Luận văn Đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk

Lời cam đoan

Lời cảm ơn

Danh mục viết tắt

Danh sách các bảng biểu

PHẦN MỞ ĐẦU . 1

1. Tính cấp thiết của đề tài . 1

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn . 4

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn . 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn . 6

5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn. 7

6. Ý nghĩa về lý luận và thực tiễn của luận văn. 8

7. Kết cấu của luận văn. 8

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC LÃNH ĐẠO,

QUẢN LÝ CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UỶ BAN NHÂN

DÂN CẤP HUYỆN . 10

1.1. Tổng quan về công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn

thuộc UBND cấp huyện . 10

1.2. Đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc

UBND cấp huyện. 19

1.3. Kinh nghiệm đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý của một số địa

phương trong nước . 36

Tiểu kết chương 1 . 39

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ CÔNG CHỨC LÃNH ĐẠO,

QUẢN LÝ CÁC CƠ QUAN CHUYÊN MÔN THUỘC UỶ BAN NHÂN

DÂN THỊ XÃ BUÔN HỒ, TỈNH ĐẮK LẮK . 40

2.1. Thực trạng đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk . 40

2.2. Thực trạng đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên

môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk . 54

2.3. Nhận xét công tác đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan

chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk. 75

Tiểu kết chương 2 . 81

pdf128 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 16/03/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n còn số ít công chức lãnh đạo, quản lý là cấp phó chưa đảm bảo về tiêu chuẩn lý luận chính trị theo quy định. Bảng 2.6. Trình độ Lý luận chính trị của công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ đến năm 2018 Trình độ LLCT Số lƣợng (ngƣời) Tỷ lệ (%) Cao cấp 29 87,88 Trung cấp 2 6,06 Sơ cấp 2 6,06 Tổng cộng 33 100 Nguồn: Ban Tổ chức Thị ủy Buôn Hồ 52 Nguyên nhân của tình trạng trên là do trước đây vì yêu cầu nhiệm vụ nên khi thực hiện việc bổ nhiệm vị trí cấp phó chủ yếu chỉ xem xét về trình độ chuyên môn để bổ nhiệm nhằm giải quyết công việc, do đó có lúc phải “nợ” chỉ tiêu về lý luận chính trị. Hiện tại, các đồng chí đang tham gia các lớp đào tạo lý luận chính trị tại địa phương. - Trình độ ngoại ngữ: Đối với công chức lãnh đạo, quản lý trên một địa bàn với đặc thù là miền núi như thị xã Buôn Hồ thì nhìn chung trình độ về ngoại ngữ cũng ít phản ánh về năng lực công tác và quá trình đánh giá đối với những đối tượng này. Việc giao tiếp và sử dụng ngoại ngữ để phục vụ trong công tác chuyên môn hầu như là rất ít. Kết quả thống kê năm 2018 có 72,73% công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ có trình độ và các chứng chỉ về ngoại ngữ, tuy nhiên gần như là không được sử dụng trong quá trình thực thi công vụ. Do đó, việc sử dụng ngoại ngữ không ảnh hưởng nhiều trong quá trình nhận xét, đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý. - Khả năng am hiểu và giao tiếp bằng tiếng đồng bào dân tộc: Hiện nay, trên địa bàn thị xã Buôn Hồ, dân tộc thiểu số chiếm 29,4% dân số toàn thị xã; có 05 công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ là người dân tộc thiểu số; có trên 90% công chức lãnh đạo, quản lý có chứng chỉ tiếng dân tộc, đây là một yếu tố cực kỳ quan trọng hỗ trợ cho công chức lãnh đạo, quản lý trong quá trình về cơ sở. Điều đó cũng có tác dụng lớn để xem xét trong việc đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý. - Trình độ tin học: Trình độ tin học là một trong những điều kiện quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ hiện nay, nhất là khi UBND thị xã Buôn Hồ triển khai văn bản điện tử qua hệ thống Idesk. Theo thống kê, đến năm 2018 có 78,79% công 53 chức lãnh đạo, quản lý có chứng chỉ tin học, còn 21,21 % công chức lãnh đạo, quản lý chưa có chứng chỉ tin học, trong đó có cả những vị trí cấp trưởng, hầu hết tập trung ở những người trong độ tuổi từ 51-60. Trên thực tế một số công chức lãnh đạo, quản lý tuy chưa có chứng chỉ về tin học ngoại ngữ nhưng quá trình lãnh đạo, chỉ đạo vẫn thực hiện được một số thao tác thông thường, còn một số đồng chí hầu như là bị động trong việc sử dụng, ứng dụng CNTT. Đây cũng là một trong những khó khăn, trở ngại trong công tác lãnh đạo, điều hành, là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến công tác đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý. 2.1.4. Nhận xét chung 2.1.4.1. Ưu điểm - Số lượng công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ được bố trí đảm bảo đúng theo tinh thần Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ, không có bộ phận nào có 03 cấp phó. - Về độ tuổi công chức lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ cơ bản đảm bảo giữa các độ tuổi, có tính kế thừa; cấp trưởng hầu hết là những người công tác lâu năm, nhiều kinh nghiệm trong công tác. - Trình độ chuyên môn cơ bản đáp ứng được yêu cầu về tiêu chuẩn chức danh, một số đồng chí có trình độ thạc sĩ phù hợp với vị trí việc làm; trình độ ngoại ngữ, tin học, sự am hiểu và khả năng giao tiếp bằng tiếng đồng bào dân tộc cơ bản tốt. Những nội dung này hầu như có ảnh hưởng, tác động đến việc đánh giá công chức, lãnh đạo, quản lý. 2.1.4.2. Những tồn tại, hạn chế 54 - Vẫn còn một số công chức lãnh đạo, quản lý lớn tuổi tuy có nhiều kinh nghiệm trong công tác song lại thiếu nhiệt tình, ít phát huy hiệu quả trong vai trò lãnh đạo, điều hành công việc. - Vẫn còn tỷ lệ công chức ở vị trí cấp phó chưa có tiêu chuẩn về lý luận chính trị theo quy định; - Một số công chức lãnh đạo, quản lý còn hạn chế trong việc ứng dụng, sử dụng công nghệ thông tin, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng công việc. 2.2. Thực trạng đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk 2.2.1. Hệ thống văn bản pháp lý đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ Hiện nay, công tác đánh giá công chức tại UBND thị xã Buôn Hồ thực hiện dựa trên những văn bản pháp lý sau đây: - Luật Cán bộ, công chức số 22/2008/QH12 do Quốc hội ban hành ngày 13/11/2008. - Nghị định số 06/2010/NĐ-CP, ngày 25/01/2010 của Chính phủ Quy định những người là công chức. - Quyết định số 286-QĐ/TW, ngày 08/02/2010 của Bộ Chính trị (khóa X) về việc ban hành quy chế đánh giá cán bộ, công chức. - Nghị định số 24/2010/NĐ-CP, ngày 15/3/2010 của Chính phủ về quy định tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; - Nghị định số 56/2015/NĐ-CP, ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức. - Nghị định số 88/2017/NĐ-CP, ngày 27/7/2017 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 của Chính phủ về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức. 55 - Hướng dẫn số 8107/UBND-TH, ngày 02/11/2015 của UBND tỉnh Đắk Lắk về hướng dẫn chi tiết công tác đánh giá phân loại cán bộ, công chức, viên chức và người lao động hàng năm. - Công văn số 1616/UBND-NV, ngày 10/11/2015 của UBND thị xã Buôn Hồ về việc hướng dẫn đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức năm 2015 (văn bản đầu tiên sau khi có Nghị định số 56/2015/NĐ-CP). - Các văn bản hàng năm của UBND thị xã Buôn Hồ về việc hướng dẫn đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức. - Báo cáo hàng năm về đánh giá cán bộ, công chức của UBND thị xã. Nhìn chung, trong những năm qua, công tác đánh giá tại UBND thị xã Buôn Hồ đã vận dụng đầy đủ các văn bản và thực hiện đúng quy trình, thủ tục về công tác đánh giá theo quy định của cấp trên. Tuy nhiên, qua khảo sát cho thấy, 13/13 cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ không ban hành quy chế và tiêu chí riêng, hàng năm chỉ căn cứ vào quy định chung của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP và các văn bản của Sở Nội vụ tỉnh Đắk Lắk, của UBND thị xã. Đây là một hạn chế lớn trong công tác đánh giá, vì các văn bản đánh giá từ cấp trên là sự quy định chung về nội dung, trình tự, mục đích, tiêu chí đánh giá, còn việc đánh giá chi tiết như thế nào thì chỉ có từng cơ quan, đơn vị mới hiểu sâu để đưa ra các tiêu chí cho phù hợp. Công tác phổ biến, quán triệt các quy định về đánh giá chưa thực sự được quan tâm và thực hiện thường xuyên, kỹ lưỡng. Nhiều công chức, trong đó có cả những người đứng đầu ít quan tâm đến công tác đánh giá, vì vậy có lúc, có nơi làm cho kết quả đánh giá rơi vào cảm tính, chung chung, không dựa vào các tiêu chí cụ thể, chưa phản ánh đúng thực tế. Thực trạng trên cho thấy, khi công tác đánh giá chưa được quan tâm đúng mức và việc xây dựng quy chế đánh giá riêng ở từng cơ quan chưa được 56 thực hiện thì công tác đánh giá sẽ gặp rất nhiều khó khăn, dẫn đến tính không chính xác, khách quan và công bằng trong đánh giá. 2.2.2. Tuân thủ các yêu cầu và nguyên tắc đánh giá Việc đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ bên cạnh tuân thủ các yêu cầu chung về đánh giá công chức thì phải thực hiện những yêu cầu riêng đối với từng vị trí lãnh đạo, quản lý. Cụ thể: Đối với nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng: Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ luôn thực hiện đánh giá theo định hướng, đường lối của Đảng và Nhà nước, mà trực tiếp là các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo hướng dẫn về công tác đánh giá hàng năm của Thị ủy, Ủy ban Nhân dân thị xã trên cơ sở của Trung ương và tỉnh Đắk Lắk; đồng thời, chịu sự chỉ đạo, điều hành thông qua đội ngũ đảng viên là lãnh đạo, quản lý. Hiện nay, 100% công chức giữ chức vụ cấp trưởng, cấp phó trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã là đảng viên, trong đó cấp trưởng hầu hết là Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ thị xã, do đó nắm vững mục tiêu, nguyên tắc trong đánh giá, nhất là trong việc chủ trì, định hướng công tác đánh giá; đồng thời, trong đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý thì trách nhiệm đảng viên luôn gắn liền với trách nhiệm công chức. Công chức lãnh đạo, quản lý bên cạnh được đánh giá theo các nội dung Nghị định số 56/2015/NĐ -CP của Chính phủ thì hàng năm phải đánh giá về mặt đảng viên theo tinh thần Quyết định số 286-QĐ/TW ngày 08/02/2010 của Bộ Chính trị về việc ban hành quy chế đánh giá cán bộ, công chức; Hướng dẫn số 27-HD/BTCTW, ngày 25/9/2014 của Ban Tổ chức Trung ương về kiểm điểm tập thể, cá nhân và đánh giá, phân loại chất lượng TCCS Đảng, đảng viên hàng năm và Hướng dẫn số 16-HD/BTCTW, ngày 24/9/2018 của Ban Tổ chức Trung ương về kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hàng 57 năm đối với tổ chức đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (hiện nay được thay thế bằng Hướng dẫn số 21-HD/BTCTW, ngày 18/10/2019 của Ban Tổ chức Trung ương). Tuy nhiên, việc đánh giá đối với công chức lãnh đạo, quản lý là đảng viên chịu quy định của 02 hệ thống văn bản là Nghị định số 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ và Quyết định số 286-QĐ/TW của Bộ Chính trị. Qua khảo sát có 13/33 (39,39%) ý kiến cho rằng những khó khăn, bất cập trong công tác đánh giá hiện nay xuất phát từ chồng chéo trong các quy định về đánh giá công chức của Đảng và Nhà nước. Điều này cho thấy một số công chức lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ nhận thức chưa đúng và đầy đủ về các quy định đánh giá công chức, theo Quyết định số 286-QĐ/TW thì chủ thể thực hiện Quyết định này là cơ quan Đảng ở các cấp chứ không phải là hệ thống cơ quan Nhà nước. Do đó, trong giai đoạn hiện nay Nhà nước cần nghiên cứu, hướng dẫn nội dung này cho phù hợp để công tác đánh giá giữa mặt công chức và đảng viên có sự thống nhất, tránh một người phải làm nhiều văn bản tự đánh giá, cũng là nhằm đảm bảo thống nhất sự lãnh đạo của Đảng trong công tác đánh giá đối với công chức lãnh đạo, quản lý. Đối với nguyên tắc tập trung dân chủ: Nguyên tắc này được các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ thực hiện khá tốt, quá trình đánh giá có sự vận dụng kết hợp hài hòa giữa tập trung và dân chủ trong đánh giá. Dân chủ nhằm mở rộng, tạo điều kiện để nhiều đối tượng được tham gia vào công tác đánh giá và ở các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã đã có sự tham gia của nhiều chủ thể trong đánh giá, như tập thể đơn vị nơi công chức lãnh đạo, quản lý công tác, công dân (qua việc phản ánh của công dân trong tiếp xúc, giải quyết công việc), qua đồng nghiệp (qua công tác phối hợp với các cơ quan, đơn vị). 58 Thông qua đó thu thập được nhiều ý kiến đánh giá khác nhau và đây là nguồn thông tin tham khảo để chủ trì đưa ra kết quả xếp loại đánh giá cuối cùng. Tuy nhiên, việc đánh giá tại 13/13 cơ quan chuyên môn cho thấy vẫn còn thực trạng là hầu hết các cuộc họp để đánh giá và phân tích chất lượng đối với công chức lãnh đạo, quản lý hàng năm thì cấp dưới rất ít nhận xét cho cấp trên, phần lớn chỉ nhận xét những ưu điểm, ít đề cập đến khuyết điểm, thậm chí có một số trường hợp bỏ qua hoặc bao che cho khuyết điểm; một số trường hợp còn nể nang, e ngại hoặc không dám nhận xét cho cấp trên của mình. Bên cạnh đó ý kiến nhận xét của đồng nghiệp tại các cơ quan chuyên môn trong quá trình phối hợp là rất ít, cũng xuất phát từ tâm lý nể nang lẫn nhau; riêng ý kiến của công dân nhận xét cho công chức lãnh đạo, quản lý cũng rất ít, xuất phát từ tâm lý e ngại, trong khi đó người làm công tác đánh giá chưa chủ động trong việc thu thập ý kiến từ những đối tượng này. Như vậy, quá trình đánh giá có lúc mang tính dân chủ hình thức, chưa đánh giá và phản ánh đúng thực chất. Đó cũng là nguyên nhân mà một số công chức lãnh đạo, quản lý khó nhìn thấy được hạn chế của mình trong nhiều năm qua, từ đó dẫn tới chất lượng, hiệu quả công việc chưa tạo được nhiều chuyển biến và đột phá trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ. Bảo đảm đúng thẩm quyền: Nguyên tắc này đã được các cơ quan chuyên môn thực hiện đúng quy định. Cấp phó của đơn vị sẽ do cấp trưởng quyết định và đưa ra kết quả đánh giá cuối cùng; đối với cấp trưởng thì việc nhận xét là do tập thể công chức và người lao động của đơn vị thực hiện, còn việc xếp loại cuối cùng là do Chủ tịch UBND thị xã trực tiếp thực hiện trên cơ sở tham khảo ý kiến của tập thể đơn vị nơi công chức lãnh đạo, quản lý trực tiếp phụ trách và ý kiến của tập thể lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã; theo đó người đánh giá cuối cùng sẽ chịu trách nhiệm về kết quả đánh giá, phân loại. 59 Thực hiện nguyên tắc khách quan, công bằng, toàn diện, lịch sử và phát triển: Kết quả xếp loại công chức tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ được tổng hợp từ những luồng ý kiến khác nhau trên cơ sở khách quan, khoa học, từ đó góp phần tạo ra sự công bằng trong đánh giá. Nội dung đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý được thực hiện khá toàn diện trên tất cả các mặt như: tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, năng lực, trình độ chuyên môn, kết quả thực hiện nhiệm vụ, kết quả hoạt động của cơ quan, đơn vị, năng lực lãnh đạo, quản lý, năng lực tập hợp... Thực hiện nguyên tắc lịch sử, phát triển trong đánh giá, các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ luôn chú trọng tới quá trình làm việc và sự nỗ lực của công chức, nhất là khả năng lãnh đạo, tập hợp và tạo động lực cho cấp dưới thực thiện nhiệm vụ, từ đó đưa ra những nhận xét thiết thực về ưu điểm cũng như hạn chế của từng công chức lãnh đạo, quản lý, giúp công chức phát huy những mặt mạnh, khắc phục những yếu kém từ đó phát triển hơn trong tiến trình làm việc tại cơ quan, đơn vị. Thực hiện nguyên tắc đánh giá dựa vào chức trách của công chức lãnh đạo, quản lý và kết quả thực hiện nhiệm vụ: Nguyên tắc này thực hiện trên cơ sở phân chia các tiêu chí đánh giá riêng cho vị trí lãnh đạo, quản lý và công chức là đảng viên. Đối với công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý, do tính chất quan trọng của vai trò lãnh đạo, điều hành nên yêu cầu về các tiêu chí đánh giá của họ cao hơn, khắt khe hơn. Đối với công chức là đảng viên thì họ là những người tiêu biểu được lựa chọn đứng vào hàng ngũ của Đảng, vì thế bên cạnh việc chịu sự chi phối chung của mỗi công chức họ còn bị chi phối bởi Điều lệ Đảng và những chuẩn mực của người đảng viên. 60 Hiện nay, công tác đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý trên địa bàn thị xã Buôn Hồ được thực hiện khá chặt chẽ trên cơ sở xem xét kết quả của tập thể để đánh giá, xếp loại đối với người đứng đầu, đảm bảo tinh thần Nghị định số 56/2015/NĐ-CP và các hướng dẫn kiểm điểm, đánh giá, xếp loại chất lượng hàng năm đối với tổ chức Đảng, đảng viên và tập thể, cá nhân cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, theo đó quy định mức xếp loại chất lượng của người đứng đầu không được cao hơn mức xếp loại của tập thể lãnh đạo, quản lý và tổ chức, cơ quan, đơn vị do mình là người đứng đầu; đồng thời, kết quả đánh giá công chức là một trong những cơ sở quan trọng để Ban Thường vụ Thị ủy đánh giá về mặt đảng viên đối với từng công chức lãnh đạo, quản lý. Việc đánh giá về mặt đảng viên không được cao hơn mức đánh giá về mặt công chức (ví dụ công chức lãnh đạo, quản lý được đánh giá về mặt công chức là hoàn thành tốt nhiệm vụ thì khi đánh giá về nhiệm vụ đảng viên không được vượt quá mức này, tức là không thể đánh giá ở mức đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ). Điều này được thực hiện khá tốt tại một số cơ quan chuyên môn, nhất là trong năm 2018. Tuy nhiên, vấn đề này cũng thể hiện một số bất cập như, trong quá trình đánh giá, xếp loại có những công chức lãnh đạo, quản lý hoạt động rất tích cực, có nhiều thành tích quan trọng được ghi nhận, nhưng vì tập thể bị đánh giá ở mức thấp hơn nên kéo theo kết quả đánh giá đối với công chức lãnh đạo, quản lý, điều này tạo nên tâm lý hụt hẫng đối với một số công chức lãnh đạo, quản lý. 2.2.3. Tiêu chí đánh giá Trên cơ sở khoa học về các nhóm tiêu chí đánh giá, việc đánh giá công chức lãnh đạo, quản lý tại các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ được cụ thể hóa với các tiêu chí như sau: 61 Chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước: Đây là tiêu chí đầu tiên mà mỗi công chức phải thực hiện, phải là người đi đầu trong việc chấp hành các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước; bên cạnh phải chấp hành thì công chức còn phải giải thích và vận động, động viên gia đình, quần chúng Nhân dân chấp hành, như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói, họ là “những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành; đồng thời, đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. Do đó, đây là tiêu chí đầu tiên khi đánh giá về công chức, nhất là công chức là đảng viên, công chức giữ vị trí lãnh đạo, quản lý - nhóm chủ thể đặc biệt. Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc: Tiêu chí này kiểm điểm sâu sắc chủ yếu trên các nội dung như: Kết quả học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giữ gìn đạo đức, lối sống, có để người thân lợi dụng chức vụ, quyền hạn trục lợi không; đánh giá về tinh thần cầu thị, lắng nghe, tiếp thu sửa chữa khuyết điểm và đấu tranh với các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, lãng phí, lối sống thực dụng, nói không đi đôi với làm. Tính trung thực, khách quan, chân thành trong tự phê bình, phê bình và xây dựng đoàn kết nội bộ. Đối với công chức là đảng viên, ngoài nội dung kiểm điểm trên, việc kiểm tra, đánh giá các nội dung về đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị; vấn đề phát huy tinh thần tiên phong, gương mẫu của người Đảng viên và việc giữ mối liên hệ mật thiết với Nhân dân. Năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ: 62 Thể hiện ý thức học tập nâng cao trình độ, kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ. Tinh thần trách nhiệm, kết quả và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được giao, ý thức, thái độ phục vụ Nhân dân và những sáng kiến trong quá trình thực hiện được ghi nhận. Qua đánh giá, từ năm 2015 đến nay có 07 công chức lãnh đạo, quản lý tham gia học thạc sĩ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn, từ đó cho thấy đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý luôn phát huy tinh thần tự chủ, ý thức tự giác học tập ngày càng nhiều. Ngoài nội dung kiểm điểm trên, công chức lãnh đạo, quản lý phải kiểm điểm sâu, đánh giá làm rõ về khối lượng, chất lượng hoàn thành chức trách, nhiệm vụ được giao; lãnh đạo xây dựng các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Việc tiếp thu, khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm hoặc vi phạm (nếu có) được kết luận sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng và những vấn đề mới phát sinh (nếu có). Tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ: Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã thực hiện những nhiệm vụ khác nhau, tuy nhiên nhiệm vụ cuối cùng là tham mưu cho UBND trên lĩnh vực, ngành cụ thể, do đó bản thân các cơ quan không thể không có mối quan hệ với nhau. Trong quá trình triển khai nhiệm vụ, bản thân công chức lãnh đạo, quản lý phải chủ động phối hợp và chỉ đạo cấp dưới phối hợp với các đơn vị liên quan để thực hiện công tác của đơn vị và công tác tham mưu cho UBND triển khai nhiệm vụ. Tại UBND thị xã, qua đánh giá cho thấy hầu hết các cơ quan chuyên môn cơ bản có sự phối hợp trong triển khai nhiệm vụ và trong việc tham mưu cho UBND triển khai nhiệm vụ chung. Trong giao tiếp, ứng xử với đồng nghiệp, cán bộ, công chức cơ bản có thái độ lịch sự, trung thực, thân thiện, hợp tác. Cấp dưới nghiêm túc chấp hành chỉ đạo của 63 cấp trên, cấp trên tôn trọng và tạo điều kiện cho cấp dưới được quyền trình bày ý kiến và tranh luận để từ đó có quyết định chính xác nhất. Tuy nhiên, qua đánh giá cho thấy trong công tác phối hợp vẫn còn tình trạng “mạnh ai nấy làm”, một số công chức lãnh đạo, quản lý chưa thật sự chủ động trong công tác phối hợp giữa các cơ quan. Khảo sát thực tế về tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ của đội ngũ lãnh đạo, quản lý có 17/33 (51,51%) ý kiến cho rằng hầu hết chưa phát huy hết tinh thần trách nhiệm và chưa có sự chủ động trong công tác phối hợp. Thái độ phục vụ Nhân dân: Là đánh giá việc công chức lãnh đạo, quản lý thể hiện thái độ tôn trọng trong giao tiếp với Nhân dân, thái độ chuẩn mực trong giao tiếp và ứng xử. Bản thân người lãnh đạo, quản lý phải lắng nghe Nhân dân trình bày ý kiến, nguyện vọng và trả lời những yêu cầu chính đáng của Nhân dân; giải thích, hướng dẫn rõ ràng, cụ thể về các quy định liên quan đến giải quyết công việc. Thực hiện việc tiếp công dân theo quy định và thẩm quyền được giao; đồng thời, chủ động xin lỗi Nhân dân bằng văn bản khi xảy ra các sự việc chậm trễ. Tuy nhiên, tại một số bộ phận, một số công việc giao khoán cho cấp dưới, có lúc người đứng đầu chưa nắm bắt hết được thực tế ứng xử của cấp dưới với Nhân dân, do đó một số sự việc gây phiền hà, bức xúc cho Nhân dân trong quá trình giao dịch với chính quyền nhưng lại chưa có văn bản xin lỗi. Khảo sát thực tế về thái độ phục vụ Nhân dân của đội ngũ lãnh đạo, quản lý có 16/33 (48,48%) ý kiến cho rằng phần lớn chưa thực sự sâu sát để giải quyết công việc cho Nhân dân, còn giao khoán hết cho cấp dưới. Kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị được giao lãnh đạo, quản lý: Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn 64 việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức; tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức; các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật. Năng lực lãnh đạo, quản lý: Khả năng về nhìn nhận, dự báo tình hình, từ đó xây dựng kế hoạch thực hiện, triển khai công việc và hướng cấp dưới làm việc theo mục tiêu của kế hoạch đã định đảm bảo khoa học, đúng tiến độ, trong quá trình đó người lãnh đạo, quản lý phải biết truyền đạt những ý tưởng của mình cho cấp dưới và người cùng phối hợp thực hiện hiểu để cùng với mình thực hiện tốt những ý tưởng đó. Khảo sát thực tế về năng lực đội ngũ lãnh đạo, quản lý trên 33 phiếu cho thấy có 8/33 (24,24%) ý kiến cho rằng cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; có 17/33 (51,52%) ý kiến cho rằng năng lực của đội ngũ này ở mức bình thường, tuy nhiên cũng có 8/33 (24,24%) ý kiến cho rằng phần lớn hạn chế trong cách lãnh đạo, điều hành, tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Năng lực tập hợp, đoàn kết công chức: Khả năng xây dựng tập thể đoàn kết, thống nhất nội bộ. Trong đó vai trò của những người làm công tác lãnh đạo, quản lý là vô cùng quan trọng và quyết định đến sự đoàn kết, thống nhất nội bộ. Trên thực tế thời gian qua tại 65 các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ cơ bản là đội ngũ công chức lãnh đạo, quản lý đã xây dựng được tập thể đoàn kết, thống nhất. Như vậy, thông qua các tiêu chí đánh giá trên cho thấy bên cạnh những kết quả đạt được thì các nội dung và tiêu chí đánh giá cũng có những bất cập. Quá trình tự đánh giá của công chức lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn thuộc UBND thị xã Buôn Hồ phải tuân thủ theo hướng dẫn của 2 cơ quan chủ quản là: Thứ nhất là hệ thống văn bản của UBND thị xã Buôn Hồ, hướng dẫn việc tự đánh giá hàng năm theo quy định tại Nghị định số 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ với 08 nội dung dành cho công chức lãnh đạo, quản lý đã phân tích ở trên. Thứ hai là hệ thống văn bản hướng dẫn của Thị ủy, hướng dẫn tự đánh giá theo Quyết định số 286-QĐ/TW của Bộ Chính trị với 04 nội dung dành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý. Tuy sự hướng dẫn này về bản chất đánh giá là tương đồng, nhưng xét về nội dung cụ thể lại theo cách diễn giải và bố trí khác nhau và chính sự hướng dẫn không thống nhất giữa cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước dẫn đến mỗi công chức

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_danh_gia_cong_chuc_lanh_dao_quan_ly_cac_co_quan_chu.pdf
Tài liệu liên quan