Luận văn Chính sách nhân tài ở thành phố Đà nẵng từ 1997 đến nay

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU.4

1. Lý do chọn đề tài.4

2. Tổng quan tình hình nghiên cứu .6

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .11

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài .12

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .12

6. Những đóng góp của luận văn .13

NỘI DUNG.14

Chương 1. VAI TRÒ CỦA NHÂN TÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN

XÃ HỘI .14

1.1 . Một số quan điểm về nhân tài trong lịch sử. 14

1.2. Đặc trưng, vai trò của nhân tài .21

1.2.1. Đặc trưng của nhân tài. 21

1.2.2. Vai trò của nhân tài. 24

1.2.3. Chính sách nhân tài. 26

1.3. Kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc phát hiện, đào tạo, bồi

dưỡng, trọng dụng nhân tài . 29

Tiểu kết chương 1.33

Chương 2. THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG VỚI CHÍNH SÁCH NHÂN TÀI

TRONG NHỮNG NĂM QUA .

2.1. Khái quát về chính sách nhân tài của Việt Nam hiện nay

2.2. Chính sách nhân tài của thành phố Đà Nẵng thời gian qua.

2.2.1. Chính sách của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng về xây dựng nhân tài

phục vụ triển kinh tế - xã hội . .

pdf43 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 610 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách nhân tài ở thành phố Đà nẵng từ 1997 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu, những bài báo khoa học của nhiều nhà nghiên cứu về vấn đề liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn. 13 Bên cạnh đó, luận văn còn tham khảo một số tài liệu về vấn đề tuyển chọn, sử dụng nhân tài của một số quốc gia trên thế giới, kinh nghiệp của một số địa phương trong nước về đào tạo, sử dụng đội ngũ cán bộ, công chức và nguồn nhân lực chất lượng cao. 5.2. Về phƣơng pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp trong nghiên cứu chính trị học: phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch và quy nạp, lịch sử và logic, phép biện chứng duy vật. Bên cạnh đó tác giả còn sử dụng cơ sở lí luận về chính sách công khi giải quyết những vấn đề đặt ra trong để tài của mình. 6. Những đóng góp của luận văn Về mặt lý luận: luận văn làm rõ hơn vị trí, vai trò và những đóng góp của nhân tài đối với việc phát triển kinh tế - xã hội thành phố Đà Nẵng. Về mặt thực tiễn: luận văn làm rõ những thành quả, hạn chế của công tác nhân tài của thành phố Đà Nẵng trong thời gian qua. Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của nhân tài vào việc xây dựng thành phố Đà Nẵng phát triển năng động, bền vững. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan trong nghiên cứu về nguồn nhân lực, chính sách nhân tài. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương 6 tiết. 14 NỘI DUNG Chƣơng 1 VAI TRÒ CỦA NHÂN TÀI ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI 1.1 . Một số quan điểm về nhân tài trong lịch sử Hiện nay các nhà nghiên cứu đang có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm nhân tài. Tại phương Tây, theo nghĩa thông thường: “nhân tài được hiểu là những người có tài năng” [45, tr. 25]. Theo Robert Albert – học giả người Mỹ, nhân tài có ba đặc trưng: “Một là tính sáng tạo, hai là tính kiệt xuất, ba là có tầm ảnh hưởng lớn” [45, tr. 26]. Tại Trung Quốc, ngay từ rất sớm nhân tài được coi là những người có tài và có học. Khái niệm nói trên đã góp phần hình thành nên truyền thống trọng hiền tài trong lịch sử Trung Quốc. Khái niệm nhân tài trong giai đoạn hiện nay được thông qua tại Hội nghị Trung ương Trung Quốc về công tác nhân tài đó là: “Nhân tài là những người có tri thức và năng lực nhất định, có thể tiến hành lao động sáng tạo, đem lại những cống hiến và sáng tạo nhất định cho sự phát triển kinh tế và xã hội” [45, tr.29]. Theo Thẩm Vinh Hoa – Ngô Quốc Diệu: “nhân tài là người mà trong những điều kiện xã hội nào đó, bằng lao động sáng tạo của mình, có thể làm nên những công hữu lớn cho xã hội”[19, tr. 11]. Tại Việt Nam, nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: “nhân tài: người có tài năng xuất sắc” [47, tr. 688], hoặc là: “nhân tài” (nhân là người, tài là tài năng). Người có tài năng, có thể đảm đương những việc khó, trong bất kỳ lĩnh vực cụ thể hay trong một lĩnh vực nào đó khi có vấn đề nảy sinh mà có người giải quyết được thì đó được gọi là người tài. Tài năng là một trong những giá trị quý giá nhất của con người. Một cách hiểu khác vẫn thường được dùng: “nhân tài là những người có tài năng vượt trội trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Khái niệm “nhân tài” thường gắn với khái niệm 15 “năng lực” – là khả năng của con người có thể hoàn thành tốt công việc [28, tr. 38]. Cách tiếp cận nói trên cho thấy nhân tài khác người bình thường về khả năng sáng tạo và sự đóng góp cho cộng đồng xã hội. Nhân tài thường có động cơ hoạt động vì lợi ích xã hội, cộng đồng, biết kết hợp hài hòa nhiều lợi ích, sử dụng tiềm năng và khả năng một cách sáng tạo, giải quyết nhiệm vụ đạt kết quả cao. Trong xã hội nào cũng vậy, nhân tài phải là người thực sự có tài năng và đức độ vượt trội, có những đóng góp được xã hội công nhận, hoặc là những người có khả năng dùng người tài, có tầm nhìn chiến lược có uy tín và tầm ảnh hưởng trong xã hội. Một định nghĩa khác về nhân tài được tác giả Nguyễn Đắc Hưng trình bày trong công trình: Nhân tài với tương lai đất nước (2013): “Nhân tài là người say mê, nhiệt tình, tích cực trong hoạt động, có tác động lớn đến xã hội; là người thông tuệ, giàu tính sáng tạo, có tâm hồn trong sáng, giàu tính nhân văn và có một số phẩm chất nổi bật: giàu nghị lực, kiên trì tự học, tự đào tạo, biết phát hiện ra những vấn đề mới, tìm cách giải quyết vấn đề một cách sáng tạo. Điều quan trọng là kết quả công việc của nhân tài phải có cống hiến nổi bật cho nhân dân, cho xã hội, được cộng đồng suy tôn, thừa nhận” [28, tr.42]. Ngoài ra trong công trình nghiên cứu: Một số vấn đề về trí thức và nhân tài, tác giả Đức Vượng cũng có một cách tiếp cận khác về nhân tài: “Nhân tài là bộ phận ưu tú trong giới trí thức, là những người tài giỏi, có những cống hiến, những công trình về lý luận chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật, khả năng lãnh đạo, quản lý, nhà giáo dục, nhà ngoại giao, nhà thiết kế, tổng công trình sư... thật sự có tài năng” [53, tr. 75]. Từ những quan niệm trên về nhân tài, trong giới hạn nghiên cứu của luận văn, các tác giả cho rằng nhân tài là: 16 Nhân tài là bộ phận ưu tú trong xã hội, là người tài giỏi, vừa có đạo đức, vừa có phẩm chất năng lực vượt trội, có những cống hiến cho xã hội. Đó là các nhà khoa học, nhà lý luận, nhà chính trị, nhà văn hóa, nhà giáo dục, nhà thiết kế, tổng công trình sư, thầy thuốc, nghệ nhân, nghệ sỹ...thật sự có tài năng, được cộng đồng ghi nhân và suy tôn. Bản chất, nguồn gốc của nhân tài có thể xuất hiện do di truyền, Song, có thể khẳng định rằng yếu tố quyết định đến việc hình thành đội ngũ người tài phần nhiều là do quá trình giáo dục, sự khổ luyện, cần mẫn, chịu suy nghĩ mà thành. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: con người ta “phần nhiều do giáo dục mà nên” [23, tr. 413]. Do đó việc xác định nhân tài không thể đơn giản là thông qua hồ sơ lý lịch, cũng không thể thông qua bằng cấp đạt được trong một hệ thống giáo dục nhất định vì bằng cấp mới chỉ là sự phân biệt về trình độ học vấn chứ không phải là đặc điểm để nhận diện nhân tài. Với quan niệm cho rằng tài năng của một con người bao gồm: phẩm chất, trình độ và năng lực thì thì nhân tài chỉ được phát hiện và khẳng định thông qua kết quả hoạt động thực tiễn. Có phẩm chất, trình độ năng lực mới hoàn thành nhiệm vụ được giao đạt kết quả cao. Trong lịch sử, khi nghiên cứu về con người, Triết học Mác khẳng định: “Con người không chỉ nhận thức được thế giới (tự nhiên - xã hội) mà còn cải tạo thế giới, thúc đẩy xã hội tiến lên, và do đó con người làm nên lịch sử của chính mình” [33, tr.29]. Sau này khi phân tích các yếu tố cấu thành nên lực lượng sản xuất của xã hội, V.I.Lênin không những kế thừa những luận điểm khoa học của C.Mác mà còn khẳng định:“Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động” [57, tr. 430]. Con người thông qua hoạt động thực tiễn của mình đã góp phần làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo tự nhiên theo mục đích của mình. Hoạt động sản xuất vật chất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của xã hội loài người, vừa là phương thức 17 làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt các quy luật lịch sử xã hội con người thông qua hoạt động vật chất, tinh thần thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khẳng định vai trò của con người trong quá trình kiến tạo lịch sử, xã hội trong điều kiện đảng lãnh đạo chính quyền V.I.Lênin chỉ ra rằng: “Đối với chúng ta, một “chuyên gia khoa học và kỹ thuật” dù là chuyên gia tư sản nhưng thạo công việc của mình, thì cũng vẫn mười lần quý hơn người đảng viên cộng sản huênh hoang” [57, tr. 434]. Người còn khẳng định: “Người đảng viên cộng sản nào không tỏ rõ được khả năng của mình biết kết hợp và khiêm tốn hướng dẫn công tác của các chuyên gia, đồng thời đi sâu vào thực chất của vấn đề và nghiên cứu vấn đề một cách chi tiết, thì người đảng viên cộng sản đó thường có hại. Chúng ta có nhiều đảng viên cộng sản như vậy, và tôi có thể đổi hàng tá những người cộng sản đó lấy một chuyên gia tư sản thành thạo và nghiêm túc nghiên cứu nghiệp vụ của mình” [59, tr. 110]. Với những khẳng định nói trên có thể thấy rằng V.I.Lênin đặc biệt coi trọng, đề cao vai trò của những người có năng lực thực sự, chỉ những người tài năng mới đóng góp được nhiều công sức cho viêc xây dựng đất nước, kiến thiết xã hội mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất là sự ghi nhận của thế giới giành cho Người. Tư tưởng của Người trở thành tài sản tinh thần quý báu của dân tộc ta. Khi nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài cần lưu ý rằng trong sau thẳm tư tưởng của Người luôn thấm nhuần tư tưởng “lấy dân làm gốc”, bởi mọi nhân tài đều sinh ra từ nhân dân và chính nhân dân là người tôn vinh và sử dụng nhân tài, nhân dân cũng chính là nguồn cảm hứng sáng tạo, lao động cho nhân tài. Xuyên suốt trong quá trình hoạt động của mình, Hồ Chí Minh 18 luôn coi trọng vai trò của trí thức và nhân tài đối với vận mệnh của dân tộc, điều này được thể hiện qua việc: trên hành trình từ Liên Xô tới Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp đào tạo lớp cán bộ trí thức và cán bộ công nông cho cách mạng Việt Nam gây dựng cơ sở cách mạng cũng như chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân tài được thể hiện qua những nội dung sau: Thứ nhất, quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân tài. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, đào tạo họ trở thành những cán bộ có nhân cách phát triển toàn diện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Những phẩm chất nhân cách đó của người cán bộ, đảng viên được Người khái quát ngắn gọn trong hai chữ “đức” và “tài”. Đây là chuẩn mực để mỗi cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện phấn đấu, đồng thời là tiêu chuẩn để xem xét, đánh giá, sử dụng cán bộ của Đảng ta hiện nay. Nhân tài là người vừa có đức, vừa có tài, là một con người phát triển toàn diện có sự kết hợp giữa đức và tài, trong đó đức được nói đến trước vì đây là nền tảng của con người và xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng người có tài mà không có đức thì vô dụng, người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó. Đức ở đây chính là đạo đức “Là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người” [21, tr. 252]. Tài được Người quan niệm: “là năng lực của con người để giải quyết nhiệm vụ được giao phó. Năng lực ấy thể hiện tập trung ở trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật và lý luận” [22, tr. 36]. Với quan niệm về phẩm chất của một con người toàn diện như trên Người cho rằng: “Nhân tài: Người nào có năng lực làm việc gì, thì đặt vào việc ấy. Nếu dùng không đúng, người giỏi nghề thợ mộc thì giao cho việc thợ 19 rèn, người giỏi nghề thợ rèn thì lại giao cho việc thợ mộc, như thế thì hai người đều thất bại cả hai” [21, tr.230]. Thứ hai, sử dụng nhân tài phục vụ sự nghiệp cách mạng. Trong quá trình chuẩn bị những điều kiện để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, từ rất sớm Người đã quan tâm đến việc đào tạo người tài cho cách mạng. Qua “Chương trình Việt Minh” khi nói đến nhiệm vụ của văn hóa giáo dục “Lập các trường chuyên môn huấn luyện chính trị, quân sự, kỹ thuật để đào tạo các lớp nhân tài” [23, tr. 630]. Khi cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra, Người kêu gọi tầng lớp trí thức tham gia cách mạng, hưởng ứng lời kêu gọi nhiều trí thức đã nhiệt tình tham gia trong đó có cả một số trí thức nước ngoài cũng trở về nước, đi vào đời sống của quần chúng nhân dân, cùng dân tộc tiến hành công cuộc kháng chiến và kiến quốc. Hồ Chí Minh hiểu rõ giá trị của người trí thức đặc biệt là những người tài đức, họ là lực lượng và động lực không thể thiếu trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trong mọi hoàn cảnh. Vì vậy, phải thực sự coi trọng, sử dụng trí thức một cách đúng đắn và trọng dụng người tài. “Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài ngày càng phát triển thêm nhiều” [22, tr.114]. Người kêu gọi quần chúng nhân dân tham gia vào việc phát hiện người tài. Bên cạnh đó, các cấp ủy đảng và chính quyền địa phương phải điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. “Báo cáo phải rõ: tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ” [22, tr. 504]. Chỉ những người tôn trọng tri thức, tôn trọng nhân tài mới đưa ra những tư tưởng về tìm người tài đức để kiến thiết nước nhà như Hồ Chí Minh. 20 Thứ ba, Hồ Chí Minh chú trọng đến việc sử dụng nhân tài hợp lý để phát huy giá trị, sở trường. Người chỉ ra rằng việc sử dụng đúng người đúng việc là yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu quả công tác, thực tiễn cho thấy nếu dùng cán bộ không đúng với tài năng của họ cũng là một trong những nguyên nhân làm cho hiệu quả công việc thấp, lãng phí tài năng: “Việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ vào các điều kiện quá khắt khe. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy” [22, tr. 39]. Bên cạnh đó Người cũng nhấn mạnh rằng ứng xử với người tài đức cần có sự khách quan, công tâm: “Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia. Chớ vì sợ mất địa vị mà dìm những kẻ tài năng hơn mình” [21, tr. 105]. Qua thực tiễn lãnh đạo cách mạng nước ta Người nhận thấy rằng: “Phong trào giải phóng sôi nổi, nảy nở ra rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. Chúng ta không được bỏ rơi họ, xa cách họ. Chúng ta phải thật đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước” [21, tr. 276]. Hồ Chí Minh coi đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược của cách mạng trong đó có nội dung đoàn kết, tập hợp những người tài đức, phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi người có ích cho công việc chung. Thứ tư, Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến vấn đề đào tạo cán bộ trí thức, bồi dưỡng nhân tài. Vấn đề này đã được thể hiện trong nhiều tác phẩm, bài viết, bài nói của Người trong đó có những tác phẩm “Đường cách mệnh”, xuất bản năm 1927, “Sửa đổi lối làm việc” xuất bản năm 1947, “Thường thức chính trị”, xuất bản năm 1953 và bài “Nói chuyện tại Hội nghị toàn quốc lần thứ nhất về công tác huấn luyện và học tập”, ngày 6-5-1950. Trong thư gửi Hội nghị giáo dục toàn quốc Người căn dặn: “Chúng ta phải sửa đổi cách dạy 21 cho hợp với sự đào tạo nhân tài kháng chiến và kiến quốc” [21, tr. 575]. Nhiệm vụ huấn luyện, đào tạo cán bộ, dạy và học là công việc quan trọng của Đảng và Nhà nước, “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối quý báu” [24, tr. 356]. Muốn đào tạo tốt yêu cầu phải hiểu cho rõ hai yếu tố quan trọng là dạy và học. Đối với người dạy: phải là người có tư cách, có sự hiểu biết rộng và sâu, mọi lời nói đều phải chính xác, hấp dẫn; tuyệt đối không được định kiến coi thường người học. Đối với người học: yêu cầu phải xác định rõ mục đích học để sửa chữa tư tưởng học cho đúng. Tư tưởng đúng thì hành động mới khỏi sai lạc và mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng. Học để tin tưởng vào đoàn thể, vào quần chúng nhân dân, vào tương lai của dân tộc và tương lai của cách mạng. 1.2. Đặc trƣng, vai trò của nhân tài 1.2.1. Đặc trưng của nhân tài Trên thế giới đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về con người nhìn chung đều có xu hướng cho rằng tất cả trẻ em phát triển bình thường đều tiềm ẩn những năng khiếu khác nhau, đều có khả năng trở thành nhân tài. Do đó, vấn đề giáo dục toàn diện cho học sinh, tạo điều kiện và cơ hội cho các em bộc lộ năng khiếu, sở trường, tính đam mê sáng tạo là việc làm mang tính nhân văn, giúp cho mọi trẻ em đều có cơ hội phát triển tốt nhất để có thể trở thành nhân tài trong tương lai. Đây được coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành giáo dục, đào tạo. Nghiên cứu về nhân tài, người ta thấy ở lớp người này mang một số đặc trưng như sau: Về năng lực trí tuệ Những người được coi là tài năng thường có trí thông minh, học giỏi, có năng lực tư duy ở tầm chiến lược, có năng lực suy đoán, thường không bị 22 bó hẹp bởi những khuôn mẫu có sẵn, có xu hướng tiếp cận mới trong trước sự việc hiện tượng tưởng chừng như đã cũ. “Nhân tài thường có óc tưởng tượng phong phú, có khả năng sử dụng tư duy lôgíc, có khả năng tổng hợp và phân tích những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống, tìm ra mối liên hệ giữa chúng một cách có hệ thống và chính xác, có khả năng trừu tượng hóa, khái quát hóa những sự kiện diễn ra mang tính quy luật trở thành những vấn đề mang tính lý luận” [28, tr. 54]. Người tài thường có phản ứng nhạy bén trước những vấn đề mới do thực tiễn cuộc sống đặt ra, có khả năng dự báo, có trí nhớ tốt, giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, đem lại hiệu quả cao. Họ là những người có tư duy đọc lập; khả năng phê phán dựa trên lập luận chặt chẽ ở tầm trí tuệ cao, có sự tinh tế, sắc sảo trước những biến đổi của cuộc sống; có khả năng tiếp cận và nắm bắt cái mới một cách nhanh chóng, thích ứng nhanh trước những biến động của xã hội; là những người biết sử dụng thời gian một cách hợp lý khi giải quyết nhiều công việc, luôn chủ động và có giải pháp trước mọi tình huống có thể xảy ra. Để được công nhận là người tài nhất thiết phải có năng lực sáng tạo vì sáng tạo chính là sự kết tinh của năng lực tư duy. Ngày nay ngoài những tiêu chí nói trên nhân tài còn cần thể hiện trách nhiệm của họ với xã hội, họ hướng những hành động của mình nhằm phục vụ lợi ích của xã hội, của nhân dân. Về kỹ năng trong cuộc sống Ngoài năng lực trí tuệ những người tài năng cũng cần phải phân biệt đúng sai, thật giả từ những thông tin đa chiều, phải biết lựa chọn thông tin để có thể ứng xử một cách hợp lý, có khả năng giao tiếp mạch lạc, rõ ràng, ý và lời phải chắc chắn, lôgíc. Ngoài ra, nhân tài còn có khả năng quan sát hết sức tinh tế, nhạy bén nhận biết và phân tích hệ thống các sự kiên, biến cố xảy ra và đưa ra những phương án giải quyết nhanh, kịp thời, chính xác, cách ứng xử 23 trong công việc và trong cuộc sống hàng ngày thể hiện tính nhân văn. “Nhân tài khi làm việc thường có tính nguyên tắc, xử lý linh hoạt các dữ kiện, thông tin biết cách vận dụng sáng tạo lý thuyết vào thực tiễn, đem lại hiệu quả cao trong công việc [28, tr.56]. Mặt khác, nhân tài thường có hiểu biết vừa rộng, vừa sâu bao quát nhiều lĩnh vực họ có khả năng giải quyết những vấn đề mới nảy sinh mà người bình thường không giải quyết được. Do đó, hoạt động của họ có nhiều đóng góp cho sự phát triển của xã hội. Về phẩm chất đạo đức Nói đến nhân tài không thể không nói đến đạo đức, mà đạo đức của họ phải được thể hiện qua những việc làm cụ thể góp phần vào phát triển cộng đồng. Tài năng và đạo đức ở mỗi cá nhân luôn được xã hội đánh giá cao, có sức lan tỏa. Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh những mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ cuộc sống của con người, là hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các quy tắc, chuẩn mực xã hội thể hiện sự tự giác của con người trong mối quan hệ giữa con người với xã hội, với tự nhiên với cả bản thân con người đó. Đạo đức giúp con người hình thành cơ chế tự điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội. Ở nước ta, khi nói đến đạo đức của nhân tài chuẩn mực đầu tiên được đề cập đến đó chính là tình yêu Tổ quốc, quê hương, gia đình, tình yêu thương đồng loại, có lòng bao dung vị tha. Đạo đức của nhân tài gắn với sự hiến dâng cho xã hội, hi sinh bản thân mình vì đất nước, vì xã hội. “Người tài thường có suy nghĩ, hành động có tính mục đích rõ ràng, có động cơ phấn đấu trong sáng, có tinh thần trách nhiệm đối với công việc cũng như với xã hội” [28, tr.57]. Trong cuộc sống nhân tài thường say mê sáng tạo, yêu thích lao động, có ý thức học hỏi, chủ động vươn lên trong cuộc sống, có tinh thần dám nghĩ, dám làm, chịu khó khăn gian khổ, chấp nhận mạo hiểm với cái mới, độc lập trong suy nghĩ và hành động, có niềm tin vào tương lai, biết cách vượt qua 24 khó khăn. Nếu nhân tài giữ vị trí lãnh đạo, quản lý cần biết cách dẫn dắt tập thể một cách khoa học, biết dùng người một cách hợp lý, có khả năng tập hợp quần chúng, tạo cảm giác thân thiện trong cơ quan, đơn vị và có tác phong đĩnh đạc, đàng hoàng, lời nói có sức thuyết phục được tập thể tôn trọng. Có thể khẳng định rằng, nhân tài thường mang đầy đủ hai mặt đức và tài là người nổi trội trong cộng đồng có nhiều đóng góp cho xã hội. Bên cạnh những đặc trưng nói trên nhân tài còn được biểu hiện qua một số tố chất như: Thứ nhất, tố chất về chính trị của nhân tài, thể hiện lập trường kiên định, kiên trì thực hành những nguyên tắc cơ bản trong cuộc sống cũng như trong công việc. Đó là hệ thống những giá trị phù hợp với thời đại, nêu cao tinh thần tập thể, có khả năng hợp tác với mọi người, tôn trọng kỷ cương, pháp luật, trung thành với lý tưởng, mục tiêu đã chọn. Thứ hai, khả năng tiếp thu, xử lý khối lượng thông tin đồ sộ, khả năng ghi nhớ, khả năng tư duy, khả năng sáng tạo cái mới và khả năng diễn đạt. Thứ ba, tố chất về tâm lý bao gồm ý chí, tình cảm, quan niệm về giá trị, cần có sức mạnh và sức bền tinh thần và tâm lý. Thứ tư, tố chất về sức khỏe thể hiện qua cân nặng, chiều cao, sức bền, độ dẻo dai khéo léo và sự linh hoạt. Tóm lại, những đặc trưng và tố chất nói trên giúp cho nhân tài có nhiều cống hiến cho cộng đồng và phần quan trọng trong việc quyết định số phận hưng thịnh hay suy vong của mỗi quốc gia dân tộc; có khả năng giải quyết những vấn đề phức tạp do thực tiễn cuộc sống đặt ra; nhân tài góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội. 1.2.2. Vai trò của nhân tài Ngày nay, trong tất cả các tài nguyên con người đã biết đến, đang sử dụng thì không tài nguyên nào có tầm quan trọng và quyết định như tài nguyên do chính con người sản sinh ra, chính là nguồn nhân lực mà tiên phong là đội ngũ nhân tài. 25 “Tài nguyên nhân lực hay tài nguyên con người là một dạng tài nguyên hàm chứa trong con người. Tài nguyên này chính là năng lực của con người, với tư cách là những cá nhân và con người nói chung, trong việc thực hiện những công việc hữu ích cho xã hội và cho chính bản thân con người. Nó hàm ý rằng đây là loại tài nguyên tiềm tàng, có thể dùng để tạo lập lợi thế cạnh tranh cho các chủ thể sử dụng nó” [43, tr. 17]. Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới coi giáo dục đào tạo, phát triển nhân tài là quốc sách hàng đầu, bí quyết tạo nên sự thành công, chìa khóa của sự phát triển là có nguồn nhân lực đủ về số lượng và chất lượng. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam cùng với việc xây dựng chính quyền nhà nước, bảo vệ độc lập dân tộc, ông cha ta đã chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tài cũng như thực thi hệ thống các biện pháp để thu phục, sử dụng người tài. Ngày nay, chúng ta vẫn thường nhắc tới câu nói nổi tiếng của Thân Nhân Trung được khắc trên bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1442) về vai trò của nhân tài và giáo dục nhân tài: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn. Vì thế các bậc đế Vương thánh minh không đời nào không coi việc giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công việc cần thiết” [48, tr.31]. Sinh thời trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao vai trò của nhân tài trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Trong bài viết “Tìm người tài đức” đăng trên báo Cứu quốc Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài” [22, tr. 504]. Với tư tưởng trọng người hiền tài người căn dặn Đảng ta cần: “Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công việc chung của chúng ta” [22, tr.100]. 26 Ngày nay, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng trong thời gian qua đã thu được nhiều thành tựu to lớn, từng bước đưa nước ta thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân từng bước được cải thiện, bộ mặt xã hội có nhiều thay đổi tích cực, vị thế của nước ta trên trường quốc tế được củng cố. Một trong những nhân tố tạo nên những thành công nói trên là Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá đúng vị trí, vai trò của việc phát triển, bồi dưỡng nhân tài phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong tình hình mới. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu về kinh tế - xã hộ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf02050004317_1522_2002781.pdf
Tài liệu liên quan