MỤC LỤC
1 TQUY ƯỚC TRÌNH BÀY1 T .I
1 TBẢNG CHỮ VIẾT TẮT1 T.II
1 TMỤC LỤC1 T. III
1 TMỞ ĐẦU1 T .1
1 T1. Lý do chọn đề tài1 T . 1
1 T2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu1 T. 2
1 T3. Mục đích, khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu1 T . 4
1 T4. Giả thuyết khoa học1 T . 5
1 T5. Nhiệm vụ nghiên cứu1 T . 5
1 T6. Phương pháp nghiên cứu1 T. 6
1 T7. Các đóng góp của luận văn1 T. 6
1 T8. Cấu trúc của luận văn1 T. 7
1 TCHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN1 T . 8
1 T1. Đánh giá kết quả học tập1 T. 8
1 T1.1. Khái niệm về đánh giá1 T . 8
1 T1.2. Đánh giá trong công tác quản lý giáo dục1 T . 8
1 T1.3. Khái niệm về đánh giá KQHT1 T. 8
1 T1.4. Cấu trúc của đánh giá KQHT1 T . 9
1 T2. Mục tiêu dạy học – cơ sở của đánh giá kết quả học tập1 T . 11
1 T2.1. Mục tiêu dạy học1 T. 11
1 T2.2. Quan hệ giữa mục tiêu dạy học và đánh giá kết quả học tập.1 T. 12
1 T2.3. Các hệ thống phân loại MTDH1 T. 12
1 T2.4. Tiêu chí đánh giá và công cụ đo lường1 T. 14
1 T2.5. Quy trình thực hiện đánh giá kết quả học tập1 T. 16
1 T3. Trắc nghiệm khách quan trong đánh giá kết quả học tập1 T . 17
1 T3.1. Các phương pháp đánh giá kết quả học tập1 T. 17
1 T3.2. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển của trắc nghiệm1 T . 18
1 T3.3. Việc áp dụng TN trong ĐGKQHT tại một số nước trên thế giới1 T. 20IV
1 T3.4. Trắc nghiệm tự luận hay khách quan1 T. 21
1 T3.5. Đặc điểm cơ bản của trắc nghiệm1 T. 22
1 T3.6. Độ khó câu và bài trắc nghiệm1 T . 25
1 T3.7. Độ phân cách của câu trắc nghiệm1 T . 27
1 T3.8. Một số hình thức trắc nghiệm thông dụng1 T. 28
1 T4. Các cơ sở để tìm hiểu môn phương pháp dạy TN-XH1 T . 37
1 T4.1. Đặc điểm giảng dạy đại học1 T. 37
1 T4.2. Các mục tiêu đào tạo1 T. 37
1 T4.3. Môn TN -XH trong chương trình giáo dục tiểu học1 T. 39
1 TCHƯƠNG 2 : NGHIÊN CỨU THỬ NGHIỆM1 T.42
1 T1. Tìm hiểu nội dung môn phương pháp dạy TN-XH1 T. 42
1 T1.1. Đặc điểm môn học1 T. 42
1 T1.2. Mục tiêu dạy học1 T. 42
1 T1.3. Yêu cầu nhận thức1 T . 43
1 T1.4. Phân tích các MTDH của môn PP dạy TN-XH1 T. 43
1 T2. Dàn bài trắc nghiệm môn phương pháp dạy TN-XH1 T. 46
1 T3. Soạn thảo câu hỏi trắc nghiệm môn PP dạy TN-XH1 T . 47
1 T4. Thử nghiệm1 T. 48
1 T4.1. Mục đích thử nghiệm1 T. 48
1 T4.2. Xử lý dữ liệu1 T. 48
1 T5. Kết quả thử nghiệm1 T. 49
1 T5.1. Kết quả thử nghiệm lần 11 T. 49
1 T5.2. Kết quả thử nghiệm lần 21 T. 55
1 T5.3. Nhận xét thử nghiệm lần 2:1 T. 56
1 TKẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ1 T .57
1 T1. Kết luận1 T. 57
1 T1.1. Đánh giá KQHT bằng TNKQ1 T. 57V
1 T1.2. Xây dựng dàn bài trắc nghiệm nhiều lựa chọn1 T. 57
1 T1.3. Soạn thảo các câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn:1 T. 58
1 T1.4. Kết quả thử nghiệm1 T. 58
1 T2. Kiến nghị1 T. 59
1 T2.1. Đối với người làm công tác QLGD1 T . 59
1 T2.2. Đối với CBGD bộ môn PP dạy TN - XH1 T . 59
1 T2.3. Đối với người ra đề thi bằng TNKQ1 T. 59
1 T2.4. Đối với bộ phận chịu trách nhiệm tổ chức thi cử1 T . 60
1 TTÀI LIỆU THAM KHẢO1 T .61
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá kết quả học tập môn phương pháp giảng dạy tự nhiên – xã hội bằng trắc nghiệm khách quan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Đề thi tuyển sinh luôn đòi
hỏi giá trị tiên đoán. Mục đích của loại đề này là tiên đoán những học sinh có khả năng
theo học chướng trình đào tạo kế tiếp. Theo tác giả H. Pieron, "trắc nghiệm khách
quan có khả năng tiên đoán một cách khá chắc chắn sự thành công học tập hơn là lời
phê của giáo viên .
25
- Giá trị đồng thời:
Vấn đề tương tự như độ giá trị tiên đoán, nhưng cả hai bài trắc nghiêm xảy ra
đồng thời hoặc có sự sai khác về thời gian không đáng kể.
- Giá trị câu trúc:
Bài trắc nghiệm được coi là có độ giá trị cấu trúc nếu điểm số của nó có tương
quan dương với các dấu hiệu đặc trưng cho những mục tiêu mà nó cần đo. Độ giá trị
cấu trúc là một khái niệm tương đối mới chưa có sự thống nhất về ý nghĩa xác thực
của nó.
3.6. Độ khó câu và bài trắc nghiệm
Có hai khái niệm liên quan đến độ khó:
3.6.1. Độ khó của câu trắc nghiệm: Là tỉ lệ người làm đúng câu này
Công thức tính:
Độ khó câu trắc nghiệm thứ i = Tổng số người làm đúng câu iTổng số người làm bài
Nếu gọi MEAN (câu i) là điểm trung bình của câu thứ I thì ta có:
Tổng số người làm đúng câu i = Tổng điểm câu i
Tổng số người làm bài = số bài trắc nghiệm
Do đó:
Độ khó câu trắc nghiệm thứ I = MEAn (câu i) = Tổng điểm câu iSố bài trắc nghiệm
Theo cách tính này, giá trị của chỉ số độ khó thay đổi từ 0 đến 1.
+ Nếu độ khó ≈ 1: Câu trắc nghiệm quá dễ.
+ Nếu độ khó ≈ 0: Câu trắc nghiệm quá khó.
Độ khó của câu trắc nghiệm thay đổi theo trình lộ của lớp học sinh.
Độ khó vừa phải của câu trắc nghiệm là số trung bình cộng của tỷ lệ may rủi và
100%.
26
Loại trắc nghiệm 4 lựa chịn có tỉ lệ may rủi là: 1004 = 25%
Vậy độ khó vừa phải của câu trắc nghiệm thuộc loại này là:
100 + 252 = 62% hoặc 0.62
3.6.2. Độ khó của bài trắc nghiệm:
Độ khó của bài trắc nghiệm tùy thuộc vào trình độ của học sinh. Học sinh khá có
điểm trắc nghiệm cao và ngược lại. Một bài trắc nghiệm có thể là dễ đối với học sinh
khá giỏi nhưng lại khó đối với học sinh trung bình hoặc kém. Do đó, độ khó của bài
trắc nghiệm đối với một lớp học là tỉ số giữa điểm trung bình của bài trắc nghiệm với
tổng số câu trắc nghiệm (mỗi câu trắc nghiệm được tính một điểm). Tỉ số này được
tính ra theo tỷ lệ phần trăm như sau:
Độ khó = XK × 100%
Với X : Điểm trung bình của bài trắc nghiệm
K: Tổng số câu trắc nghiệm = điểm tối đa của bài.
Độ khó là một chỉ số, giá trị số càng nhỏ thì mức khó của bài trắc nghiệm càng
cao. Như vậy, độ khó vừa phải của bài trắc nghiệm là tỷ số giữa điểm TBLT với điểm
tối đa của bài trắc nghiệm (K) và thường được tính theo công thức sau:
Độ khó vừa phải = TBLTK × 100%
Trong đó, trung bình lý thuyết của bài trắc nghiệm là trung bình cộng của điểm
tối đa có thể có được với điểm may rủi của bài trắc nghiệm theo công thức:
TBLT = K + T2
Với T: Điếm có được do may rủi.
Ý nghĩa của giá trị độ khó:
27
Độ khó của bài trắc nghiệm < Độ khó vừa phải: Bài trắc nghiệm được coi là khó
đối với trình độ học sinh trong lớp.
Độ khó của bài trắc nghiệm > Độ khó vừa phải: Bài trắc nghiệm được coi là dễ
đối với trình độ học sinh trong lớp.
3.7. Độ phân cách của câu trắc nghiệm
Đó là khả năng phân biệt nhóm học sinh giỏi với nhóm học sinh kém khi trả lời
câu trắc nghiệm. Nếu một câu trắc nghiệm mà tất cả học sinh trả lời đúng hoặc không
trả lời đúng thì câu trắc nghiệm ấy không có khả năng phân cách và là câu trắc nghiệm
kém. Như vậy, câu trắc nghiệm tốt phải là câu trắc nghiệm có độ phân cách cao.
Độ phân cách của câu trắc nghiệm thường được tính theo công thức sau:
Độ phân cách = Đ𝑔 − Đkn
Trong đó: Đg: Số học sinh trong nhóm giỏi làm đúng câu trắc nghiệm
Đk: Số học sinh trong nhóm kém làm đúng câu trắc nghiệm
n : Số học sinh trong mỗi nhóm.
Nhóm giỏi và nhóm kém ở đây được chọn ra như sau:
- Xếp thứ tự điểm tổng cộng toàn bài trắc nghiệm của mỗi học sinh
- Chọn 27 % học sinh có điểm cao nhất cho vào "Nhóm giỏi", 27 % học sinh có
điểm thấp nhất gọi là nhóm kém
Với câu trắc nghiệm thứ i ta đếm số người làm đúng câu này ở mỗi nhóm để có
Đg và Đk.
Tuy nhiên phương pháp này chỉ chọn được 54 % học sinh trong hai nhóm, 46 %
học sinh còn lại có điểm dưới mức trung bình không được xét đến. Để sử dụng toàn bộ
số liệu, người ta dùng hệ số tương quan điểm nhị phân (R point biserial, viết tắt là
Rpbis) để tính độ phân cách. Đây là phương pháp phổ biến trên thế giới hiện nay.
Công thức tính như sau:
28
Rpbts = Mp − Mqσt .�p. q
Trong đó:
Mp =Trung bình tổng điểm các bài trắc nghiệm làm đúng câu trắc nghiệm i
Mq = trung bình tổng điểm các bài trắc nghiệm làm sai câu trắc nghiệm i
p = tỉ lệ học sinh làm đúng câu i
q = tỉ lệ học sinh làm sai câu i
ơt = độ lệch tiêu chuẩn điểm bài trắc nghiệm
Tuy nhiên, dù cho câu trắc nghiệm có độ phân cách tốt người ta cũng không thể
tin tưởng 100 % rằng câu trắc nghiệm đó đã thực sự phân biệt học sinh giỏi và học
sinh yếu kém. Trên thực tế, độ phân cách còn tùy thuộc vào số lượng học sinh nhiều
hay ít. [17, tr. 45-50], [18 Tr. 14-16].
3.8. Một số hình thức trắc nghiệm thông dụng
Các câu hỏi trắc nghiệm có thể được đặt dưới nhiều hình thức khác nhau. Bất cứ
hình thức trắc nghiệm nào cũng có những ưu khuyết điểm của nó và vấn đề quan trọng
đối với người soạn thảo là biết công dụng của mỗi loại để lựa chọn hình thức câu trắc
nghiệm nào thích hợp nhất cho việc khảo sát khả năng hay kiến thức mà ta định đo
lường. Sau đây là một số hình thức câu trắc nghiệm thông dụng nhất đang được nhiều
người quan tâm sử dụng.
3.8.1. Trắc nghiệm Đúng - Sai
Loại câu trắc nghiệm này được trình bày dưới dạng một câu phát biểu và người
học phải trả lời bằng cách lựa chọn Đúng (Đ) hay Sai (S).
Thí dụ: 1. Môn Phương pháp dạy TN-XH cung cấp cho người học kiến thức về tự
nhiên và xã hội.
2. Môn TN-XH của Chương trình tiểu học 2000 gồm ba chủ đề.
Câu 1 có nội dung sai, người học sẽ đánh dấu (S)
Câu 2 có nội dung đúng, người học sẽ đánh dấu (Đ)
29
Đối với câu Đúng, mọi chi tiết của nội dung trong câu trắc nghiệm phải phù hợp
với tri thức khoa học. Còn đối với câu Sai thì chỉ cần một chi tiết không phù hợp với
tri thức khoa học thì toàn bộ câu trắc nghiệm được đánh giá là sai.
Loại câu hỏi này rất thông dụng vì nó có vẻ như dễ sử dụng. Sau đây là những
nhận xét về ưu điểm và hạn chế của hình thức trắc nghiệm này.
- Ưu điểm: Trắc nghiệm Đúng - Sai có vẻ đơn giản vì người soạn không cần phải
tìm thêm ra nhiều phát biểu khác để người học so sánh và lựa chọn, có thể soạn được
nhiều câu trắc nghiệm khảo sát bất kỳ nội dung nào của từng bài học.
Hình thức câu trắc nghiệm này gọn gàng, ít tốn giấy. Một trang giấy khổ A4 có
thể ghi được 20 câu trắc nghiệm.
- Hạn chế: Xác suất may rủi của từng câu trắc nghiệm Đúng- Sai là 50 %. Học
sinh có cơ may đúng 50 % hoàn toàn bằng lối đoán mò.
Câu trắc nghiệm Đúng - Sai được trích ra từ sách giáo khoa có thể khuyến khích
và tưởng thưởng những học sinh học thuộc lòng như vẹt mà chưa hiểu thấu đáo hay
chỉ nhận ra một số câu chữ quen thuộc cũng đủ biết câu nào đúng hay sai.
Những câu trắc nghiệm loại này thường bị tách ra khỏi văn bản và không có căn
bản để so sánh và thẩm định tính đúng - sai tương đối của chúng.
- Một số lưu ý:
Nên sử dụng loại trắc nghiệm này một cách thận trọng. Trong nhiều trường hợp,
ta có thể cải biến những câu Đúng- Sai thành những câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn
mà không làm giảm đi tính chính xác của việc đo lường.
Những câu phát biểu cần phải dựa trên những ý niệm căn bản mà tính đúng- sai
phải chắc chắn, không tùy thuộc vào quan niệm riêng của từng người, từng tác giả hay
dựa trên một giả định đặc biệt hay bất thường nào đó.
Nên lựa chọn những câu phát biểu mà người có khả năng trung bình không thể
nhận ra ngay là đúng hay sai nếu không suy nghĩ, phán đoán.
Mỗi câu trắc nghiệm chỉ nên diễn tả một ý tưởng duy nhất, tránh những câu phức
tạp, bao gồm nhiều chi tiết.
30
Không nên chép nguyên văn những câu trích trong sách giáo khoa, vì như vậy
chỉ khuyến khích học thuộc lòng một cách máy móc.
Tránh dùng những từ như "tất cả", "không bao giờ", "không thể nào" vì đây
thường là những câu sai. Tương tự, những từ "thường", "đôi khi", "một số"... thường
được dùng cho câu đúng. Học sinh có nhiều kinh nghiệm có thể khám phá ra điều này
một cách dễ dàng.
3.8.2. Loại trắc nghiệm đối chiếu cặp đôi
Đây là dạng câu trắc nghiệm đặc biệt của loại trắc nghiệm nhiều lựa chọn (sẽ
được trình bày chi tiết sau). Người làm bài phải chọn trong cùng một tập hợp các lựa
chọn câu nào hay từ nào phù hợp nhất với mỗi câu trắc nghiệm đã cho.
Hai lỗi thông thường trong việc soạn các câu trắc nghiệm loại này là:
- Đặt số lựa chọn ở cột bên phải bằng số lựa chọn ở cột bên trái. Nếu số câu ở hai
cột bằng nhau, người học sau khi biết được hầu hết các câu có thể đoán đúng được một,
hai câu còn lại. Vì vậy, ta nên dành số lựa chọn ở cột bên phải nhiều hơn ở cột bên trái.
- Câu hỏi cũng như cột lựa chọn quá dài, người học mất nhiều thì giờ để chọn câu
tương ứng trong số các lựa chọn đã cho, trong đó có nhiều câu thừa và không thích
hợp.
3.8.3. Loại câu trắc nghiệm điền khuyết
Các câu điền khuyết có thể là các câu hỏi với những giải đáp ngắn hay là các câu
phát biểu với một hay nhiều chỗ để trống mà học sinh phải điền vào một từ hay một
nhóm từ. Tuy nhiên, dù ở dạng nào, chúng cũng thiếu hai lợi điểm quan trọng của trắc
nghiệm khách quan là cách chấm điểm không dễ dàng và điểm số không mang tính
khách quan.
Chúng ta có thể sử dụng loại câu điền khuyết trong một bài trắc nghiệm khách
quan trong các trường hợp:
- Các câu trả lời rất ngắn và tiêu chuẩn đúng- sai rõ ràng (như trong môn Toán);
31
- Khi không tìm ra được mồi nhử tối thiểu cần thiết cho loại câu nhiều lựa chọn,
thay vì cố tìm thêm những mồi nhử vô nghĩa cho đủ số, ta có thể dùng loại câu điền
khuyết.
3.8.4. Câu hỏi trắc nghiệm nhiều lựa chọn
Trong luận văn này, chúng tôi chỉ sử dụng loại câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn
làm công cụ soạn thảo cho nội dung đánh giá kết quả học tập môn Phương pháp dạy
TN-XH. Vì vậy, loại câu trắc nghiệm này sẽ được dành nhiều thời gian để xem xét kỹ
hơn.
3.8.4.1. Khái niệm
Câu nhiều lựa chọn là loại câu hỏi trắc nghiệm gồm một phát biểu căn bản gọi là
câu dẫn (phần gốc) đi kèm với nhiều câu trả lời cho sẵn gọi là câu chọn (phần lựa
chọn). Phần gốc là một câu hỏi hay một câu bỏ lửng (câu chưa hoàn tất). Phần lựa
chọn thường gồm 4 hay 5 câu trả lời hay câu bổ túc cho học sinh lựa chọn, Phần này
có một câu đúng hoặc đúng nhất, phần còn lại là những "mồi nhử". So với các câu hỏi
trắc nghiệm đã được đề cập đến ở trên, câu hỏi nhiều lựa chọn ngoài một vài điểm yếu
như khó tìm mồi nhử hay khó đo dược những trình độ ở mức độ tinh vi, còn có các
điểm mạnh sau đây:
- Do có nhiều phương án lựa chọn và phải chọn phương án đúng nhất, người học
phải so sánh, suy luận và cân nhắc trước khi chọn nên có thể sử dụng loại câu hỏi này
để đánh giá nhiều loại mục tiêu dạy học ở nhiều trình độ nhận thức khác nhau;
- Do tính chất nhiều phương án nên yếu tố may rủi giảm, vì vậy độ giá trị và độ
tin cậy cao hơn;
- Có thể áp dụng các kỹ thuật phân tích câu hỏi để đánh giá và hiệu chỉnh các câu
hỏi để sử dụng lại các câu hỏi tốt.
3.8.4.2. Quy tắc soạn thảo
Trong các tài liệu về kỹ thuật trắc nghiệm, người ta thường liệt kê hàng loạt các
quy tắc về soạn thảo câu hỏi nhiều lựa chọn. Từ những đúc kết đó, ta có thể rút ra năm
quy tắc sau đây:
32
Một là: Sự thỏa đáng về nội dung:
- Câu hỏi chỉ hỏi về một vấn đề và hỏi đúng vấn đề cần hỏi
- Câu hỏi phù hợp với trình độ của người học
- Người học có đủ thời gian trả lời các câu hỏi
- Độ khó nên vào khoảng 50 %.
Hai là: Sự trong sáng về hình thức:
- Câu văn đầy đủ, rõ ràng, ngắn gọn;
- Lời văn trong sáng, dễ hiểu;
- Từ ngữ chọn lọc, chính xác;
Ba là: Sự kín đáo:
- Câu hỏi không có manh mối để người học có thể đoán câu đúng;
- Các câu nhiễu hay mồi nhử phải thật sự gây nhiễu;
- Các lựa chọn đúng nên sắp ngẫu nhiên trong toàn bài;
Bốn là. Sự thận trọng và chính xác:
- Lựa chọn đúng phải hoàn toàn đúng;
- Không có hai lựa chọn đúng giống nhau;
- Kiểm tra nhiều lần cả về nội dung và hình thức các câu hỏi;
Năm là. Số lượng các câu chọn vừa phải:
- Các câu chọn nếu quá ít xác suất may mắn sẽ cao;
- Các câu chọn nếu quá nhiều sẽ khó biên soạn và độ nhiễu cao, không cần thiết;
Sáu là. Số các câu chọn nên bằng nhau để học sinh dễ làm bài.
3.8.4.3. Quy trình soạn thảo
Những câu trắc nghiệm nhiều lựa chọn thường được biên soạn theo những trình
tự và nguyên tắc sau:
33
- Lựa chọn những ý tưởng quan trọng và viết ra những ý tưởng ấy một cách rõ
ràng để làm căn cứ cho việc soạn thảo các câu trắc nghiệm. Ta chọn những ý tưởng
quan trọng làm căn bản cho việc soạn thảo vì các ý tưởng này chính là nền tảng cho
việc giảng dạy các môn học.
- Chọn các ý tưởng và viết các câu trắc nghiệm sao cho có thể phân biệt tối đa
học sinh giỏi và học sinh yếu kém. Mỗi câu trắc nghiệm phải được soạn thảo sao cho
có độ phân cách tốt, nghĩa là đa số học sinh giỏi sẽ trả lời đúng, đa số học sinh kém sẽ
trả lời sai câu hỏi ấy.
- Khi bắt đầu viết câu trắc nghiệm, ta bắt đầu viết câu dẫn (phần gốc) của câu
trước, dưới dạng một câu hỏi hay một câu bỏ lửng. Tiếp theo, ta soạn ngay câu trả lời
được dự định cho là đúng vì đây là câu quan trọng nhất. Ta sắp xếp các câu đúng theo
lối ngẫu nhiên từ một đến bốn nếu câu có bốn lựa chọn.
- Phần gốc của câu trắc nghiệm cần phải đặt vấn đề một cách ngắn gọn, sáng sủa
và phải hàm chứa vấn đề mà ta muốn hỏi.
[13], [14], [17], [18].
3.8.4.4. Chuẩn bị
Để có thể chuẩn bị tốt một bài kiểm tra bằng trắc nghiệm khách quan, người soạn
trắc nghiệm phải nắm vững các bước sau đây:
- Phân tích mục tiêu dạy học:
Trước hết, cần phân tích nội dung dạy học thành các chủ đề dạy học cụ thể, xác
định tầm quan trọng của từng chủ đề bằng cách phân bố các trọng số. Trên mỗi chủ đề,
phân tích thành hệ thống các mục tiêu dạy học: kiến thức, kỹ năng, thái độ. Phân bố
trọng số thể hiện thể hiện tầm quan trọng của từng mục tiêu dạy học cụ thể trong tổng
thể chung. Sau đó, tiến hành xác nhận các yêu cầu về nhận thức trên các MT dạy học
cụ thể.
- Lập dàn bài trắc nghiệm
Một trong những phương pháp thông dụng là lập một bảng quy định hai chiều
với một chiều biểu thị nội dung và chiều kia biểu thị quy trình tư duy (mục tiêu) mà
34
bài trắc nghiệm muốn khảo sát. Mỗi phạm trù trong hai phạm trù tổng quát ấy lại được
phân ra thành nhiều phạm trù nhỏ tùy theo tính chất của các mục tiêu và mức độ chi
tiết mà người soạn thảo muốn khảo sát qua bài trắc nghiệm của mình.
Với một bài trắc nghiệm nhằm khảo sát một môn học hay một phần nào của môn
học, ta có thể áp dụng bảng quy định hai chiều đơn giản như sau:
Bảng 1.2
ĐỀ MỤC :..
Các ý tưởng quan trọng (1) Các khái niệm (2) Sự kiện (3)
Chủ đề I
Chủ đề II
Chủ đề III
(1) Các ý tưởng phức tạp, các nguyên tắc, các mối liên hệ, các khái quát, các quy
luật mà học sinh sẽ phải giải thích, giải nghĩa
(2) Các từ ngữ, khái niệm, ký hiệu, các ý tưởng đơn giản mà học sinh phải giải
thích, giải nghĩa;
(3) Các loại thông tin (sự kiện, ngày tháng, tên tuổi...) mà học sinh phải nhớ hay
nhận ra được. [17, Tr. 38].
3.8.4.5. Đánh giá
Hai yếu tố quan trọng dùng để đánh giá bài trắc nghiệm là độ giá trị và độ tin cậy.
Việc tính toán các chỉ số này đều dựa trên cơ sở ước lượng các hệ số tương quan giữa
các bộ điểm số. Hai nguyên tắc quan trọng để đánh giá bài trắc nghiệm là:
- Bài trắc nghiệm phải có độ tin cậy : Bài trắc nghiệm có thể được cho là hay
nhưng độ tin cậy thấp thì cũng không ích lợi gì. Theo các quan điểm về lý thuyết trắc
nghiệm, bài trắc nghiệm đo được nhiều khía cạnh của tiêu chí là bài trắc nghiệm có giá
trị cao.
- Bài trắc nghiệm phải có độ giá trị: Những bài trắc nghiệm có độ tin cậy cao,
sai số đo lường chuẩn thấp chưa phải là bài trắc nghiệm có giá trị. Trong thực tế, có
nhiều phương pháp làm tăng độ tin cậy nhưng lại giảm đáng kể độ giá trị. Tính giá trị
liên quan đến mức độ mà bài trắc nghiệm ấy phục vụ được cho mục đích đo lường của
35
ta với nhóm người ta muốn khảo sát. Và khái niệm giá trị chỉ có ý nghĩa khi ta xác
định rõ: ta muốn đo lường cái gì và với nhóm người nào.
3.8.4.6. Trình bày
Phương pháp trình bày thông dụng là in bài trắc nghiệm ra thành nhiều bản tương
ứng với số người dự thi. Điều quan trọng là phải kiểm soát cẩn thận các bản in để
tránh các lỗi in sai, in không rõ ràng hay in thiếu. Ngoài ra, các câu trắc nghiệm phải
trình bày sao cho dễ đọc, tránh những lỗi do câu in quá sát nhau hay phần câu dẫn và
các câu lựa chọn nằm trên cùng một hàng. Để tránh việc học sinh có thể thông đồng
trao đổi bài, câu hỏi trắc nghiệm có thể được in thành các bộ đề chẵn và lẻ khác nhau
với các câu hỏi giống nhau nhưng thứ tự bị đảo lộn.
3.8.4.7. Chuẩn bị học sinh
Người học nên được thông báo trước về ngày, giờ, những kiến thức và khả năng
đòi hỏi ở họ. Ngoài ra, người học còn được chỉ dẫn cách làm bài trắc nghiệm để họ
không bỡ ngỡ hay làm sai do chưa hiểu cách làm.
Điều này rất quan trọng vì mục đích của ta là khảo sát thành quả học tập chứ
không phải cố ý đánh lừa người học bằng những hình thức thi cử phức tạp. Học sinh
được khuyến khích trả lời tất cả các câu hỏi dù họ không chắc chắn hoàn toàn.
3.8.4.8. Vấn đề điểm số
Điểm số mà sinh viên có được từ bài trắc nghiệm gọi là điểm thô (raw scores).
Có nhiều khó khăn trong việc sử dụng loại điểm này để đánh giá kết quả học tập trong
tổng thể chung. Vì vậy người ta thường biến đổi điểm thô này của bài trắc nghiệm
thành những số đo lường theo các loại thang mà họ có thể hiểu và giải thích giống
nhau. Để có thể giải thích các điểm thô trên bài trắc nghiệm, người ta thường sử dụng
loại điểm so sánh với một tiêu chuẩn tuyệt đối. Bao gồm:
- Điểm phần trăm đúng
Điểm phần trăm đúng so sánh điểm số của người làm trắc nghiệmvới điểm số tối
đa có thể đạt được. Loại điểm số này có thể xem như là điểm số trên một bài trắc
36
nghiệm với 100 câu hỏi. Điểm số này tính bằng tỉ lệ phần trăm theo công thức đơn
giản dưới đây:
X = 100R/T
Trong đó: X = Điểm tính theo tỉ lệ phần trăm
R = Số câu trắc nghiệm làm đúng
T = Tổng số câu trắc nghiệm
Thí dụ: Một học sinh trả lời đúng 30 câu trên một bài trắc nghiệm 50 câu thì
điểm phần trăm đúng của học sinh ấy là:
(100x30)/50 = 60 điểm
Nếu muốn đổi ra điểm lớp (theo thang điểm hiện hành là 10 điểm), chỉ việc chia
điểm phần trăm đúng cho 10. Vậy điểm lớp của ví dụ trên là:
60/10 = 6 điểm
Như vậy, yếu tố xác định điểm số trắc nghiệm thuộc loại này là độ khó của nội
dung bài trắc nghiệm vì kết quả đạt được của người làm bài trắc nghiệm được so sánh
với điểm số tối đa có thể đạt được đối với bài trắc nghiệm ấy.
- Điểm chữ
Một loại điểm khác cũng tương tự như loại điểm phần trăm đúng là loại điểm chữ
(letter grades). Đây là loại điểm cũng căn cứ trên tỉ lệ phần trăm số câu đúng nhưng
được biểu thị bằng các mẫu tự A,B,C,D.
Người ta thường ấn định như sau:
- A cho các điểm phần trăm đúng từ 90 đến 100
- B cho các điểm từ 80 đến 90
- C cho các điểm từ 70 đến 80 ...vv.
Các điểm phần trăm ấy là điểm trung bình của nhiều bài trắc nghiệm trong lớp
học. [13], [14], [17], [18].
37
Trong khi thực hiện luận văn này, chúng tôi đã sử dụng cách tính điểm thô ra
điểm lớp bằng công thức tính điểm phần trăm đúng vừa đề cập ở trên. Đây là một cách
tính khá đơn giản, dễ áp dụng, cho dù bài trắc nghiệm có nhiều hay ít câu hỏi.
4. Các cơ sở để tìm hiểu môn phương pháp dạy TN-XH
4.1. Đặc điểm giảng dạy đại học
4.1.1. Đặc điểm chung của đối tượng sinh viên
Độ tuổi chung của sinh viên là từ 18 đến 25. Đây là thời kỳ phát triển hoàn chỉnh
về tâm sinh lý, năng lực trí tuệ được nâng cao, tư duy sâu sắc và mở rộng, có năng lực
giải quyết các nhiệm vụ trí tuệ ngày một khó khăn hơn, trí tuệ vừa có tính nhạy bén
vừa có độ bền lý tưởng. Sinh viên đã được trang bị một nền giáo dục phổ thông hoàn
chỉnh, năng lực học tập đã được xác nhận bằng kỳ thi tuyển đầu vào.
4.1.2. Đặc điểm về phương pháp dạy học: Dạy học ở Đại học có những đặc
điểm sau;
- Thầy giáo vừa là nhà sư phạm vừa là nhà khoa học, mối quan hệ thầy trò có
tính chất tiền đồng nghiệp;
- Phạm vi và khối lượng kiến thức lớn nhưng thời gian thì hạn chế. Nội dung
môn học gần với nội dung một môn khoa học, yêu cầu nhận thức cao.
Do các đặc điểm trên, phương pháp dạy học ở đại học gần với nghiên cứu khoa
học. Nhiệm vụ dạy học chủ yếu là định hướng và giới thiệu, việc tích lũy kiến thức và
rèn luyện kỹ năng được coi là nhiệm vụ của sinh viên. Như vậy, cường độ và thời gian
làm việc của sinh viên lớn hơn so với học sinh phổ thông. [13, tr. 19].
4.2. Các mục tiêu đào tạo
4.2.1. Mục tiêu giáo dục đại học
... "Giáo dục và đào tạo những con người phát triển toàn diện, yêu nước, có lý
tưởng XHCN, góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, có lòng ham hiểu biết và năng lực học tập suốt đời, có tư duy sáng tạo, làm chủ
khoa học kỹ thuật hiện đại, có tinh thần trách nhiệm với cộng đồng xã hội, với môi
trường tự nhiên, có nếp sống lành mạnh và sức khỏe tốt; mở rộng quy mô đi đôi với
38
coi trọng chất lượng GD-ĐT và hiệu quả sử dụng, đáp ứng nhu cầu nhân lực trước mắt
và lâu dài của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, bồi dưỡng nhân tài, nâng cao dân trí,
đáp ứng nhu cầu học tập của mọi tầng lớp nhân dân, tiến tổi một xã hội học hành...".
(Dự thảo chiến lược phát triển Giáo dục-Đào tạo đến năm 2010 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo)
4.2.2. Mục tiêu đào tạo giáo viên tiểu học của nhà trường sư phạm
4.2.2.1. Mục tiêu của nhà trường sư phạm
Mục tiêu của nhà trường sư phạm là đào tạo và bồi dưỡng sinh viên một cách
toàn diện, không ngừng nâng cao chất lượng học tập văn hóa và khoa học, học tập
phương pháp giáo dục và nghiệp vụ giảng dạy, phấn đấu làm cho tất cả giáo viên phổ
thông dần dần có trình độ đại học..., coi trọng hơn nữa việc nâng cao phẩm chất chính
trị và rèn luyện đạo đức cách mạng, việc đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo
đúng nguyên lý giáo dục của Đảng. [1, tr. 3-4-5]
4.2.2.2. Mục tiêu đào tạo giáo viên tiểu học trình độ đại học sư phạm
Hệ Đại học sư phạm đào tạo giáo viên tiểu học tuyển những học sinh đã tốt
nghiệp PTTH, đào tạo trong 4 năm để họ trở thành giáo viên tiểu học có trình độ Đại
học sư phạm, có tư tưởng và phẩm chất đạo đức của người giáo viên mới, có đủ sức
khỏe, có kiến thức khoa học vững chắc, có năng lực giáo dục và giảng dạy tốt các môn
học ở Tiểu học theo yêu cầu mổi của giáo dục, có khả năng tham gia và tự nghiên cứu
khoa học giáo dục tiểu học, có tiềm lực tự bồi dưỡng nâng cao năng lực sư phạm và
trình độ chuyên môn để tự vươn lên trở thành nòng cốt của cấp học. Những phẩm chất
này được cụ thể như sau:
1. Có tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, thái độ lao động đúng đắn,
vượt khó khăn trong công tác giáo dục ở tiểu học;
2. Có tri thức văn hóa khoa học tổng hợp và hệ thống (bao gồm tri thức khoa học
tự nhiên, khoa học xã hội- nhân văn, nghệ thuật...) làm cơ sở để hiểu sâu nội dung của
giáo dục tiểu học và giảng dạy tốt các môn học ở tiểu học, trong đó có một số lĩnh vực
được trang bị sâu hơn;
39
3. Hiểu và nắm chắc khoa học sư phạm, bao gồm: Tâm lý, Giáo dục học, phương
pháp giảng dạy và giáo dục các bộ môn;
4. Nắm được đường lối chủ trương của nhà nước, các quan điểm, đường lối,
chính sách giáo dục đặc biệt trong lĩnh vực giáo dục tiểu học;
5. Có kỹ năng tiến hành các hoạt động giáo dục và giảng dạy các bộ môn ở tiểu
học cho các đối tượng khác nhau;
6. Có khả năng tiến hành các hoạt động nghiên cứu, biết đánh giá, tổng kết rút
kinh nghiệm, phổ biến kinh nghiệm giáo dục và giảng dạy, có năng lực thường xuyên
tự học để không ngừng nâng cao trình độ
7. Biết vận dụng sáng tạo các quan điểm đường lối giáo dục trong việc quản lý
nhà trường và vận động nhân dân xây dựng nhà trường tiểu học. [3, tr. 3-4-5].
4.2.2.3. Mục tiêu của Giáo dục Tiểu học
Giáo dục tiểu học là bậc học bắt buộc đối với trẻ em từ sáu đến mười bốn tuổi.
Chương trình giáo dục tiểu học được thực hiện trong năm năm học, từ lớp Một đến lớp
Năm, Tuổi học sinh vào lớp Một là sáu tuổi.
Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu
xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học trung
học cơ sở.
(Điều 23 - Luật Giáo dục- 1998).
Giáo dục tiểu học phải đảm bảo cho học sinh có hiểu biết đơn giản, cần thiết về
tự nhiên, xã hội và con người; có kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết và tính toán;
có thói quen rèn luyện thân thể, giữ gìn vệ sinh; có hiểu biết ban đầu về nghệ th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- danh_gia_ket_qua_hoc_tap_mon_phuong_phap_giang_day_tu_nhien_xa_hoi_bang_trac_nghiem_khach_quan_5399.pdf