây sử dụng cuộc "cách mạng màu" lợi dụng vấn đề dân chủ,
nhân quyền để kích động, chia rẽ nội bộ tìm cách lật đổ một số chính phủ
cầm quyền không phù hợp với "lợi ích của Mỹ", gây bất ổn tại một số quốc
gia thuộc Liên Xô cũ ("Cách mạng Hoa Hồng" tại Gruzia năm 2003; "Cách
mạng Cam" tại Ukraine năm 2004; "Cách mạng Hoa Tulip" tại Kyrgyzstan
năm 2005 và "Mùa xuân A-rập" tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi những
năm 2011 dẫn đến những sụp đổ của chính phủ đương nhiệm (tại Ai-cập,
Libia, Tunisia...) hoặc hỗ trợ cho lực lượng đối lập tại Xirya để lật đổ chính
quyền của Tổng thống Assat, đặc biệt bất ổn những năm gần đây liên quan
đến cuộc khủng hoảng và nội chiến tại U-crai-na; sự mở rộng của "Tổ chức
nhà nước Hồi giáo tự xưng" (IS) và hoạt động chống lại lực lượng này do
Mỹ đứng đầu; căng thẳng tranh tranh chấp chủ quyền lãnh thổ tại biển Hoa
Đông và Biển Đông... Ngoài ra, các vấn đề an ninh phi truyền thống như
thiên tai, dịch Ê-bô-la, cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia khác diễn biến
phức tạp, tác động mạnh mẽ tới hòa bình, an ninh thế giới. Trong đó có vấn
đề IS, nhất là vấn đề U-crai-na có nguy cơ gây khủng hoảng trên toàn cầu,
18
thậm chí có thể dẫn tới đối đầu quân sự Đông – Tây nếu một trong các bên
mắc sai lầm.
Nền kinh tế thế giới phải đối mặt với nhiều thách thức đó là cuộc khủng
hoảng tài chính ngân hàng xuất phát từ Mỹ năm 2008, cuộc khủng hoảng nợ
công tại châu Âu năm 2011... đã tác động không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng
nền kinh tế toàn cầu. Những năm gần đây, các nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật
Bản, các nước EU... tuy đã tăng trưởng trở lại nhưng còn thiếu tính bền vững,
trong khi đó nền kinh tế Trung Quốc sau một thời gian dài tăng trưởng nhanh
đã có dấu hiệu bão hòa, giảm tốc độ: Năm 2014, tăng trưởng kinh tế thế giới
chỉ đạt khoảng 2,8%, Mỹ chỉ khoảng 1,7%, Trung Quốc 7,4%, Nga 0,7%...;3
tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2015 vẫn ở trạng thái chậm, trong đó,
nguyên nhân là do những bất ổn về chính trị tại khu vực Trung Đông, châu
Phi, U-crai-na; việc Mỹ chấm dứt gói nới lỏng định lượng QE3, EU phá giá
đồng Euro, kinh tế Trung Quốc giảm tốc, giá dầu thế giới giảm mạnh kéo
theo những nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu dầu mỏ như Nga, Venezuela,
Iran, Arập-xê-út.... phải đối mặt với nhiều thách thức, tiêu dùng thế giới
giảm... làm cho tiến trình phục hồi kinh tế thế giới tiếp tục chậm và đứng
trước nhiều thách thức.
Quan hệ giữa các nước lớn có những chuyển biến lớn từ đối đầu hoặc
liên minh, hoặc liên kết với nước này chống lại nước kia chuyển sang vừa hợp
tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hòa bình, xây dựng các quan hệ đối tác mang
tính chiến lược, tăng cường đối thoại trong quan hệ quốc tế. Phát triển kinh tế
trở thành mối quan tâm hàng đầu trong chiến lược của mối quốc gia. Cạnh
tranh kinh tế ngày càng chiếm ưu thế so với chạy vũ trang, sức mạnh kinh tế
trở thành nhân tố quyết định của mỗi quốc gia. Cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ, toàn cầu hoá, khu vực hoá ngày càng diễn ra nhanh chóng và các
3
"Tổng quan về kinh tế thế giới năm 2015 và dự báo năm 2016" website:tapchicongsan.org, ngày
21/01/2016.
19
nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.... Tuy nhiên, những cuộc xung đột sắc
tộc tôn giáo vẫn diễn ra ở một số nơi trên thế giới tại Trung Đông, châu Phi
tạo nên những dòng người di cư sang châu Âu, châu Mỹ diễn ra rất lớn, trong
đó không ít những phần tử khủng bố lợi dụng làn sóng di cư để thâm nhập
vào các nước phương Tây tiến hành các vụ khủng bố gây nên những bất ổn về
mặt xã hội; Về quân sự, nhiều quốc gia trên thế giới tiếp tục đầu tư cho hiện
đại hóa quốc phòng và nâng cao sức mạnh quân sự để bảo vệ lợi ích quốc gia
chống lại các thách thức từ bên ngoài... Với việc các thách thức an ninh
truyền thống và phi truyền thống cùng song song tồn tại ở nhiều nơi trên thế
giới như buôn bán ma tuý, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia... không phải là
thách thức của mỗi quốc gia mà nó đòi hỏi phải có sự chung tay phối hợp
giữa các quốc gia để hợp tác cùng giải quyết.
1.2.2 Bối cảnh khu vực
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương bước sang thế kỷ XXI tiếp tục phát
triển năng động, trở thành động lực thúc đẩy kinh tế thế giới. Trong bối cảnh
các nước, các khu vực khác trên thế giới kinh tế suy giảm do tác động của
cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 và cuộc khủng hoảng nợ công ở
châu Âu năm 2011, châu Á – Thái Bình Dương nổi lên như một điểm sáng về
tăng trưởng kinh tế, trở thành đầu tàu vực dậy nền kinh tế thế giới. Trong đó,
các nền kinh tế lớn mới nổi tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá mạnh, luôn
dẫn đầu tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu.
Bên cạnh đó, Châu Á – Thái Bình Dương còn là thế giới thu nhỏ, là nơi
hội tụ đầy đủ thời cơ và thách thức mang tính toàn cầu, đó là hòa bình và
xung đột, hợp tác và cạnh tranh đan xen lẫn nhau. Mặc dù là khu vực tương
đối ổn định, hòa bình và hợp tác vẫn là xu hướng chủ đạo, nhưng do nhiều
nguyên nhân khác nhau, nơi đây vẫn còn một số điểm nóng ở khu vực (căng
thẳng trên bán đảo Triều Tiên, nguy cơ xung đột trên biển Hoa Đông, Biển
Đông...) với những diễn biến phức tạp, luôn tiềm ẩn những nguy cơ xung đột
20
vũ trang. Ngoài ra, châu Á - Thái Bình Dương cũng thường xuyên xảy ra các
cuộc khủng bố đẫm máu do các lực lượng Hồi giáo cực đoan tiến hành, nhất
là ở Trung Quốc (người Duy Ngô Nhĩ thực hiện các vụ khủng bố), Pakistan,
Afghanistan, Trung Á... Ngoài ra, trong khi là điểm sáng về hợp tác và hội
nhập với sự phát triển của các cơ chế hợp tác đa phương như Diễn dàn hợp
tác châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Đông Á (EAS), Diễn
đàn khu vực ASEAN (ARF) khu vực này cũng là trọng tâm của cạnh tranh,
giành giật ảnh hưởng giữa các nước lớn, nhất là giữa Trung Quốc và Mỹ, tạo
ra nguy cơ chia rẽ và phân hóa thành các nhóm quốc gia, thậm chí trong một
quốc gia còn xuất hiện "phe thân Mỹ" đối đầu với "phe thân Trung Quốc". Có
thể thấy, Mỹ đẩy nhanh chiến lược "xoay trục" sang châu Á - Thái Bình
Dương, thúc đẩy hình thành Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình
Dương (TPP), tăng cường quan hệ với các đồng minh, mở rộng sự hiện diện
quân sự ở khu vực nhằm gia tăng kiềm chế, ngăn chặn sự trỗi dậy của Trung
Quốc có thể đe dọa tới vị trí bá quyền của Mỹ. Trong khi đó, với sức mạnh
tổng hợp được tăng cường, Trung Quốc ngày càng quyết đoán hơn trong quan
hệ với Mỹ, đưa ra nhiều sáng kiến liên kết khu vực (một vành đai một con
đường; Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á, Hiệp định đối tác toàn diện
khu vực 'RCEP'...) để nâng cao vai trò trung tâm và chia rẽ quan hệ giữa Mỹ
với các nước đồng minh, nỗ lực phân chia quyền lực với Mỹ, tiến tới đẩy Mỹ
ra khỏi Tây Thái Bình Dương...; Không chỉ có vậy, châu Á – Thái Bình
Dương còn đứng trước nhiều thách thức, nguy cơ bất ổn ngày càng gia tăng
do các vấn đề tranh chấp chủ quyền lợi ích giữa các nước, nhất là giữa Trung
Quốc và Nhật Bản ở biển Hoa Đông, giữa Trung Quốc với một số nước
ASEAN ở Biển Đông,... dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang ở khu vực (các nước
gia tăng ngân sách quốc phòng, đầu tư mua sắm nhiều loại vũ khí trang bị
quân sự hiện đại) làm tiềm ẩn nhiều nguy cơ xung đột, đối đầu quân sự. Tất
21
cả những yếu tố trên đã và đang đe doạ đến hoà bình, ổn định và phát triển
của khu vực.
Riêng về tình hình khu vực Đông Bắc Á kể từ đầu thập niên 2000 có thể
thấy như sau: Mặc dù là nơi tập trung của nhiều cường quốc kinh tế (Nhật
Bản đứng thứ 3 thế giới về kinh tế và Hàn Quốc đứng thứ 12 trên thế giới,
còn Trung Quốc đứng thứ 2 thế giới về tổng lượng kinh tế) nhưng đến nay,
trên một bình diện tổng thể, chưa thấy một Đông Bắc Á thống nhất của một
khu vực kinh tế mạnh như các khu vực khác trên thế giới. Nguyên nhân của
tình trạng này là do chịu ảnh hưởng tiêu cực của nhân tố chính trị, những yếu
tố đặc thù liên quan đến lịch sử đó là việc giải quyết vấn đề "phụ nữ mua vui"
(nô lệ tình dục) cho binh lính Nhật trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ II;
mâu thuẫn vấn đề liên quan đến nội dung lịch sử được biên soạn lại sách giáo
khoa giữa Hàn Quốc và Nhật Bản; việc các quan chức chính phủ Nhật Bản
thường viếng thăm đền thờ tội phạm chiến tranh Yasukuni (nơi thờ cúng một
số binh sỹ Nhật tử trận trong Chiến tranh Thế giới thứ hai) gây nên những
phản ứng tiêu cực từ các nước Đông Bắc Á4.
Về kinh tế, Đông Bắc Á là khu vực kinh tế năng động và đóng vai trò to
lớn đối với ổn định và tăng trưởng của kinh tế châu Á và thế giới. Trao đổi
thương mại hàng năm giữa 3 nước Trung – Nhật – Hàn khoảng 7.000 tỷ
USD, chiếm tới khoảng 70% thương mại khu vực châu Á và hơn 20% thương
mại toàn cầu, trong đó trao đổi thương mại giữa Trung Quốc với Hàn Quốc
hơn 300 tỷ USD, giữa các nước này với khu vực ASEAN hàng năm đạt tới
gần 1.000 tỷ USD. Tuy nhiên những năm gần đây, do những vấn đề tồn tại,
việc hợp tác thúc đẩy Hiệp định thương mại tự do của khu vực Đông Bắc Á
gặp nhiều thách thức và rất ít đạt được những tiến triển5.
4
Ngô Xuân Bình, “Một số vấn đề chính trị nổi bật ở khu vực Đông Bắc Á giai đoạn 2011 -2020”, webside:
cks.inas.gov
5
Nguyễn Hòa, "Đông Bắc Á tay bắt chặt mà mặt chưa mừng", website:dantri.com.vn,8/12/2015
22
Về quốc phòng – an ninh, từ những năm cuối nhiệm kỳ cầm quyền của
Hồ Cẩm Đào và đặc biệt là kể từ khi Tập Cận Bình trở thành nhà lãnh đạo
cao nhất của Trung Quốc, sự trỗi dậy mạnh mẽ của chủ nghĩa dân tộc tại
Trung Quốc ngày càng rõ rệt thể hiện qua những tuyên bố cứng rắn của giới
tướng lĩnh quân sự trên các phương tiện truyền thông và những hành động
thực tế của Trung Quốc sau khi Nhật Bản quốc hữu hóa một số đảo thuộc
quần đảo Xen-ca-cư/Điếu Ngư (như thiết lập khu vực ADIZ, thường xuyên
đưa tàu Hải giám ra gần quần đảo Điếu Ngư/Xen-ca-cư). Thực thi các biện
pháp cứng rắn trong tranh chấp chủ quyền lãnh hải giữa Trung Quốc với một
số nước ASEAN tiếp tục diễn biến phức tạp, nguy cơ đối đầu quân sự giữa
các nước gia tăng sau khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào vùng đặc
quyền kinh tế Việt Nam (5/2014); ngăn chặn tàu vào tiếp tế và ngư dân
Philippin vào đánh cá tại bãi cạn Scarborrough; tiến hành bồi đắp và tôn tạo
các bãi đá ở quần đảo Trường Sa để biến nơi đây trở thành những căn cứ hậu
cận cho hải quân Trung Quốc trong tương lại; vấn đề chương trình hạt nhân
và tên lửa của Triều Tiên ngày càng diễn biến phức tạp với việc Triều Tiên
tiến hành các vụ thử hạt nhân và tên lửa gây quan ngại tới cho các nước
trong khu vực, đe dọa hòa bình, ổn định và hợp tác của khu vực và thế giới...
Bên cạnh đó, Mỹ thực hiện chiến lược "xoay trục", đẩy nhanh việc bố trí lực
lượng quân sự của mình ở khu vực, tăng cường và mở rộng hợp tác an ninh
trên nhiều lĩnh vực với các đồng minh truyền thống và các đối tác mới tại
khu vực Đông Á để xây dựng liên minh kiềm chế sự trỗi dậy của Trung
Quốc. Sự tranh giành ảnh hưởng giữa Trung Quốc và Mỹ một mặt nâng cao
vị trí vai trò của khu vực Đông Bắc Á trong chiến lược của các nước lớn,
nhưng đồng thời cũng làm cho tình hình chính trị an ninh khu vực này vốn
đã phức tạp lại càng phức tạp thêm.
1.2.3. Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc
23
Sau sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế
giới. Từ đầu thập kỷ 90 đến nay, mục tiêu của Mỹ là tiếp tục xây dựng một
nước Mỹ hùng cường, đảm bảo vai trò lãnh đạo thế giới và ngăn chặn không
cho bất kỳ một quốc gia, một thế lực nào nổi lên đe dọa vị trí bá quyền của
Mỹ. Kể từ năm 2001, sau khi lên nắm quyền, chính quyền Bush II đã thi hành
đường lối cứng rắn trong đó nhấn mạnh đến chủ nghĩa đơn phương hay còn
gọi là chủ nghĩa đa phương có lựa chọn: Rút khỏi nghị định thư Kyoto về môi
trường, thúc đẩy việc thực hiện chương trình phòng thủ tên lửa quốc gia
(NMD). Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa phát triển mạnh mẽ khiến sự
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng tăng, mỗi quốc gia không thể thực thi chính
sách đơn phương phớt lờ lợi ích của nước khác. Thực tế cho thấy, những tiêu
chuẩn do Mỹ mong muốn áp dụng tại tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã
gặp phải sự chống đối của các nước. Sau sự kiện khủng bố 11/9 ở Mỹ cho
thấy, Mỹ cần có sự hợp tác của các nước trong cuộc chiến chống khủng bố tại
một số khu vực trên t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004799_1_5633_2002890.pdf