MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.4
1. Lý do chọn đề tài.4
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .12
6. Những đóng góp của luận văn .13
NỘI DUNG.14
Chương 1. VAI TRÒ CỦA NHÂN TÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
XÃ HỘI .14
1.1 . Một số quan điểm về nhân tài trong lịch sử. 14
1.2. Đặc trưng, vai trò của nhân tài .21
1.2.1. Đặc trưng của nhân tài. 21
1.2.2. Vai trò của nhân tài. 24
1.2.3. Chính sách nhân tài. 26
1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc phát hiện, đào tạo, bồi
dưỡng, trọng dụng nhân tài . 29
Tiểu kết chương 1.33
Chương 2. THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VỚI CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI
TRONG NHỮNG NĂM QUA .
2.1. Khái quát về chính sách nhân tài của Việt Nam hiện nay
2.2. Chính sách nhân tài của thành phố Đà Nẵng thời gian qua.
2.2.1. Chính sách của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng về xây dựng nhân tài
phục vụ triển kinh tế - xã hội . .
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
43 trang | 
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 803 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách nhân tài ở thành phố Đà nẵng từ 1997 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu, những bài báo khoa học của nhiều nhà nghiên cứu về 
vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn. 
 13 
Bên cạnh đó, luận văn còn tham khảo một số tài liệu về vấn đề tuyển 
chọn, sử dụng nhân tài của một số quốc gia trên thế giới, kinh nghiệp của một 
số địa phương trong nước về đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức và 
nguồn nhân lực chất lượng cao. 
5.2. Về phƣơng pháp nghiên cứu 
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp trong nghiên cứu chính trị 
học: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật 
lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, lịch sử và 
logic, phép biện chứng duy vật. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng cơ sở lí luận 
về chính sách công khi giải quyết những vấn đề đặt ra trong để tài của mình. 
6. Những đóng góp của luận văn 
Về mặt lý luận: luận văn làm rõ hơn vị trí, vai trò và những đóng góp 
của nhân tài đối với việc phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng. 
Về mặt thực tiễn: luận văn làm rõ những thành quả, hạn chế của công 
tác nhân tài của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua. Đề xuất một số giải 
pháp nhằm phát huy vai trò của nhân tài vào việc xây dựng thành phố Đà 
Nẵng phát triển năng động, bền vững. 
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo 
cho các cơ quan trong nghiên cứu về nguồn nhân lực, chính sách nhân tài. 
7. Kết cấu của luận văn 
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận 
văn gồm 3 chương 6 tiết. 
 14 
NỘI DUNG 
Chƣơng 1 
VAI TRÒ CỦA NHÂN TÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 
1.1 . Một số quan điểm về nhân tài trong lịch sử 
Hiện nay các nhà nghiên cứu đang có nhiều cách tiếp cận khác nhau về 
khái niệm nhân tài. Tại phương Tây, theo nghĩa thông thường: “nhân tài được 
hiểu là những người có tài năng” [45, tr. 25]. Theo Robert Albert – học giả 
người Mỹ, nhân tài có ba đặc trưng: “Một là tính sáng tạo, hai là tính kiệt 
xuất, ba là có tầm ảnh hưởng lớn” [45, tr. 26]. 
Tại Trung Quốc, ngay từ rất sớm nhân tài được coi là những người có 
tài và có học. Khái niệm nói trên đã góp phần hình thành nên truyền thống 
trọng hiền tài trong lịch sử Trung Quốc. Khái niệm nhân tài trong giai đoạn 
hiện nay được thông qua tại Hội nghị Trung ương Trung Quốc về công tác 
nhân tài đó là: “Nhân tài là những người có tri thức và năng lực nhất định, có 
thể tiến hành lao động sáng tạo, đem lại những cống hiến và sáng tạo nhất 
định cho sự phát triển kinh tế và xã hội” [45, tr.29]. Theo Thẩm Vinh Hoa – 
Ngô Quốc Diệu: “nhân tài là người mà trong những điều kiện xã hội nào đó, 
bằng lao động sáng tạo của mình, có thể làm nên những công hữu lớn cho xã 
hội”[19, tr. 11]. 
Tại Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “nhân tài: 
người có tài năng xuất sắc” [47, tr. 688], hoặc là: “nhân tài” (nhân là người, 
tài là tài năng). Người có tài năng, có thể đảm đương những việc khó, trong 
bất kỳ lĩnh vực cụ thể hay trong một lĩnh vực nào đó khi có vấn đề nảy sinh 
mà có người giải quyết được thì đó được gọi là người tài. Tài năng là một 
trong những giá trị quý giá nhất của con người. Một cách hiểu khác vẫn 
thường được dùng: “nhân tài là những người có tài năng vượt trội trong một 
lĩnh vực hoạt động nào đó. Khái niệm “nhân tài” thường gắn với khái niệm 
 15 
“năng lực” – là khả năng của con người có thể hoàn thành tốt công việc [28, 
tr. 38]. Cách tiếp cận nói trên cho thấy nhân tài khác người bình thường về 
khả năng sáng tạo và sự đóng góp cho cộng đồng xã hội. Nhân tài thường có 
động cơ hoạt động vì lợi ích xã hội, cộng đồng, biết kết hợp hài hòa nhiều lợi 
ích, sử dụng tiềm năng và khả năng một cách sáng tạo, giải quyết nhiệm vụ 
đạt kết quả cao. Trong xã hội nào cũng vậy, nhân tài phải là người thực sự có 
tài năng và đức độ vượt trội, có những đóng góp được xã hội công nhận, hoặc 
là những người có khả năng dùng người tài, có tầm nhìn chiến lược có uy tín 
và tầm ảnh hưởng trong xã hội. 
Một định nghĩa khác về nhân tài được tác giả Nguyễn Đắc Hưng trình 
bày trong công trình: Nhân tài với tương lai đất nước (2013): 
“Nhân tài là người say mê, nhiệt tình, tích cực trong hoạt động, có tác 
động lớn đến xã hội; là người thông tuệ, giàu tính sáng tạo, có tâm hồn trong 
sáng, giàu tính nhân văn và có một số phẩm chất nổi bật: giàu nghị lực, kiên 
trì tự học, tự đào tạo, biết phát hiện ra những vấn đề mới, tìm cách giải quyết 
vấn đề một cách sáng tạo. Điều quan trọng là kết quả công việc của nhân tài 
phải có cống hiến nổi bật cho nhân dân, cho xã hội, được cộng đồng suy tôn, 
thừa nhận” [28, tr.42]. 
Ngoài ra trong công trình nghiên cứu: Một số vấn đề về trí thức và 
nhân tài, tác giả Đức Vượng cũng có một cách tiếp cận khác về nhân tài: 
“Nhân tài là bộ phận ưu tú trong giới trí thức, là những người tài giỏi, 
có những cống hiến, những công trình về lý luận chính trị, kinh tế, khoa học, 
kỹ thuật, khả năng lãnh đạo, quản lý, nhà giáo dục, nhà ngoại giao, nhà thiết 
kế, tổng công trình sư... thật sự có tài năng” [53, tr. 75]. 
Từ những quan niệm trên về nhân tài, trong giới hạn nghiên cứu của 
luận văn, các tác giả cho rằng nhân tài là: 
 16 
Nhân tài là bộ phận ưu tú trong xã hội, là người tài giỏi, vừa có đạo 
đức, vừa có phẩm chất năng lực vượt trội, có những cống hiến cho xã hội. Đó 
là các nhà khoa học, nhà lý luận, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà giáo dục, 
nhà thiết kế, tổng công trình sư, thầy thuốc, nghệ nhân, nghệ sỹ...thật sự có 
tài năng, được cộng đồng ghi nhân và suy tôn. 
Bản chất, nguồn gốc của nhân tài có thể xuất hiện do di truyền, Song, 
có thể khẳng định rằng yếu tố quyết định đến việc hình thành đội ngũ người 
tài phần nhiều là do quá trình giáo dục, sự khổ luyện, cần mẫn, chịu suy nghĩ 
mà thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: con người ta “phần nhiều do giáo 
dục mà nên” [23, tr. 413]. Do đó việc xác định nhân tài không thể đơn giản là 
thông qua hồ sơ lý lịch, cũng không thể thông qua bằng cấp đạt được trong 
một hệ thống giáo dục nhất định vì bằng cấp mới chỉ là sự phân biệt về trình 
độ học vấn chứ không phải là đặc điểm để nhận diện nhân tài. Với quan niệm 
cho rằng tài năng của một con người bao gồm: phẩm chất, trình độ và năng 
lực thì thì nhân tài chỉ được phát hiện và khẳng định thông qua kết quả hoạt 
động thực tiễn. Có phẩm chất, trình độ năng lực mới hoàn thành nhiệm vụ 
được giao đạt kết quả cao. 
Trong lịch sử, khi nghiên cứu về con người, Triết học Mác khẳng định: 
“Con người không chỉ nhận thức được thế giới (tự nhiên - xã hội) mà còn cải 
tạo thế giới, thúc đẩy xã hội tiến lên, và do đó con người làm nên lịch sử của 
chính mình” [33, tr.29]. Sau này khi phân tích các yếu tố cấu thành nên lực 
lượng sản xuất của xã hội, V.I.Lênin không những kế thừa những luận điểm 
khoa học của C.Mác mà còn khẳng định:“Lực lượng sản xuất hàng đầu của 
toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [57, tr. 430]. Con người 
thông qua hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phong phú thêm thế 
giới tự nhiên, tái tạo tự nhiên theo mục đích của mình. Hoạt động sản xuất vật 
chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của xã hội loài người, vừa là phương thức 
 17 
làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt các quy luật lịch 
sử xã hội con người thông qua hoạt động vật chất, tinh thần thúc đẩy xã hội 
phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt 
ra. Khẳng định vai trò của con người trong quá trình kiến tạo lịch sử, xã hội 
trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Đối với 
chúng ta, một “chuyên gia khoa học và kỹ thuật” dù là chuyên gia tư sản 
nhưng thạo công việc của mình, thì cũng vẫn mười lần quý hơn người đảng 
viên cộng sản huênh hoang” [57, tr. 434]. Người còn khẳng định: 
“Người đảng viên cộng sản nào không tỏ rõ được khả năng của mình 
biết kết hợp và khiêm tốn hướng dẫn công tác của các chuyên gia, đồng thời 
đi sâu vào thực chất của vấn đề và nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết, thì 
người đảng viên cộng sản đó thường có hại. Chúng ta có nhiều đảng viên 
cộng sản như vậy, và tôi có thể đổi hàng tá những người cộng sản đó lấy một 
chuyên gia tư sản thành thạo và nghiêm túc nghiên cứu nghiệp vụ của mình” 
[59, tr. 110]. 
Với những khẳng định nói trên có thể thấy rằng V.I.Lênin đặc biệt coi 
trọng, đề cao vai trò của những người có năng lực thực sự, chỉ những người 
tài năng mới đóng góp được nhiều công sức cho viêc xây dựng đất nước, kiến 
thiết xã hội mới. 
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc 
và nhà văn hóa kiệt xuất là sự ghi nhận của thế giới giành cho Người. Tư 
tưởng của Người trở thành tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta. Khi 
nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài cần lưu ý rằng trong sau thẳm 
tư tưởng của Người luôn thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bởi mọi 
nhân tài đều sinh ra từ nhân dân và chính nhân dân là người tôn vinh và sử 
dụng nhân tài, nhân dân cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tạo, lao động 
cho nhân tài. Xuyên suốt trong quá trình hoạt động của mình, Hồ Chí Minh 
 18 
luôn coi trọng vai trò của trí thức và nhân tài đối với vận mệnh của dân tộc, 
điều này được thể hiện qua việc: trên hành trình từ Liên Xô tới Quảng Châu 
(Trung Quốc) trực tiếp đào tạo lớp cán bộ trí thức và cán bộ công nông cho 
cách mạng Việt Nam gây dựng cơ sở cách mạng cũng như chỉ đạo phong trào 
cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài được 
thể hiện qua những nội dung sau: 
Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân tài. Sinh thời, Chủ tịch 
Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng 
viên, đào tạo họ trở thành những cán bộ có nhân cách phát triển toàn diện về 
phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 
Những phẩm chất nhân cách đó của người cán bộ, đảng viên được Người khái 
quát ngắn gọn trong hai chữ “đức” và “tài”. Đây là chuẩn mực để mỗi cán bộ, 
đảng viên tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, đồng thời là tiêu chuẩn để xem xét, 
đánh giá, sử dụng cán bộ của Đảng ta hiện nay. 
Nhân tài là người vừa có đức, vừa có tài, là một con người phát triển 
toàn diện có sự kết hợp giữa đức và tài, trong đó đức được nói đến trước vì 
đây là nền tảng của con người và xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng người có tài 
mà không có đức thì vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì 
cũng khó. Đức ở đây chính là đạo đức “Là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó 
không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, 
của loài người” [21, tr. 252]. Tài được Người quan niệm: “là năng lực của 
con người để giải quyết nhiệm vụ được giao phó. Năng lực ấy thể hiện tập 
trung ở trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật và lý luận” [22, tr. 36]. 
Với quan niệm về phẩm chất của một con người toàn diện như trên 
Người cho rằng: “Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào 
việc ấy. Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ 
 19 
rèn, người giỏi nghề thợ rèn thì lại giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai 
người đều thất bại cả hai” [21, tr.230]. 
Thứ hai, sử dụng nhân tài phục vụ sự nghiệp cách mạng. Trong quá 
trình chuẩn bị những điều kiện để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, từ 
rất sớm Người đã quan tâm đến việc đào tạo người tài cho cách mạng. Qua 
“Chương trình Việt Minh” khi nói đến nhiệm vụ của văn hóa giáo dục “Lập 
các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các 
lớp nhân tài” [23, tr. 630]. Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, Người 
kêu gọi tầng lớp trí thức tham gia cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi nhiều trí 
thức đã nhiệt tình tham gia trong đó có cả một số trí thức nước ngoài cũng trở 
về nước, đi vào đời sống của quần chúng nhân dân, cùng dân tộc tiến hành 
công cuộc kháng chiến và kiến quốc. 
Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị của người trí thức đặc biệt là những người 
tài đức, họ là lực lượng và động lực không thể thiếu trong công cuộc xây 
dựng và bảo vệ đất nước trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, phải thực sự coi trọng, 
sử dụng trí thức một cách đúng đắn và trọng dụng người tài. “Nhân tài nước 
ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, 
khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều” [22, tr.114]. Người 
kêu gọi quần chúng nhân dân tham gia vào việc phát hiện người tài. Bên cạnh 
đó, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải điều tra nơi nào có người 
tài đức, có thể làm được việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho 
Chính phủ biết. “Báo cáo phải rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện 
vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương 
phải báo cáo cho đủ” [22, tr. 504]. Chỉ những người tôn trọng tri thức, tôn 
trọng nhân tài mới đưa ra những tư tưởng về tìm người tài đức để kiến thiết 
nước nhà như Hồ Chí Minh. 
 20 
Thứ ba, Hồ Chí Minh chú trọng đến việc sử dụng nhân tài hợp lý để 
phát huy giá trị, sở trường. Người chỉ ra rằng việc sử dụng đúng người đúng 
việc là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác, thực tiễn cho thấy 
nếu dùng cán bộ không đúng với tài năng của họ cũng là một trong những 
nguyên nhân làm cho hiệu quả công việc thấp, lãng phí tài năng: “Việc dùng 
nhân tài, ta không nên căn cứ vào các điều kiện quá khắt khe. Tài to ta dùng 
làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực việc gì, ta đặt ngay vào 
việc ấy” [22, tr. 39]. 
Bên cạnh đó Người cũng nhấn mạnh rằng ứng xử với người tài đức cần 
có sự khách quan, công tâm: “Mình có quyền dùng người thì phải dùng những 
người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ 
chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ tài năng hơn mình” [21, tr. 
105]. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng nước ta Người nhận thấy rằng: 
“Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. 
Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật đoàn kết với 
họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp 
ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước” [21, tr. 276]. Hồ Chí Minh coi đoàn 
kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng trong đó có nội dung đoàn 
kết, tập hợp những người tài đức, phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi 
người có ích cho công việc chung. 
Thứ tư, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến vấn đề đào tạo cán bộ trí 
thức, bồi dưỡng nhân tài. Vấn đề này đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm, 
bài viết, bài nói của Người trong đó có những tác phẩm “Đường cách mệnh”, 
xuất bản năm 1927, “Sửa đổi lối làm việc” xuất bản năm 1947, “Thường thức 
chính trị”, xuất bản năm 1953 và bài “Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần 
thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập”, ngày 6-5-1950. Trong thư gửi 
Hội nghị giáo dục toàn quốc Người căn dặn: “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy 
 21 
cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc” [21, tr. 575]. 
Nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo cán bộ, dạy và học là công việc quan trọng của 
Đảng và Nhà nước, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun 
trồng những cây cối quý báu” [24, tr. 356]. Muốn đào tạo tốt yêu cầu phải 
hiểu cho rõ hai yếu tố quan trọng là dạy và học. 
Đối với người dạy: phải là người có tư cách, có sự hiểu biết rộng và 
sâu, mọi lời nói đều phải chính xác, hấp dẫn; tuyệt đối không được định kiến 
coi thường người học. Đối với người học: yêu cầu phải xác định rõ mục đích 
học để sửa chữa tư tưởng học cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới 
khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng. Học để tin tưởng vào đoàn 
thể, vào quần chúng nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách 
mạng. 
1.2. Đặc trƣng, vai trò của nhân tài 
1.2.1. Đặc trưng của nhân tài 
Trên thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về con người 
nhìn chung đều có xu hướng cho rằng tất cả trẻ em phát triển bình thường đều 
tiềm ẩn những năng khiếu khác nhau, đều có khả năng trở thành nhân tài. Do 
đó, vấn đề giáo dục toàn diện cho học sinh, tạo điều kiện và cơ hội cho các 
em bộc lộ năng khiếu, sở trường, tính đam mê sáng tạo là việc làm mang tính 
nhân văn, giúp cho mọi trẻ em đều có cơ hội phát triển tốt nhất để có thể trở 
thành nhân tài trong tương lai. Đây được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu 
của ngành giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu về nhân tài, người ta thấy ở lớp 
người này mang một số đặc trưng như sau: 
 Về năng lực trí tuệ 
 Những người được coi là tài năng thường có trí thông minh, học giỏi, 
có năng lực tư duy ở tầm chiến lược, có năng lực suy đoán, thường không bị 
 22 
bó hẹp bởi những khuôn mẫu có sẵn, có xu hướng tiếp cận mới trong trước sự 
việc hiện tượng tưởng chừng như đã cũ. 
“Nhân tài thường có óc tưởng tượng phong phú, có khả năng sử dụng 
tư duy lôgíc, có khả năng tổng hợp và phân tích những vấn đề nảy sinh trong 
cuộc sống, tìm ra mối liên hệ giữa chúng một cách có hệ thống và chính xác, 
có khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa những sự kiện diễn ra mang tính 
quy luật trở thành những vấn đề mang tính lý luận” [28, tr. 54]. 
Người tài thường có phản ứng nhạy bén trước những vấn đề mới do 
thực tiễn cuộc sống đặt ra, có khả năng dự báo, có trí nhớ tốt, giải quyết vấn 
đề một cách linh hoạt, đem lại hiệu quả cao. Họ là những người có tư duy đọc 
lập; khả năng phê phán dựa trên lập luận chặt chẽ ở tầm trí tuệ cao, có sự tinh 
tế, sắc sảo trước những biến đổi của cuộc sống; có khả năng tiếp cận và nắm 
bắt cái mới một cách nhanh chóng, thích ứng nhanh trước những biến động 
của xã hội; là những người biết sử dụng thời gian một cách hợp lý khi giải 
quyết nhiều công việc, luôn chủ động và có giải pháp trước mọi tình huống có 
thể xảy ra. Để được công nhận là người tài nhất thiết phải có năng lực sáng 
tạo vì sáng tạo chính là sự kết tinh của năng lực tư duy. Ngày nay ngoài 
những tiêu chí nói trên nhân tài còn cần thể hiện trách nhiệm của họ với xã 
hội, họ hướng những hành động của mình nhằm phục vụ lợi ích của xã hội, 
của nhân dân. 
 Về kỹ năng trong cuộc sống 
Ngoài năng lực trí tuệ những người tài năng cũng cần phải phân biệt 
đúng sai, thật giả từ những thông tin đa chiều, phải biết lựa chọn thông tin để 
có thể ứng xử một cách hợp lý, có khả năng giao tiếp mạch lạc, rõ ràng, ý và 
lời phải chắc chắn, lôgíc. Ngoài ra, nhân tài còn có khả năng quan sát hết sức 
tinh tế, nhạy bén nhận biết và phân tích hệ thống các sự kiên, biến cố xảy ra 
và đưa ra những phương án giải quyết nhanh, kịp thời, chính xác, cách ứng xử 
 23 
trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày thể hiện tính nhân văn. “Nhân 
tài khi làm việc thường có tính nguyên tắc, xử lý linh hoạt các dữ kiện, thông 
tin biết cách vận dụng sáng tạo lý thuyết vào thực tiễn, đem lại hiệu quả cao 
trong công việc [28, tr.56]. Mặt khác, nhân tài thường có hiểu biết vừa rộng, 
vừa sâu bao quát nhiều lĩnh vực họ có khả năng giải quyết những vấn đề mới 
nảy sinh mà người bình thường không giải quyết được. Do đó, hoạt động của 
họ có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xã hội. 
Về phẩm chất đạo đức 
Nói đến nhân tài không thể không nói đến đạo đức, mà đạo đức của họ 
phải được thể hiện qua những việc làm cụ thể góp phần vào phát triển cộng 
đồng. Tài năng và đạo đức ở mỗi cá nhân luôn được xã hội đánh giá cao, có 
sức lan tỏa. Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh những mối quan hệ 
hiện thực bắt nguồn từ cuộc sống của con người, là hình thái ý thức xã hội, là 
tổng hợp các quy tắc, chuẩn mực xã hội thể hiện sự tự giác của con người 
trong mối quan hệ giữa con người với xã hội, với tự nhiên với cả bản thân con 
người đó. Đạo đức giúp con người hình thành cơ chế tự điều chỉnh hành vi 
của mình cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã 
hội. Ở nước ta, khi nói đến đạo đức của nhân tài chuẩn mực đầu tiên được đề 
cập đến đó chính là tình yêu Tổ quốc, quê hương, gia đình, tình yêu thương 
đồng loại, có lòng bao dung vị tha. Đạo đức của nhân tài gắn với sự hiến dâng 
cho xã hội, hi sinh bản thân mình vì đất nước, vì xã hội. “Người tài thường có 
suy nghĩ, hành động có tính mục đích rõ ràng, có động cơ phấn đấu trong 
sáng, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc cũng như với xã hội” [28, 
tr.57]. Trong cuộc sống nhân tài thường say mê sáng tạo, yêu thích lao động, 
có ý thức học hỏi, chủ động vươn lên trong cuộc sống, có tinh thần dám nghĩ, 
dám làm, chịu khó khăn gian khổ, chấp nhận mạo hiểm với cái mới, độc lập 
trong suy nghĩ và hành động, có niềm tin vào tương lai, biết cách vượt qua 
 24 
khó khăn. Nếu nhân tài giữ vị trí lãnh đạo, quản lý cần biết cách dẫn dắt tập 
thể một cách khoa học, biết dùng người một cách hợp lý, có khả năng tập hợp 
quần chúng, tạo cảm giác thân thiện trong cơ quan, đơn vị và có tác phong 
đĩnh đạc, đàng hoàng, lời nói có sức thuyết phục được tập thể tôn trọng. Có 
thể khẳng định rằng, nhân tài thường mang đầy đủ hai mặt đức và tài là người 
nổi trội trong cộng đồng có nhiều đóng góp cho xã hội. 
Bên cạnh những đặc trưng nói trên nhân tài còn được biểu hiện qua một 
số tố chất như: Thứ nhất, tố chất về chính trị của nhân tài, thể hiện lập trường 
kiên định, kiên trì thực hành những nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống cũng 
như trong công việc. Đó là hệ thống những giá trị phù hợp với thời đại, nêu 
cao tinh thần tập thể, có khả năng hợp tác với mọi người, tôn trọng kỷ cương, 
pháp luật, trung thành với lý tưởng, mục tiêu đã chọn. Thứ hai, khả năng tiếp 
thu, xử lý khối lượng thông tin đồ sộ, khả năng ghi nhớ, khả năng tư duy, khả 
năng sáng tạo cái mới và khả năng diễn đạt. Thứ ba, tố chất về tâm lý bao 
gồm ý chí, tình cảm, quan niệm về giá trị, cần có sức mạnh và sức bền tinh 
thần và tâm lý. Thứ tư, tố chất về sức khỏe thể hiện qua cân nặng, chiều cao, 
sức bền, độ dẻo dai khéo léo và sự linh hoạt. 
Tóm lại, những đặc trưng và tố chất nói trên giúp cho nhân tài có nhiều 
cống hiến cho cộng đồng và phần quan trọng trong việc quyết định số phận 
hưng thịnh hay suy vong của mỗi quốc gia dân tộc; có khả năng giải quyết 
những vấn đề phức tạp do thực tiễn cuộc sống đặt ra; nhân tài góp phần tích 
cực thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội. 
1.2.2. Vai trò của nhân tài 
Ngày nay, trong tất cả các tài nguyên con người đã biết đến, đang sử 
dụng thì không tài nguyên nào có tầm quan trọng và quyết định như tài 
nguyên do chính con người sản sinh ra, chính là nguồn nhân lực mà tiên 
phong là đội ngũ nhân tài. 
 25 
“Tài nguyên nhân lực hay tài nguyên con người là một dạng tài nguyên 
hàm chứa trong con người. Tài nguyên này chính là năng lực của con người, 
với tư cách là những cá nhân và con người nói chung, trong việc thực hiện 
những công việc hữu ích cho xã hội và cho chính bản thân con người. Nó hàm 
ý rằng đây là loại tài nguyên tiềm tàng, có thể dùng để tạo lập lợi thế cạnh 
tranh cho các chủ thể sử dụng nó” [43, tr. 17]. 
 Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới coi giáo dục đào tạo, phát triển 
nhân tài là quốc sách hàng đầu, bí quyết tạo nên sự thành công, chìa khóa của 
sự phát triển là có nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng. 
Trong tiến trình lịch sử Việt Nam cùng với việc xây dựng chính quyền 
nhà nước, bảo vệ độc lập dân tộc, ông cha ta đã chú trọng việc đào tạo, bồi 
dưỡng nhân tài cũng như thực thi hệ thống các biện pháp để thu phục, sử dụng 
người tài. Ngày nay, chúng ta vẫn thường nhắc tới câu nói nổi tiếng của Thân 
Nhân Trung được khắc trên bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1442) về vai trò của 
nhân tài và giáo dục nhân tài: 
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước 
mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các 
bậc đế Vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén 
chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết” [48, tr.31]. 
Sinh thời trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh 
cũng đánh giá cao vai trò của nhân tài trong sự nghiệp kháng chiến, kiến 
quốc. Trong bài viết “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc Người viết: 
“Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” [22, tr. 504]. 
Với tư tưởng trọng người hiền tài người căn dặn Đảng ta cần: “Phải trọng 
nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của 
chúng ta” [22, tr.100]. 
 26 
Ngày nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nhân dân ta 
dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu to 
lớn, từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, 
tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân 
từng bước được cải thiện, bộ mặt xã hội có nhiều thay đổi tích cực, vị thế của 
nước ta trên trường quốc tế được củng cố. Một trong những nhân tố tạo nên 
những thành công nói trên là Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá đúng vị 
trí, vai trò của việc phát triển, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây 
dựng đất nước trong tình hình mới. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu về 
kinh tế - xã hộ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
02050004317_1522_2002781.pdf