MỞ ĐẦU . 4
1. Lý do chọn đề tài . 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 6
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu. 9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu . 9
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu. 9
6. Đóng góp của luận văn . 10
7. Kết cấu luận văn. 10
Chương 1. 11
CHỦ TRưƠNG CỦA ĐẢNG, NHÀ NưỚC VÀ ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HÀ
NỘI VỀ XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI . 11
1.1. Bối cảnh lịch sử . 11
1.1.1. Những kinh nghiệm quốc tế về xây dựng nông thôn mới . 11
1.1.2. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2008)). 16
1.1.2.1. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. 16
1.1.2.2. Những thành tựu đạt được . 21
1.2. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về xây dựng nông thôn mới. 23
1.3. Chủ trương của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về xây dựng nông thôn mới
(2008 - 2014).
32 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 554 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đảng bộ huyện Chương mỹ (Hà nội) lãnh đạo xây dựng nông thôn mới từ năm 2008 đến năm 2014, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới. Một số quốc gia khu vực Đông Nam Á đã thu được
những thành công nhất định trong phát triển nông thôn của đất nước mình nhờ áp dụng
kinh nghiệm này của Nhật Bản. Hiện nay, Nhật Bản vẫn đang áp dụng chính sách nông
nghiệp được thông qua từ năm 1971 để kiểm soát giá gạo sau khi sản lượng lúa gạo trong
nước vượt quá nhu cầu tiêu dùng. Chính phủ hỗ trợ nông dân bằng cách xuất tiền ngân
sách ra mua gạo cho dân mỗi khi gạo rớt giá.
- Mô hình Hàn Quốc: Phong trào Làng mới
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân của Hàn Quốc chỉ có 85 USD,
phần lớn người dân không đủ ăn, 80% dân nông thôn không có điện thắp sáng, sống
trong những căn nhà lợp bằng lá, trong khi lũ lụt và hạn hán xảy ra thường xuyên. Phong
trào Làng mới ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực vượt khó và hợp tác (hiệp
lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí điểm đầu tư cho nông thôn có hiệu quả,
Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động phong trào Làng mới và được nông dân
hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà mái lá bằng mái ngói, đường giao thông
trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp; các công trình phúc lợi công cộng được đầu tư
xây dựng. Phương thức canh tác được đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với
nhiều mặt hàng mũi nhọn như nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ
khuyến khích và hỗ trợ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện
thu nhập cho nông dân.
Bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những thay đổi hết sức kì diệu. Chỉ sau 8 năm, các
dự án phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn cơ bản được hoàn thành. Từ năm 1971 đến
1978, Hàn Quốc đã cứng hoá được 43.631 km đường làng nối với đường của xã (trung
bình 1.322 m/làng), cứng hoá đường ngõ xóm 42.220 km (trung bình 1.280 m/làng), 98%
hộ có điện thắp sáng. Đặc biệt, vì không có quỹ bồi thường đất và các tài sản khác nên việc
hiến đất, tháo dỡ công trình, cây cối đều do dân tự giác bàn bạc, thoả thuận, ghi công lao
đóng góp và hi sinh của các hộ nông dân cho làng, thôn. Nhờ phát triển giao thông nông
thôn nên các hộ có điều kiện mua sắm phương tiện sản xuất. Từ đó, tạo phong trào cơ khí
hoá trong sản xuất nông nghiệp, áp dụng công nghệ cao, giống mới, công nghệ nhà lưới,
nhà kính trồng rau đã thúc đẩy năng suất, giá trị sản phẩm tăng nhanh. Năm 1979, Hàn
Quốc đã có 98% số làng tự chủ về kinh tế. Chính phủ hỗ trợ một phần đầu tư hạ tầng để
nông thôn vươn lên, xốc lại tinh thấn, đánh thức khát vọng, tự tin. Từ mô hình Làng mới
của Hàn Quốc, có thể rút ra 6 bài học kinh nghiệm cho quá trình xây dựng nông thôn mới ở
Việt Nam, đó là:
Thứ nhất, phát huy nội lực của dân để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn với
phương châm “nhân dân quyết định và làm mọi việc”, “nhà nước bỏ ra 1 vật tư, nhân dân
bỏ ra 5 - 10 công sức và tiền của”. Dân quyết định loại công trình, dự án nào cần ưu tiên
trước, công khai bàn bạc, quyết định thiết kế và chỉ đạo thi công, nghiệm thu công trình.
Ví dụ như: năm 1971, Chính phủ Hàn Quốc chi hỗ trợ cho 33.267 làng, mỗi làng là 335
bao xi măng. Năm 1972, lựa chọn 1.600 làng làm tốt được hỗ trợ thêm 500 bao xi măng
và 1 tấn sắt thép. Dân làng tự quyết định mức đóng góp đất, ngày công cho dự án.
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập. Với kết cấu hạ tầng tốt, các đơn vị
chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, giống mới giúp nông dân tăng năng suất cây trồng, vật nuôi,
xây dựng vùng chuyên canh hàng hoá. Chính phủ xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn để
chế biến cũng như có chính sách tín dụng nông thôn, cho vay thúc đẩy sản xuất.
Thứ ba, đào tạo cán bộ phục vụ phát triển nông thôn. Chính phủ Hàn Quốc xác định
nhân tố quan trọng nhất để phát triển phong trào Làng mới là đội ngũ cán bộ cơ sở tự
nguyện và do dân bầu. Hàn Quốc đã xây dựng 3 trung tâm đào tạo quốc gia và mạng lưới
trường nghiệp vụ ở địa phương. Nhà nước đài thọ, mở các lớp học trong thời gian từ 1 - 2
tuần để trang bị kiến thức thiết thực như kỹ năng quản lý dự án, phát triển cộng đồng.
Thư tư, phát huy dân chủ để phát triển nông thôn. Hàn Quốc thành lập Hội đồng
phát triển xã, quyết định sử dụng trợ giúp của Chính phủ trên cơ sở công khai, dân chủ,
bàn bạc để triển khai các dự án theo mức độ cần thiết của địa phương. Thành công của
Hàn Quốc là xã hội hoá các nguồn hỗ trợ để dân tự quyết định lựa chọn dự án, phương
thức đóng góp, giám sát công trình.
Thứ năm, từ phát triển cộng đồng đã thiết lập lại các hợp tác xã kiểu mới phục vụ
trực tiếp nhu cầu của dân, cán bộ do dân bầu chọn. Phong trào Làng mới là bước ngoặt
đối với sự phát triển của hợp tác xã. Các hợp tác xã hoạt động đa dạng, hiệu quả trong
dịch vụ tín dụng, cung cấp đầu vào cho sản xuất, tiếp thị nông sản, bảo hiểm nông thôn
và các dịch vụ khác.
Thứ sáu, phát triển và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường bằng sức mạnh toàn dân.
Chính phủ quy hoạch, xác định chủng loại cây rừng phù hợp, hỗ trợ giống, tập huấn kỹ
thuật chăm sóc vườn ươm và trồng rừng, yêu cầu tất cả chủ đất trên vùng núi trọc đều
phải trồng rừng, bảo vệ rừng. Do vậy, nếu năm 1970, phá rừng còn là quốc nạn thì 20
năm sau, rừng xanh đã che phủ khắp nước, và được coi là kì tích của phong trào này.
Phong trào Làng mới của Hàn Quốc đã biến đổi cộng đồng vùng nông thôn cũ thành
cộng đồng nông thôn mới ngày một đẹp hơn và giàu hơn. Khu vực nông thôn trở thành
một xã hội năng động có khả năng tự tích luỹ, tự đầu tư và tự phát triển. Phong trào Làng
mới với mức đầu tư không lớn đã góp phần đưa Hàn Quốc từ một nuớc nông nghiệp lạc
hậu trở nên giàu có.
- Mô hình Thái Lan với sự trợ giúp mạnh mẽ của Nhà nước
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn chiếm
khoảng 80% dân số cả nước. Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để
tăng sức cạnh tranh với các hình thức, đẩy mạnh công tác tiếp thị, khai thác tài nguyên
một cách khoa học và hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác bừa bãi và
kịp thời phục hồi những khu vực bị suy thoái.
Hệ thống thuỷ lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc, góp
phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Chương
trình điện khí hoá nông thôn với việc xây dựng các trạm thuỷ điện vừa và nhỏ được triển
khai rộng khắp cả nước Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn nông
nghiệp, thuỷ, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông
sản cho tiêu dùng và xuất khẩu, nhất là xuất khẩu sang các nước công nghiệp phát triển.
Chính sách phát triển nông nghiệp: cơ cấu lại mặt hàng nông sản nhằm nâng cao chất
lượng và sản lượng của 12 mặt hàng trong đó có gạo, dứa, tôm sú, gà và cà phê. Chính phủ
cho rằng càng có nhiều nguyên liệu cho chế biến thì ngành công nghiệp chế biến lương
thực - thực phẩm mới phát triển và càng thu được nhiều ngoại tệ.
Chính sách bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm: năm 2004, Chính phủ Thái Lan
phát động chương trình “Năm an toàn thực phẩm và Thái Lan là bếp ăn của thế giới”
nhằm khuyến khích các nhà chế biến và nông dân có hành động kiểm soát chất lượng vệ
sinh thực phẩm để bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do đó,
ngày nay, thực phẩm chế biến của Thái Lan được người tiêu dùng ở các thị trường khó
tính như Hoa Kỳ, Nhật Bản và EU chấp nhận.
Mở cửa thị trường: Chính phủ Thái Lan đã xúc tiến đầu tư, thu hút mạnh mẽ các
nhà đầu tư nước ngoài vào liên doanh để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực
phẩm thông qua việc mở cửa cho các quốc gia vào đầu tư kinh doanh. Trong tiếp cận thị
trường xuất khẩu, Chính phủ là người đại diện thương lượng với chính phủ các nước để
các doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến. Bên
cạnh đó, Chính phủ Thái Lan có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và
đầu tư trực tiếp vào kết cấu hạ tầng.
- Mô hình" Tam nông" của Trung Quốc
Khi chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), cơ quan chức năng
Trung Quốc dự báo lao động trong nông nghiệp sẽ giảm khoảng 9,6 triệu người, cuộc
sống của nông dân càng khó khăn hơn do trình độ lạc hậu. Tuy nhiên, sau khi thực hiện
chính sách tam nông xây dựng một xã hội hài hoà, bộ mặt nông thôn Trung Quốc đã có
thay đổi vượt bậc. Ví dụ như thôn Gia Chủy trước đây là thôn đánh cá và trồng trọt nghèo
nhất huyện Cao Thuân (Giang Tô), từ khi mở mang nghề đóng tàu và vận tải thuỷ, nâng
cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, thôn này đã trở thành thôn điển hình toàn quốc về
nhiều mặt.
Yếu tố quyết định là lãnh đạo thông suốt, dám làm, quyết tâm cống hiến, kích
thích ý thức lập nghiệp và làm giàu của dân. Hiện Gia Chuỷ đã có những biệt thự nông
dân bên cạnh các “chung cư nông dân” nằm trong quy hoạch nông thôn mới. Phát triển
các doanh nghiệp nông nghiệp là một giải pháp để Trung Quốc thực hiện chính sách tam
nông hiệu quả. Chính phủ Trung Quốc đã thi hành một loạt biện pháp theo phương châm
“cho nhiều, thu ít, tạo nhiều việc làm” giúp tăng thu nhập. Đó là:
Không ngừng tăng đầu tư của Nhà nước cho phát triển nông nghiệp, ngày càng
chú trọng tới khu vực nông thôn về các mặt tài chính, thu thuế, tích cực giảm bớt khó
khăn về tài chính cho khu vực nông thôn, tăng thêm ngân sách cho phát triển giáo dục, y
tế, văn hoá đối với khu vực nông thôn, tăng cường chính sách trợ cấp đối với nông dân.
Đẩy mạnh phát triển xí nghiệp hương trấn, nhanh chóng đưa tiến bộ kỹ thuật vào sản
xuất, phát triển các ngành tập trung lao động cao và dịch vụ ở nông thôn, tăng cường thu
hút nguồn lao động nông thôn làm việc tại địa phương.
Công nghiệp hoá nông nghiệp, trồng rau do máy vi tính điều khiển, tiếp thị sản phẩm
nông nghiệp qua mạng internet. Một tầng lớp công nhân nông nghiệp ra đời.
Ngoài việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất, Trung Quốc còn thúc đẩy cải tổ việc quản lý
trong nông nghiệp và hệ thống phân phối sản phẩm. Điều này còn quan trọng hơn việc
tăng tính cạnh tranh của sản phẩm. Chính phủ cố gắng đưa các giống mới chất lượng cao
vào sản xuất và hỗ trợ tìm kiếm thị trường mới cho nông sản. Nhờ một loạt chính sách hỗ
trợ của Chính phủ, việc giảm diện tích canh tác liên tiếp trong nhiều năm qua đã dừng lại.
Thu nhập của nông dân tăng rõ rệt. Nông nghiệp đang được điều chỉnh cơ cấu sản xuất để
các sản phẩm có tính cạnh tranh hơn.
Một số kinh nghiệm trong phát triển nông nghiệp - nông thôn của một số nước cho
thấy những ý tưởng sáng tạo, khâu đột phá và sự trợ giúp hiệu quả của Nhà nước trên cơ
sở phát huy tính tự chủ, năng động, sáng tạo, trách nhiệm của người nông dân để phát
triển khu vực này, có ý nghĩa và vai trò hết sức quan trọng đối với việc công nghiệp hoá -
hiện đại hoá thành công nông nghiệp, tạo nền tảng thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá -
hiện đại hoá đất nước.
1.1.2. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong thời kỳ đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2008))
1.1.2.1. Những chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn
Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân và nông thôn có vai trò rất quan trọng trong
suốt quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong hơn 30 năm qua, nông nghiệp,
nông dân và nông thôn lại đi trước mở đường trong quá trình đổi mới, tạo điều kiện để
đất nước vươn lên. Chính vì vậy mà Đảng và Nhà nước luôn có những chính sách hỗ trợ,
xây dựng và phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn một cách có hiệu quả và bền
vững.
Tuy nhiên, trước khi bước vào công cuộc đổi mới, vấn đề nông nghiệp, nông thôn
chưa được đặt đúng vị trí của nó. Trong một thời gian dài, công nghiệp nặng luôn được
đặt ở vị trí ưu tiên. Mặc dù Đại hội lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) xác định rõ hơn
vai trò cơ sở của nông nghiệp, song tư tưởng chủ đạo trong nhiều năm tiếp theo vẫn là
nhấn mạnh công nghiệp nặng.
Đại hội V của Đảng (tháng 3/1982) bước đầu chỉ ra sai lầm thiếu chuẩn bị đầy đủ
những điều kiện, tiền đề cần thiết cho phát triển nông nghiệp. Đây là sự điều chỉnh trong
quan điểm của Đảng về vị trí của kinh tế nhà nước, song trong chỉ đạo và hoạch định
chính sách nông nghiệp chưa thực sự được coi là mặt trận hàng đầu, không đảm bảo cho
những điều kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến
khích. Công nghiệp nặng không phục vụ kịp thời cho nông nghiệp và công nghiệp nhẹ.
Với tinh thần đổi mới toàn diện, bắt đầu đổi mới từ tư duy kinh tế, Đại hội VI của
Đảng (tháng 12/1986) chỉ rõ: "Muốn đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng rối ren, mất cân
đối, phải dứt khoát sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý” [13,tr.44+. Đại hội
nhấn mạnh nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp tiến một bước theo
hướng sản xuất lớn. Việc xây dựng và thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (lương thực -
thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu) đều liên quan trực tiếp đến nông nghiệp .
Đó là sự cụ thể hóa nội dung chính của công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong chặng
đường đầu tiên của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị (khóa VI) ra Nghị quyết
10-NQ/TW "Về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp". Quan điểm cơ bản của
Đảng về quản lý nông nghiệp là coi hợp tác xã như đơn vị kinh tế tự quản, hộ gia đình xã
viên là đơn vị kinh tế tự chủ, nhận khoán với hợp tác xã. Bộ Chính trị chỉ rõ: "Đổỉ mới
quản lý kinh tế nông nghiệp nhằm khắc phục các nhược điểm, sai lầm trong các chính
sách lớn đối với nông nghiệp". Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị chủ trương sắp xếp và tổ
chức lại sản xuất nông nghiệp theo hướng chuyên môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng
hợp, gắn với trồng trọt chăn nuôi; gắn nông - lâm - ngư nghiệp với công nghiệp chế biến
và các ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn... Đây chính là bước đột phá mở đầu cho
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng sản xuất hàng hóa.
Tháng 3/1989, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VI)
khẳng định những chuyển biến quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
từ khi thực hiện Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, đồng thời bổ sung, làm rõ thêm tư
tưởng đổi mới, thể hiện ở ba quan điểm lớn: - Mọi tổ chức sản xuất kinh doanh do
người lao động tự góp vốn, góp sức và quản lý theo nguyên tắc dân chủ, không phân
biệt quy mô, trình độ kỹ thuật, mức độ tập thể hóa là hợp tác xã; - Hợp tác xã và tập
đoàn sản xuất là các đơn vị kinh tế hợp tác với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuấ t; - Gia đình xã viên đã trở thành đơn vị sản xuấ t kinh tế tự chủ, ngoài
việc nhận khoán sử dụng ruộng đất, thực hiện các hợp đồng với hợp tác xã còn chủ động phát triển
sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức, khuyến khích xã viên làm giàu,
đồng thời có chính sách, biện pháp cụ thể để giúp các hộ nghèo có thêm điều kiện để
vươn lên làm ăn tốt.
Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định: “Phát triển nông - lâm - ngư
nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây
dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình
kinh tế - xã hội. Xây dựng phương án tổng thể trên từng vùng, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý về nông - lâm - ngư -
công nghiệp phù hợp với sinh thái vùng, bảo vệ tài nguyên, gắn phát triển nông - lâm -
ngư nghiệp với phát triển ngành tiểu thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến bằng công
nghệ thích hợp, xây dựng các điểm kinh tế - kỹ thuật dịch vụ ở từng vùng và tiểu vùng;
xây dựng kết cấu tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở nông thôn” [76, tr.63].
Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được trong nông nghiệp, nông thôn, để đẩy
mạnh phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội nông thôn, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khóa VII (tháng 6/1993) ra Nghị quyết "Về tiếp tục đổi mới và
phát triển kinh tế - xã hội nông thôn". Hội nghị đánh giá trực tiếp thực trạng nông
nghiệp, nông thôn, xác định mục tiêu, quan điểm đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội
nông thôn từ năm 1993 đến năm 2000, đồng thời đề ra phương hướng và giải pháp cụ
thể để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, xây dựng nông thôn
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị xác định mục tiêu: Một là, phát triển
nhanh, bền vững nông - lâm - ngư, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ nông
thôn, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh để thu hút đại bộ phận lao động dư
thừa, tăng năng suất lao động, giải quyết vững chắc nhu cầu lương thực, thực phẩm,
đáp ứng nhu cầu nguyên vật liệu cho công nghiệp và tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu,
bảo vệ môi trường sinh thái. Hai là, cải thiện một bước đời sống văn hoá của nông dân,
tăng diện giàu và đủ ăn, xóa đói, giảm nghèo. Ba là, xây dựng nông thôn mới . Đồng
thời, qua đó đề ra phương hướng và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nông thôn một
cách cụ thể, phù hợp.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã xác
định một hệ thống quan điểm đồng bộ về ba vấn đề lớn: nông nghiệp, nông thôn và nông
dân, gắn phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới với nâng cao đời sống
nông dân. Cũng trong giai đoạn này, Nhà nước cũng ban hành Luật Đất đai xác định
những quan điểm cơ bản của Đảng về vấn đề đất đai. Các hộ tư nhân được đầu tư phát
triển giống cây, khai thác đất trống, đồi núi trọc ở các vùng trung du, miền núi, bãi bồi ven
biển, nuôi trồng và khai thác thủy sản, xây dựng nông - lâm - ngư trại với quy mô thích
hợp. Điều này chứng tỏ rằng, Nhà nước đã trao thêm cho các tổ chức kinh tế, cá nhân
người lao động và hộ nông dân trách nhiệm và quyền tự chủ sản xuất kinh doanh trong
lĩnh vực nông - lâm - ngư nghiệp, trong đó có mô hình kinh tế phát triển theo xu hướng
trang trại. Cùng với Luật Đất đai, Luật Thuế sử dụng đất nông nghiệp được Quốc hội thông
qua (tháng 7/1993) có vị trí quan trọng với sự phát triển của các thành phần kinh tế, nhất
là kinh tế hộ gia đình, khuyến khích hộ gia đình sử dụng có hiệu quả đất đai và bảo đảm
công bằng, hợp lý sự đóng góp của hộ gia đình sử dụng đất nông nghiệp vào ngân sách
của Nhà nước. Các đạo luật trên là cơ sở pháp lý rất quan trọng, tạo nền tảng cho kinh tế
hộ, kinh tế trang trại phát triển.
Tháng 7/1994, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII đã xác
định ba chủ trương lớn về phát triển kinh tế công nghiệp và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong năm tới là: công nghiệp hóa - hiện đại hóa và kinh tế nông thôn, phát triển toàn
diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến, phát triển mạnh công nghiệp
sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu, mở rộng thương nghiệp, dịch vụ, dịch vụ ở
cả thành thị và nông thôn, đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại khác.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996), trên cơ sở đánh
giá tình hình 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, bối cảnh trong nước và quốc tế đã
xác định mục tiêu, nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá và quyết tâm đưa nước
ta cơ bản thành một nước công nghiệp vào năm 2020. Đại hội cũng xác định rõ các nội
dung và giải pháp lớn để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá công nghiệp, nông
thôn.
Trong thời gian này, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương, chính sách
nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn Việt Nam thông qua nhiều chương trình hỗ trợ
phát triển sản xuất nông nghiệp như Chương trình Giống, Chương trình Khoa học - công
nghệ, Chương trình Khuyến nông, khuyến công... Bên cạnh đó, một số chương trình dự
án mang tính phát triển nông thôn như: Dự án Cơ sở hạ tầng nông thôn, Chương trình
Mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, Chương trình Phát
triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc miền núi (Chương trình 135),
Chương trình Quốc gia về xoá đói giảm nghèo và việc làm. Những chương trình, dự án
này đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của nông thôn, kinh tế nông thôn phát triển, cơ sở
hạ tầng được ưu tiên đầu tư, đời sống cư dân được cải thiện, điều kiện ở, đi lại, học tập,
chăm sóc sức khoẻ được quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, những chương trình, dự án
này hoặc mới chỉ giải quyết một số khía cạnh riêng rẽ hoặc nhằm mục tiêu xoá đói, giảm
nghèo cho những vùng đặc biệt khó khăn, vùng nghèo mà chưa mang tính toàn diện,
tổng thể nhằm tạo ra một phong trào phát triển nông thôn mang tính sâu rộng, bền
vững, có khả năng nhân rộng trên phạm vi cả nước. Hơn nữa, nhiều chương trình mang
tính dàn trải, bình quân chủ nghĩa, hỗ trợ đồng đều cho các hộ dân, các xã hoặc lấy các
tiêu chí cơ bản để hỗ trợ hộ nghèo, xã nghèo. Vì vậy, nơi nào càng nghèo thì càng được
quan tâm và nhận đuợc nhiều hỗ trợ, nên, thay vì phấn đấu vươn lên tự chủ thì các xã
thường có thiên hướng phấn đấu trở thành “xã nghèo” và người dân phấn đầu trở
thành “hộ nghèo”. Đồng thời, ta cũng chưa có cơ chế khuyến khích, động viên, khen
thưởng kịp thời những điển hình làm tốt, các hộ năng động, sáng tạo. Do đó, trong một
chừng mực nào đó, các chuơng trình, dự án này chưa phát huy được nội lực, tinh thần
ganh đua lành mạnh giữa các cộng đồng, chưa khuyến khích người làm tốt, làm hay,
chưa có cơ chế khen thưởng thích đáng cho những làng, xã chủ động vươn lên thoát
nghèo, làm giàu.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X họp tại Hà Nội (18 - 25/4/2006), một lần nữa
khẳng định cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó có nội
dung xây dựng nông thôn mới: Khẩn trương xây dựng hoàn chỉnh các quy định phát
triển nông nghiệp và nông thôn. Thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây
dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình
thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ như: thuỷ
lợi, giao thông, điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ.
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ
dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; bảo đảm an ninh trật tự, an
toàn xã hội” *17, tr.633].
Như vậy, xây dựng và phát triển nông thôn mới ban đầu là công cuộc xây dựng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Đảng ta có những bước chuyển
đổi dần về nhận thức, tư tưởng và lãnh đạo, chỉ đạo. Xây dựng nông thôn mới là một
trong mười lăm chương trình mục tiêu quốc gia được Chính phủ phê duyệt, là chương
trình lớn, có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo diện mạo mới cho nông thôn Việt Nam.
1.1.2.2. Những thành tựu đạt được
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông
nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được những thành tựu khả quan và to lớn.
Nông nghiệp tiếp tục phát triển với tốc độ khá cao theo hướng sản xuất hàng hoá, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia;
một số hàng xuất khẩu chiếm vị thế cao trên thị trường thế giới. Kinh tế nông thôn
chuyển dịch theo hướng tăng công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề; các hình thức tổ chức
sản xuất liên tục đổi mới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được tăng cường, nhất là thuỷ
lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất từng bước làm thay đổi bộ mặt nông
thôn.; bộ mặt nông thôn thay đổi. Đời sống vật chất, tinh thần của dân cư ở hầu hết các
vùng nông thôn ngày càng được cải thiện. Năm 2007, thu nhập bình quân đầu người ở khu
vực này tăng 2,7 lần so với năm 2000. Xoá đói, giảm nghèo đạt kết quả to lớn, đặc biệt là
về cơ bản đã xoá đói, tỷ lệ hộ nghèo hạ xuống còn 18%. Đồng thời, công tác chăm sóc sức
khoẻ, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hoá, thông tin, thể thao được quan tâm và
đẩy mạnh hơn. Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố và tăng cường. Dân chủ cơ
sở được phát huy. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Vị thế chính trị
của giai cấp nông dân ngày càng được nâng cao.
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa xứng tầm với tiềm nămg, lợi thế và chưa
đồng đều giữa các vùng. Nông nghiệp còn phát triển kém bền vững, tốc độ tăng trưởng
có xu hướng giảm dần, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt nguồn lực cho phát triển
sản xuất; nghiên cứu, chuyển giao khoa học - công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn
hạn chế. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cách thức sản xuất trong nông
nghiệp còn chậm, phổ biến là sản xuất nhỏ phân tán; năng suất chất lượng thấp, chưa thúc
đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động ở nông thôn. Các hình thức tổ chức
sản xuất chậm đổi mới, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hóa.
Nông nghiệp, nông thôn phát triển thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn
yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm; năng lực thích ứng, đối phó với thiên tai còn
nhiều hạn chế. Đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo còn cao, nhất là vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng xa; chênh lệch giàu, nghèo
giữa nông thôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004375_0346_2006690.pdf