Luận văn Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La

MỤC LỤC

Trang

Trang phụbìa 1

Lời cam đoan 2

Mục lục 3

Danh mục các chữviết tắt 5

Danh mục các bảng 6

Danh mục các biểu đồ 7

MỞ ĐẦU 8

1. Lý do chọn đềtài 8

2. Mục đích nghiên cứu 9

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9

4. Giảthuyết nghiên cứu 9

5. Nhiệm vụnghiên cứu 10

6. Phương pháp nghiên cứu 11

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đềtài 11

CHƯƠNG 1: CƠSỞLÝ LUẬN

1.1. Tổng quan vấn đềnghiên cứu 12

1.2. Một sốkhái niệm cơbản 16

1.3. Thích ứng nghềnghiệp của sinh viên sưphạm. 33

1.4. Một sốyếu tố ảnh hưởng đến mức độthích ứng nghềnghiệp của sinh viên 35

CHƯƠNG 2: TỔCHỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 41

2.1 Mẫu nghiên cứu. 41

2.2. Nội dung và tiến trình nghiên cứu 43

2.3. Phương pháp nghiên cứu. 45

2.4. Các biểu hiện và cách đánh giá mức độthích ứng nghềnghiệp của sinh viên 48

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢNGHIÊN CỨU 52

3.1. Thích ứng thểhiện ởtâm thếnghềnghiệp 52

3.2. Thích ứng với nội dung học tập ởtrường cao đẳng 55

3.3. Thích ứng với phương pháp học tập ởtrường cao đẳng 62

3.4. Thích ứng với việc rèn luyện kỹnăng nghềnghiệp 67

3.5. Thích ứng với điều kiện, phương tiện học tập ởtrường cao đẳng 75

3.6. Thích ứng với các mối quan hệ ởtrường cao đẳng 80

3.7. Tổng hợp mức độthích ứng nghềnghiệp của sinh viên 84

3.8. Kết quảphỏng vấn sâu một sốtrường hợp 94

3.9. Một sốyếu tốcơbản tác động đến mức độthích ứng nghềnghiệp của sinh viên 97

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 106

1. Kết luận 106

2. Kiến nghị 107

TÀI LIỆU THAM KHẢO 110

PHỤLỤC 113

pdf112 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3786 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoặc không biết sử dụng các đồ dùng, phương tiện học tập. không hài lòng và không có ý thức khắc phục khó khăn về điều kiện, phương tiện trong học tập và sinh hoạt . * Các mức độ thích ứng với những mối quan hệ ở trường CĐSP - Thích ứng với các MQH ở mức độ cao: 1.34 < ĐTB ≤ 2.00. Sinh viên chủ động thiết lập các MQH tích cực với bạn bè, thầy cô giáo, cán bộ các phòng ban của nhà trường để học hỏi, chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm để giải quyết những khó khăn trong học tập và cuộc sống - Thích ứng với các MQH ở mức độ trung bình: 0.67 < ĐTB ≤ 1.34. Sinh viên chưa chủ động tham gia và tạo dựng các mối quan hệ tích cực trong quá trình học tập ở trường CĐSP; không thường xuyên trao đổi, chia xẻ với thầy cô, bạn bè về các vấn đề học tập và cuộc sống - Thích ứng với các MQH ở mức độ thấp: 0 < ĐTB ≤ 0.67. MQH giữa các sinh viên này với bạn bè, giảng viên và cán bộ các phòng ban có những khoảng cách, rào cản và những mâu thuẫn; không có hoặc ít có sự chia sẻ giúp đỡ lẫn nhau trong học tập và cuộc sống. Dựa vào cách xếp loại này và các số liệu thu thập được qua điều tra, chúng tôi tiến hành phân tích và đánh giá mức độ TƯNN của sinh viên trường CĐSP Sơn La trong chương tiếp theo. 52 CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 3.1. Thích ứng nghề nghiệp thể hiện ở tâm thế nghề nghiệp Chuyển từ môi trường trung học vào cao đẳng, nghĩa là sinh viên đã bước vào một môi trường với nhiều điều mới lạ và không ít khó khăn: từ cuộc sống ở gia đình với sự hướng dẫn, chỉ bảo giúp đỡ của cha mẹ sang cuộc sống tự lập ở trường cao đẳng; từ cuộc sống nông thôn, bản làng vùng sâu, vùng xa các em bắt đầu làm quen với cuộc sống nơi thành thị. Hơn nữa, với NDHT, phương pháp giảng dạy ở trường cao đẳng đòi hỏi sinh viên phải tích cực, chủ động và sáng tạo tìm ra cho mình PPHT phù hợp; các em phải biết cách giao tiếp với thầy cô giáo, hợp tác với bạn bè để học hỏi, chia xẻ kinh nghiệm học tập và các vấn đề trong cuộc sống. Có như vậy, các em mới có thể nhanh chóng hoà nhập với việc học tập và cuộc sống ở trường cao đẳng. Với những khó khăn ban đầu trong bước chuyển từ trường phổ thông vào trường cao đẳng như vậy thì việc tìm hiểu và lựa chọn cho mình ngành học phù hợp tạo điều kiện cho các em yên tâm, khắc phục khó khăn để tập trung vào việc học tập và rèn luyện. Chính vì vậy, chúng tôi đã tiến hành điều tra cách tìm hiểu và lựa chọn ngành sư phạm của sinh viên trường CĐSP Sơn La. Bảng 3.1: Cách tìm hiểu về ngành học của sinh viên Các mức độ (%) TT Nội dung Đúng Đúng 1 phần Không đúng ĐTB SD 1 Tìm hiểu kỹ thông tin về ngành học qua bạn bè, thầy cô 44.2 44.6 11.3 1.33 0.67 2 Tìm hiểu thông tin trên các phương tiện thông tin: Tivi, sách báo… 35.1 48.5 16.5 1.19 0.70 3 Tìm hiểu thông qua trung tâm hướng nghiệp 10.9 28.1 61.0 0.50 0.68 4 Nhờ sự tư vấn của bố mẹ 29.4 48.9 21.6 1.08 0.72 5 Gặp những người trong ngành sư phạm để tìm hiểu về nghề 26.0 51.1 22.9 1.03 0.70 Kết quả trong bảng 3.1 cho thấy, các em đã tìm hiểu về ngành học bằng nhiều cách khác nhau. Số lượng sinh viên “tìm hiểu về ngành học qua bạn bè 53 và thầy, cô giáo ở trường phổ thông” chiếm nhiều nhất (ĐTB = 1.33 và 88.8% sinh viên cho là “đúng” và “đúng một phân”). Điều đó chứng tỏ rằng, bạn bè, thầy cô ở trường phổ thông có ảnh hưởng lớn nhất đến việc tìm hiểu và lựa chọn ngành học của các em. “Tìm hiểu qua trung tâm hướng nghiệp” được ít sinh viên lựa chọn nhất (ĐTB = 0.50 và chiếm 61%). Theo chúng tôi, có thể mạng lưới trung tâm hướng nghiệp của tỉnh còn chưa phát triển, trung tâm hướng nghiệp mới chỉ có và hoạt động ở thành phố Sơn La và một vài huyện, còn hầu hết các huyện, thị của tỉnh chưa có trung tâm hướng nghiệp. Do đó, tác dụng của các trung tâm hướng nghiệp đối với học sinh còn hạn chế. Tìm hiểu về ngành học qua “các phương tiện thông tin” (ĐTB = 1.19) và nhờ sự “tư vấn của cha mẹ” (ĐTB = 1.08) chưa được nhiều sinh viên lựa chọn. Phần lớn sinh viên của trường thuộc dân tộc thiểu số và gia đình ở nông thôn nên các phương tiện thông tin còn thiếu thốn, cơ hội cập nhật thông tin không nhiều; cha mẹ các em đa số là nông dân, trình độ văn hoá thấp nên khả năng tư vấn của cha mẹ đối với việc chọn ngành học cho các em rất khó khăn; bản thân các cũng chưa thực sự tích cực trong việc tìm hiểu về ngành học của mình. Việc “tìm gặp những người trong ngành sư phạm” để tìm hiểu về ngành học chỉ nằm ở mức độ trung bình (ĐTB = 1.03). Với những điều kiện như vậy, các trường phổ thông cần phát huy ưu thế của mình trong việc định hướng cho các em lựa chọn nghề nghiệp tương lai phù hợp. Bảng 3.2: Sự kiên định của sinh viên trong lựa chọn ngành học Các mức độ (%) TT Nội dung Vẫn chọn ngành sư phạm Phân vân Không chọn ngành sư phạm ĐTB SD 1 Nếu bây giờ có cơ hội chọn lại nghề bạn sẽ quyết định như thế nào? 62.3 23.8 13.9 1.48 0.73 Mặc dù chịu sự ảnh hưởng từ nhiều phía khi sự lựa chọn ngành học cho mình như: Gia đình, bạn bè , thầy cô giáo và nhu cầu nguồn nhân lực của địa phương, của xã hội, nhưng mỗi em đều có cách tìm hiểu và có sự lựa chọn riêng. Có em tự tin với sự lựa chọn của mình, nhưng cũng còn những em vẫn 54 chưa tự tin, chưa yên tâm với sự lựa chọn ngành học mà mình theo học. Kết quả nghiên cứu cho thấy, đa số sinh viên “vẫn chọn ngành sư phạm” (ĐTB = 1.48). Lý do “vẫn chọn ngành sư phạm” các em nêu ra khá nhiều, tập trung vào các lý do sau: “ngành này phù hợp với bản thân và hoàn cảnh gia đình”, “yêu thích ngành sư phạm”, “bố mẹ không biết chữ nên em sẽ cố gắng học để trở thành cô giáo đem cái chữ về cho mọi người”, “muốn đem sức mình phục vụ quê hương”, “được giáo dục con em vùng cao”, “qua đợt thực tập em thấy yêu nghề hơn, thấy ngành học phù hợp với mình hơn” (Phiếu số 31, 32, 41, 48, 50, 51), hoặc “chọn nghề sư phạm vì nó phù hợp với vùng quê”, “là nghề mà em tâm huyết và phù hợp với mình nhất”, “yêu thích ngành sư phạm và muốn truyền đạt những hiểu biết cho mọi người xung quanh” (phiếu Phiếu số 4, 11, 25). Tuy nhiên, vẫn còn khá nhiều sinh viên “phân vân”, hoặc “không chọn ngành sư phạm” nếu có cơ hội được chọn lại và muốn “được chuyển sang ngành học khác”. Lý do mà các em đưa ra đó là “Không thích ngành sư phạm, thích học quản trị kinh doanh”, “phân vân vì sợ học ngành khác khó tìm được việc làm hơn”, “muốn chuyển sang ngành học khác, vì ngành sư phạm không phải là ước mơ, nguyện vọng của em”, “muốn chuyển vì trong thời gian học tập ở trường cao đẳng em thấy mình chưa thực sự tự tin trong việc giảng dạy sau này” (Phiếu số 33, 52). Các giảng viên cũng cho biết một số sinh viên đã vào học trường CĐSP Sơn La nhưng vẫn có “ý định thi vào ngành khác, trường khác” Nhìn chung, các em đã có sự tìm hiểu về nghề và lý do các em “vẫn chọn ngành sư phạm” mà “không muốn chuyển sang ngành học khác” là phù hợp với bản thân các em và điều kiện thực tiễn của địa phương. Việc lựa chọn đúng đắn này giúp các em yên tâm học tập, có mục đích phấn đấu rõ ràng để đạt được kết quả cao trong học tập. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều em chưa tích cực tìm hiểu các thông tin liên quan đến nhà trường, đến ngành sẽ theo học nên việc chọn ngành học của các em chưa thực sự phù hợp. Chính vì vậy mà các em vẫn chưa yên tâm, “muốn chuyển sang ngành học khác” và chưa tập trung vào việc học tập của mình, kém thích ứng với môi trường học tập ở trường cao đẳng. Dựa vào điểm trung bình, độ lệch chuẩn và cách tính các chỉ số TƯNN, chúng tôi thu được kết quả về các mức độ TƯNN thể hiện ở TTNN của sinh viên như sau: Số liệu biểu đồ 3.1 cho thấy: Sinh viên có mức độ trung bình về TƯNN thể hiện ở TTNN chiếm tỉ lệ nhiều nhất (60.2%), còn tỉ lệ sinh viên đạt mức độ thích ứng cao là 29.8% và thấp là 10.0%. Thấp 10% Trung bình 60.2% Cao 29.8% Biểu đồ 3.1: Mức độ TƯNN thể hiện ở TTNN Tóm lại, về phía sinh viên, tâm thế sẵn sàng nghề nghiệp tốt sẽ góp phần giúp sinh viên có định hướng và động cơ rõ ràng, có thái độ tích cực trong học tập và rèn luyện. Về phía nhà trường, các thầy cô cần hiểu được suy nghĩ, cảm nhận, thái độ tình cảm của sinh viên đối với ngành học và những gì họ đang hướng tới để giúp các em hiểu và thích ứng tốt hơn với ngành học. 3.2. Thích ứng với nội dung học tập Nội dung, chương trình học tập ở trường cao đẳng không chỉ là những kiến thức cơ bản như ở trường phổ thông mà bao gồm các khối kiến thức cơ sở (các môn Lý luận - Chính trị, Tâm lý - Giáo dục, Ngoại ngữ, Giáo dục thể chất - Quốc phòng …) và những kiến thức chuyên ngành (các môn Toán, Vật lý; Văn, lịch sử; Mầm non). Do đó, trong quá trình học tập ở trường cao đẳng, sinh viên không chỉ tiếp cận với nhiều môn học mới, mà khối lượng kiến thức của các môn học cũng rất lớn; có những môn học mang tính trừu tượng cao. Điều đó làm cho sinh viên có những khó khăn nhất định trong việc tiếp thu, 55 56 lĩnh hội nội dung học tập. Trước hết, chúng tôi tìm hiểu sự nhận thức của sinh viên về vai trò của khối kiến thức các môn học đối với việc học tập và tu dưỡng của sinh viên ở trường cao đẳng. Nhận thức được mức độ quan trọng của kiến thức môn học làm cho sinh viên có ý thức tích cực hơn trong học tập. Kết quả bảng 4.3 cho thấy, đa số sinh viên đánh giá các khối kiến thức là quan trọng đối với việc học tập và tu dưỡng hiện nay. Khối kiến thức chuyên ngành được 91.3% sinh viên đánh giá là “quan trọng” (ĐTB = 1.90). Mỗi ngành học có các môn học chuyên ngành khác nhau. Các môn học này cung cấp cho họ những kiến thức, phương pháp và kỹ năng cơ bản, cần thiết giúp họ thực hiện có kết quả nhiệm vụ giảng dạy theo chuyên ngành được đào tạo. Bảng 3.3: Đánh giá của sinh viên về các khối kiến thức Các mức độ (%) TT Nội dung Quan trọng Ít quan trọng Không quan trọng ĐTB SD 1 Các môn học về Lý luận-Chính trị (Triết học, Kinh tế-Chính trị, Lịch sử đảng, Tư tưởng HCM... 74.9 23.8 1.3 1.74 0.47 2 Tiếng Anh 52.4 43.7 3.9 1.48 0.57 3 Bộ môn Tâm lý-Giáo dục(Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi-SP, Giáo dục học đại cương, Hoạt động dạy học, Hoạt động giáo dục….) 87.0 11.3 1.7 1.85 0.40 4 Các môn Giáo dục thể chất - Quốc phòng 35.5 58.4 6.1 1.29 0.58 5 Các môn chuyên ngành Toán – Lý (hoặc Văn - Sử, hoặc Mầm non) 91.3 7.4 1.3 1.90 0.34 Khối kiến thức về bộ môn Tâm lý giáo dục được sinh viên đánh giá với tỉ lệ khá cao (chiếm 87.0% và ĐTB = 1.85). Các em thấy được tầm quan trọng của bộ môn Tâm lý giáo dục vì nó trang bị cho các em những kiến thức về Tâm lý học và giáo dục học để các em có khả năng phân tích và lý giải các hiện tượng tâm lý và biểu hiện đa dạng của nó theo quan điểm khoa học, cung 57 cấp cho sinh viên hệ thống kiến thức cơ bản về khoa học giáo dục, thấy được vai trò quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội, từ đó các em có kỹ năng vận dụng chúng vào quá trình học tập, rèn luyện, nghiên cứu ở trường sư phạm và giải thích, xử lý các vấn đề đặt ra trong dạy học và giáo dục ở trường phổ thông và trường mầm non sau này. Hơn nữa, bộ môn Tâm lý giáo dục giúp các em hiểu rõ hơn về vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và những yêu cầu về phẩm chất, năng lực đối với người giáo viên, từ đó các em có ý thức tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất và năng lực sư phạm để trở thành người giáo viên giỏi trong tương lai. Khối kiến thức bộ môn Lý luận chính trị cũng được nhiều sinh viên đánh giá là “quan trọng” (74.9% và ĐTB = 1.74) bởi vì các môn học này giúp các em có những hiểu biết, quan điểm, cách nhìn duy vật biện chứng đối với tự nhiên, xã hội, con người; nắm được đường lối, chủ chương, pháp luật của Đảng và nhà nước…Từ đó, các em có định hướng đúng đắn, có lý tưởng phấn đấu phù hợp với mục tiêu đào tạo của nhà trường, của xã hội. Số lượng sinh viên cho rằng môn học Tiếng Anh là “ít quan trọng” và “không quan trọng” chiếm số lượng đáng kể (52.4% và ĐTB = 1.48). “Tiếng Anh” là môn học giúp cho sinh viên có cơ hội để mở rộng kiến thức, là phương tiện tiếp cận với những thành tựu khoa học tiên tiến, hiện đại của nhân loại. Tuy nhiên, Sơn La là một tỉnh miền núi kinh tế - xã hội chậm phát triển nên việc học và sử dụng ngoại ngữ nói chung và “Tiếng Anh” nói riêng chưa được phổ biến rộng rãi. Mặt khác, đa số các em ở vùng sâu, vùng xa, nông thôn, sau khi tốt nghiệp, các em sẽ trở về dạy học ở bản làng của mình nơi mà hầu hết học sinh là con em dân tộc thiểu số, các em học tập bằng tiếng Việt đã khó khăn nên ngoại ngữ hầu như không được sử dụng, hoặc rất ít. Do đó, những sinh viên cho rằng môn học này không quan trọng vì nó không giúp nhiều cho họ trong việc giảng dạy ở trường phổ thông Môn Giáo dục thể chất - Quốc phòng giúp cho sinh viên phát triển nhân cách toàn diện, có kiến thức về vệ sinh, bảo vệ sức khoẻ, rèn luyện thể chất và kiến thức về quốc phòng, an ninh, từ đó các em có ý thức rèn luyện bản thân, 58 vệ sinh môi trường, ý thức bảo vệ tổ quốc. Tuy vậy, có một bộ phận sinh viên cho rằng môn học này “ít quan trọng” hoặc “không quan trọng” (chiếm 65% và ĐTB = 1.29) là do các em chưa có sự nhận thức đúng đắn về môn học vì cho rằng môn học này không tính điểm vào điểm trung bình chung của toàn khoá học mà cấp chứng chỉ và là điều kiện để dự thi tốt nghiệp, hoặc nó không phục vụ trực tiếp cho việc giảng dạy của các em ở trường phổ thông. Các môn học, các khối kiến thức trong chương trình học là yêu cầu chung mà tất cả sinh viên phải đạt được trong quá trình học tập ở trường CĐSP để các em không chỉ nắm vững kiến thức chuyên ngành mà còn có hiểu biết sâu, rộng về các lĩnh vực khác của xã hội, có nhân cách phát triển toàn diện để thực hiện tốt nhiệm vụ giáo dục thế hệ trẻ. Nhà trường, các thầy cô giáo cần làm cho sinh viên thấy rõ vai trò quan trọng của môn học qua mỗi bài giảng của mình. Bản thân mỗi sinh viên cần nhận thức đúng tầm quan trọng của từng môn học đối với việc học tập, rèn luyện của bản thân và với nghề nghiệp tương lai của mình. Để xem xét ảnh hưởng sự nhận thức về mức độ quan trọng của các khối kiến thức đến tâm trạng của của sinh viên trong học tập, chúng tôi tìm hiểu mức độ hài lòng của sinh viên trong các giờ học. Khi sinh viên hứng thú với nội dung bài học, tích cực và hài lòng trong giờ học cũng là một biểu hiện của sự thích ứng với NDHT. Kết quả nghiên cứu về tâm trạng của sinh viên trong các giờ học được trình bày trong bảng 3.4. Sinh viên “hài lòng” trong giờ học các môn học thuộc khối kiến thức chuyên ngành cũng chiếm số lượng nhiều nhất (65.8% và ĐTB = 1.61), tiếp sau là bộ môn Tâm lý giáo dục (62.8% và ĐTB = 1.60) và bộ môn Lý luận chính trị (53.2% và ĐTB = 1.49). Việc đánh giá các môn học này “quan trọng” làm cho sinh viên đi học chuyên cần hơn, có ý thức tích cực tự học, tự nghiên cứu, tập trung cao hơn trong các giờ học. Điều đó giúp các em hiểu bài, nắm vững, hiểu sâu hơn kiến thức môn học, có hứng thú và có tâm trạng “hài lòng” trong các giờ học. 59 Bảng 3.4: Tâm trạng của sinh viên trong các giờ học Các mức độ (%) TT Nội dung Hài lòng Ít hài lòng Không hài lòng ĐTB SD 1 Các môn học về Lý luận-Chính trị (Triết học, Kinh tế-Chính trị, Lịch sử đảng, Tư tưởng HCM... 53.2 42.4 4.3 1.49 0.58 2 Tiếng Anh 27.7 59.7 12.6 1.15 0.62 3 Bộ môn Tâm lý-Giáo dục(Tâm lý học đại cương, Tâm lý học lứa tuổi-SP, Giáo dục học đại cương, Hoạt động dạy học, Hoạt động giáo dục….) 62.8 34.2 3.0 1.60 0.55 4 Các môn Giáo dục thể chất - Quốc phòng 24.2 62.3 13.4 1.11 0.61 5 Các môn chuyên ngành Toán – Lý (hoặc Văn - Sử, hoặc Mầm non) 65.8 29.9 4.3 1.61 0.57 Tuy nhiên, vẫn còn có những sinh viên “không hài lòng” và “ít hài lòng” trong các giờ học. Sinh viên có tâm trạng này chiếm số lượng đáng kể trong các giờ học Tiếng Anh là 72.3% (ĐTB = 1.15) và giờ học Giáo dục thể chất - Quốc phòng là 75.9% (ĐTB = 1.11). Quan sát sinh viên trong giờ học các môn này chúng tôi thấy rằng, nhiều sinh viên không tập trung vào bài giảng, có sinh viên làm bài tập môn học khác, có sinh viên nói chuyện riêng, có sinh viên còn uể oải ngủ gật… Sinh viên “ít hài lòng” hoặc “không hài lòng” trong các giờ học có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau như: không hài lòng với phương pháp giảng dạy của giảng viên, hoặc sinh viên không yêu thích ngành học, hoặc cho rằng môn học đó không quan trọng, hoặc bản thân cảm thấy khó khăn khi học tập môn học đó, hoặc cho rằng môn học đó là không cần thiết. Để làm rõ điều này chúng tôi tìm hiểu thái độ của sinh viên đối với các môn học. Kết quả bảng 3.5 cho thấy, tỷ lệ sinh viên cho rằng môn học có “khá nhiều khái niệm mới” chiếm 75.3% (ĐTB = 0.90), hoặc có “quá nhiều kiến thức trong một môn học” làm cho các em khó tiếp thu chiếm 73.6% (ĐTB = 0.81), hoặc cho rằng “có những môn học rất khó, giá như không phải học thì 60 hay hơn” chiếm 54.7% (ĐTB = 1.22), “cảm thấy khó khăn khi phải tự mình tìm hiểu một vấn đề trong tài liệu” chiếm 74.9% (ĐTB = 0.81). Thực tế cũng cho thấy, việc sinh viên cảm thấy căng thẳng, mệt mỏi một phần là do chưa có phương pháp học tập đúng đắn, chưa có kế hoạch học tập hợp lý. Số lượng sinh viên “không tìm hiểu” hoặc “không thường xuyên” tìm hiểu tài liệu trước khi bắt đầu môn học, bài học chiếm 67.5% (ĐTB = 1.17); có tâm lý để đến “gần thi mới học” làm cho sinh viên cảm thấy “quá tải”, căng thẳng và mệt mỏi. Bảng 3.5: Thái độ của sinh viên đối với các môn học Các mức độ (%) TT Nội dung Đúng Đúng một phần Không đúng ĐTB SD 1 Có nhiều môn học bạn cảm thấy căng thẳng và mệt mỏi 48.1 39.8 12.1 0.64 0.69 2 Có một số môn học ở trường CĐ mà bạn cảm thấy không cần thiết 19.5 40.3 40.3 1.20 0.75 3 Các môn học trong ngành bạn học có khá nhiều khái niệm mới khiến bạn thấy hay bị nhầm lẫn 24.7 60.2 15.2 0.90 0.62 4 Có những môn học rất khó làm bạn nghĩ rằng giá như không học thì hay hơn 22.5 31.2 46.3 1.22 0.79 5 Bạn cảm thấy khó khăn khi phải tự mình tìm hiểu một vấn đề trong tài liệu. 24.2 63.2 12.6 0.87 0.59 6 Có quá nhiều kiến thức trong một môn học làm bạn không thể khái quát được 24.7 67.5 7.8 0.81 0.55 7 Khi bắt đầu một môn học bạn thường tìm hiểu trước nội dung của nó qua tài liệu, thầy cô 33.3 52,4 14.3 1.17 0.67 Để làm rõ khối lượng kiến thức có “quá nhiều” hay không, chúng tôi tìm hiểu thích ứng của sinh viên với khối lượng kiến thức trong chương trình đào tạo ngành học mà sinh viên đang học. Kết quả thu được trong bảng 3.6 cho thấy, nhìn chung sinh viên thích ứng với “khối lượng kiến thức các môn học đã được học” (ĐTB = 1.24). Trong đó, 32% sinh viên cho rằng “khối lượng kiến thức vừa đủ” phù hợp với khả năng tiếp thu của họ; 60.2 % sinh viên cho rằng khối lượng kiến thức là 61 “khá rộng và sâu”. Nội dung, chương trình mỗi môn học có cấu trúc và khối lượng kiến thức phù hợp với chương trình đào tạo, với sự phát triển của khoa học công nghệ, với yêu cầu của thời đại để người học vừa nắm vững kiến thức cũ, vừa luôn cập nhật được kiến thức mới, đồng thời sinh viên hiểu sâu, nắm vững bản chất kiến thức để vận dụng vào trong cuộc sống thực tiễn. Với khối lượng kiến thức như vậy và với tính chất học tập, nghiên cứu ở trường cao đẳng ngoài các kiến thức thầy cô cung cấp trên lớp sinh viên cần tự học, tự nghiên cứu để mở rộng và hiểu sâu được kiến thức môn học. Điều này làm cho nhiều sinh viên cảm thấy “đôi lúc không tiếp thu hết”. Tuy nhiên, vẫn còn (7.8 %) sinh viên cho rằng lượng kiến thức họ đang học là “quá nhiều”. Những em sinh viên này, có thể do ở phổ thông chưa có nền tảng kiến thức vững chắc hoặc trong quá trình học chưa tích cực, chưa nắm vững nội dung cũ thì đã phải tiếp nhận nội dung mới, hoặc các em chưa tìm ra cho mình PPHT phù hợp để tiếp thu kiến thức môn học hiệu quả. Bảng 3.6: Thích ứng của sinh viên với khối lượng kiến thức ngành học Tt Khối lượng kiến thức % ĐTB SD 1 Quá nhiều, khiến bạn không thể tiếp thu được. 7.8 2 Khá rộng và sâu, đôi lúc bạn không tiếp thu hết 60.2 3 Vừa đủ để bạn có thể tiếp thu được. 32 1.24 0.58 Sinh viên nhận thức về môn học, khả năng tiếp thu kiến thức, tâm trạng và thái độ đối với nội dung học tập là khác nhau. Một số sinh viên cho rằng môn học là “không quan trọng”, “không hài lòng” trong giờ học, cảm thấy môn học “khó”, hoặc kiến thức trong chương trình học là “quá nhiều”, căng thẳng, mệt mỏi là biểu hiện chưa thích ứng với yêu cầu học tập ở trường cao đẳng. Những sinh viên này cần có sự nỗ lực bản thân cùng với sự giúp đỡ của thầy cô giáo, bạn bè để có những thay đổi trong nhận thức, vượt qua khó khăn thích ứng với nội dung học tập trong chương trình đào tạo của ngành học. Nguyên nhân sự không thích ứng đó cũng có thể từ phía nhà trường, từ giảng viên. Các giảng viên cần đổi mới, điều chỉnh phương pháp giảng dạy của mình cho phù hợp hơn với trình độ của sinh viên, tạo cho sinh viên hứng thú đối với nội dung môn học. Kết quả về mức độ thích ứng với NDHT thu được qua nghiên cứu như sau: Trung bình 49.8% Thấp 5.2% Cao 45% Biểu đồ 3.2: Mức độ thích ứng của sinh viên với NDHT Kết quả trên biểu đồ 3.2 cho thấy, thích ứng của sinh viên với NDHT ở mức độ trung bình chiếm tỉ lệ nhiều nhất (49.8%), mức độ cao là 45.0% và mức độ thấp là 5.2%. Vấn đề đặt ra ở đây là cần có những biện pháp tác động nhằm giúp các em có mức độ thích ứng thấp và trung bình thích ứng tốt hơn với nội dung kiến thức ngành học. 3.3. Thích ứng với phương pháp học tập Phương pháp học tập là cách thức thực hiện các nhiệm vụ học tập của sinh viên. Khi vào trường cao đẳng, sinh viên tiếp cận với nhiều môn học mới, khối lượng kiến thức lớn và phương pháp giảng dạy mới của giảng viên đòi hỏi mỗi sinh viên phải tìm cho mình PPHT phù hợp. Để làm được điều đó, mỗi sinh viên phải tự giác khắc phục những thói quen trong cách học ở trường phổ thông, tích cực học hỏi kinh nghiệm của các anh chị khoá học trước, tìm hiểu cách giảng dạy của thầy cô, chia xẻ kinh nghiệm với bạn bè và chủ động nghiên cứu chương trình, nội dung học tập các môn học. Cách học phù hợp giúp cho sinh viên đạt được kết quả cao trong học tập. Đó là biểu hiện của sự thích ứng với PPHT ở trường cao đẳng. PPHT của sinh viên được thể hiện qua cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch học tập, cách ghi bài, cách tìm kiếm và đọc tài liệu môn học của sinh viên. 62 63 Bảng 3.7: Cách lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch học tập của sinh viên Các mức độ (%) TT Nội dung Thường xuyên Thỉnh thoảng Không bao giờ ĐTB SD 1 Xác định thời gian hàng ngày dành cho việc học tập thông qua việc lập thời gian biểu 31.6 64.5 3.9 1.28 0.53 2 Xác định trước thời gian học tập cụ thể cho mỗi môn học 38.5 48.1 13.4 1.25 0.68 3 Trong khi học, bạn thực hiện đúng thời gian đã xác định trong kế hoạch 23.8 62.3 13.9 1.10 0.61 4 Nhiều lần bạn không thực hiện được các nội dung trong kế hoach đề ra 34.2 63.2 2.6 0.68 0.52 Kế hoạch học tập là trình tự các công việc và biện pháp cần được thực hiện trong thời gian nhất định. Xây dựng được kế hoạch học tập hợp lý, khoa học giúp sinh viên chủ động và thực hiện có kết quả các nhiệm vụ học tập của mình. Kế hoạch học tập phải được xây dựng xuất phát từ mục tiêu học tập, từ kế hoạch giảng dạy, yêu cầu của giảng viên, phù hợp với điều kiện thực tiễn và khả năng của bản thân. Nhiều sinh viên hiểu rõ tác dụng của việc lập kế hoạch trong quá trình học tập và cũng muốn lập được kế hoạch hợp lý cho mình nhưng không biết làm, hoặc có sinh viên vạch ra được kế hoạch nhưng do kế hoạch không sát thực tế nên không thể thực hiện được. Số liệu bảng 3.7 cho thấy phần lớn sinh viên thích ứng ở mức trung bình với việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch. “Xác định trước thời gian học tập cụ thể cho mỗi môn học” là cách mà nhiều sinh viên thường làm (chiếm 38.5% và ĐTB = 1.25), sau đó là “xác định thời gian hàng ngày dành cho việc học tập thông qua việc lập thời gian biểu” (chiếm 31.6% và ĐTB = 1.28) chứng tỏ đa số sinh viên đã lập kế hoạch học tập. Kết quả trên cũng cho thấy, một số lượng không nhỏ sinh viên “nhiều lần không thực hiện được các nội dung trong kế hoạch đề ra” (chiếm 34.2% và ĐTB = 0.68). Như vậy, sinh viên thích ứng với việc “lập kế hoạch” tốt hơn là việc“thực hiện kế hoạch” đã đề ra. Trong các giờ học trên lớp sinh viên không chỉ phải tiếp thu một khối 64 lượng kiến thức lớn mà trong nhiều môn học kiến thức khá trừu tượng, khó đối với sinh viên đòi hỏi các em phải tập trung nghe giảng và biết ghi chép một cách khoa học. Số liệu thu được qua điều tra cho thấy cách ghi bài của sinh viên như sau: Bảng 3.8: Cách ghi bài của sinh viên trên lớp TT Cách ghi bài % ĐTB SD 1 Ghi nội dung bài giảng của thầy theo ý hiểu của mình 38.5 2 Ghi thật đầy đủ và chi tiết lời giảng của thầy cô, vì theo bạn những kiến thức đó rất quan trọng phục vụ trực tiếp cho việc làm bài thi 58.4 3 Không ghi gì cả vì bạn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfĐánh giá mức độ thích ứng nghề nghiệp của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Sơn La.pdf
Tài liệu liên quan