Luận văn Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học sinh lớp 10 Trung học Phổ thông

MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Thi pháp thể loại và thi pháp Truyện Kiều

1.1.2. Khả năng tiếp nhận Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại của học sinh lớp

10 THPT

1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Vấn đề tích cực hóa hoạt động tiếp nhận tác phẩm văn chương của học sinh THPT

1.2.2. Thực trạng dạy các trích đoạn Truyện Kiều trong chương trình Ngữ văn 10

Chƣơng 2: DẠY ĐỌC HIỂU CÁC TRÍCH ĐOẠN TRUYỆN KIỀU THEO ĐẶC

TRƢNG THI PHÁP THỂ LOẠI CHO HỌC SINH LỚP 10 TRUNG HỌC PHỔ

THÔNG

2.1. Những yêu cầu của việc dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi

pháp thể loại

2.1.1. Dạy học văn theo đặc trưng thi pháp thể loại

2.1.2. Những yêu cầu của việc dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi

pháp thể loại7

2.2. Một số giải pháp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể

loại

2.2.1. Biện pháp đọc hiểu các đoạn trích Truyện Kiều từ đặc trưng ngôn ngữ thể loại

2.2.2. Biện pháp đọc hiểu các đoạn trích Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp cốt truyện

2.2.3. Biện pháp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều từ đặc trưng thi pháp nhân vật

CHƢƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM

3.1. Những vấn đề chung của việc Thực nghiệm dạy học các đoạn trích Truyện Kiều theo

đặc trưng thi pháp thể loại

3.1.1. Mục đích thực nghiệm

3.1.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm

3.1.3. Nội dung thực nghiệm

3.2. Tiến trình và kết quả thực nghiệm

3.2.1. Tiến trình thực nghiệm

3.2.2. Kết quả thực nghiệm

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf118 trang | Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 05/09/2024 | Lượt xem: 439 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dạy học các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trưng thi pháp thể loại cho học sinh lớp 10 Trung học Phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh thức, phân tích các khía cạnh hình thức để rút ra ý nghĩa thẩm mĩ của tác phẩm. Khi tiến hành triển khai dạy học theo hướng tiếp cận thi pháp học, phải tuân theo những nguyên tắc như sau: - Nguyên tắc thứ nhất là: Dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải đi từ văn bản: Hiểu biết ngoài văn bản quan trọng nhưng không thể thay thế cho việc khám phá bản thân văn bản. Dạy học theo dướng tiếp cận văn bản giúp người đọc, người nghiên cứu, giảng dạy không thoát li văn bản vốn là đề án tiếp nhận mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc. Chú trọng văn bản nhưng nhận thức về văn bản của tác phẩm cũng như quan điểm và phương pháp tiếp vận văn bản thường không thống nhất và đồng nhất trong giới nghiên cứu, phê bình và giảng dạy văn học. 54 Văn bản là thông điệp nhà văn gửi bạn đọc. Đặc trưng cơ bản của văn bản nghệ thuật là thông tin thẩm mĩ. Nhà văn gửi đến cuộc đời niềm xúc động mãnh liệt nhất, những rung động tha thiết về cuộc sống và con người. Đây là điểm mấu chốt phân biệt phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học đích thực với lối phân tích xã hội học tầm thường, biến tác phẩm văn học thành một đề cương giáo huấn, một sơ đồ xã hội học hay một hiện tượng lịch sử cằn cỗi, một phương tiện minh họa giản đơn về bức tranh xã hội Nói đến tác phẩm văn chương là nói đến một văn bản trong chỉnh thể. Tác phẩm văn chương được cấu tạo bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhằm xây dựng nên một thế giới nghệ thuật riêng, được kết cấu một cách chặt chẽ trong những quan hệ giữa nội dung và hình thức, giữa bộ phận và tổng thể, giữa phản ánh và biểu hiện, giữa văn bản và tiền văn bản Trong giảng văn, một số GV vẫn có xu hướng xé lẻ, đập vụn tác phẩm làm cho văn bản văn chương mất đi tính nhất quán, cảm hứng chủ đạo của nhà văn, tư tưởng chủ đề của tác phẩm bị mờ nhạt. - Nguyên tắc thứ hai là: dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải tuân theo các đặc trưng thi pháp thể loại. Trong giờ giảng văn theo hướng thi pháp, cần chú ý đến thể loại vì nó chi phối tất cả các yếu tố còn lại của hình thức tác phẩm. Bakhtin nói: “Thi pháp phải bắt đầu với thể loại”. Mỗi thể loại có một đặc điểm riêng và yêu cầu phân tích theo một phương pháp riêng. GV cần phát hiện được cho ra “tính chất loại trong thể”. Xác định được đúng loại thể của tác phẩm mới giúp ta tiếp nhận được đúng và trúng, có như vậy GV mới thâm nhập được vào hồn cốt của tác phẩm và đen lại được sinh khí cho giờ văn. - Nguyên tắc thứ ba là: Dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải đặt HS vào trung tâm của quá trình dạy học Tư tưởng nhấn mạnh vai tích cực chủ động của người học, xem người học là chủ thể của quá trình học tập đã có từ lâu. Một GV sáng tạo là người biết giúp đỡ hịc sinh tiến bộ nhanh chóng trên con đường tự học. GV phải là người hướng dẫn, cố vấn hơn là chỉ đóng vai trò là công cụ truyền đạt tri thức. GV quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân và của tập thể HS để xây dựng bài học. Giáo án được thiết kế theo kiểu phân nhánh. Những dự kiến của GV phải được tập trung chủ yếu vào các hoạt 55 động của HS và cách tổ chức các hoạt động đó, cùng với khả năng diễn biến các hoạt động của HS để khi lên lớp có thể linh hoạt điều chỉnh theo diễn tiến của tiết học, thực hiện giờ học phân hóa theo trình độ và năng lực HS, tạo điều kiện thuận lợi cho sự bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi HS. Vấn đề người học luôn luôn được đặt lên hàng đầu trong quá trình dạy học, nhất là với những khuynh hướng tiến bộ. HS bao giờ cũng là đối tượng nhằm tạo được những kết quả mong muốn. Ngay trước nhu cầu đào tạo thích ứng với bước phát triển của khoa học kĩ thuật hiện đại, nền giáo dục bảo thủ vẫn phải thừa nhận thực thể HS như một đối tượng không thể không quan tâm. - Nguyên tắc thứ tư là: dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học phải tích hợp các cách tiếp cận, các phương pháp, biện pháp và công cụ dạy học một cách thích hợp. Không có cách tiếp cận nào hay một phương pháp nào là vạn năng. Dạy học tác phẩm theo hướng tiếp cận thi pháp học không có nghĩa là người dạy sẽ từ chối các con đường tiếp cận khác mà phải xác định đâu là con đường chủ đạo, chi phối. Cùng với đó, phải áp dụng một cách tổng hợp nhiều phương pháp, biện pháp dạy thích hợp như phương pháp đọc sáng tạo, phương pháp nghiên cứu hay sử dụng câu hỏi có vấn đề, sử dụng Grap, áp dụng công nghệ thông tin một cách nhuần nhuyễn mới có thể đem lại một giờ văn thành công. 2.2. Một số giải pháp dạy đọc hiểu các trích đoạn Truyện Kiều theo đặc trƣng thi pháp thể loại 2.2.1. Biện pháp đọc hiểu các đoạn trích Truyện Kiều từ đặc trưng ngôn ngữ thể loại 2.2.1.1. Ngôn ngữ thể loại của Truyện Kiều Ngôn ngữ trong Truyện Kiềulà một thành tựu vô tiền khoáng hậu trong lịch sử văn học dân tộc. Tác phẩm là mốc lịch sử quan trọng đánh dấu sự trưởng thành của ngôn ngữ văn học dân tộc. Tài năng của tác giả Truyện Kiều thể hiện qua việc tái tạo một tác phẩm văn xuôi chữ Hán có vị trí mờ nhạt trong văn học cổ điển Trung Quốc thành một tác phẩm có giá trị của văn học cổ điển Việt Nam với số lượng 3254 câu lục bát. Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đã huy động một số vốn từ vựng phong phú, đa dạng và liên kết chúng thành những câu thơ tuyệt mĩ trong văn học cổ điển Việt Nam. 56 Như vậy, việc giảng dạy Truyện Kiều cũng như các trích đoạn từ tác phẩm này không thể không xuất phát từ yếu tố ngôn ngữ. PGS Nguyễn Thúy Hồng trong luận án của mình đã chỉ rõ: “Lĩnh vực tiếp cận từ những yếu tố nghệ thuật giữ vị trí là đơn vị nhỏ nhất nhưng cũng là đơn vị cơ bản của tác phẩm, bởi văn học là nghệ thuật ngôn từ và ngôn từ luôn là yếu tố đầu tiên của tác phẩm văn học” [15, tr.22]. Có một thực tế là, các tác phẩm văn học trung đại nói chung và Truyện Kiều nói riêng vốn có rất nhiều từ ngữ Hán Việt mà do sự cách trở về thời gian đã ngày càng trở nên khó hiểu dối với độc giả hiện đại, nhất là với lớp độc giả ở lứa tuổi HS, thanh niên. Không hiểu từ ngữ, không hiểu được nghệ thuật sử dụng từ ngữ trong Truyện Kiều, người đọc khó có thể hiểu một kiệt tác xứng đáng làm vinh dự cho một nền văn học dân tộc. Không hiểu sẽ dẫn tới việc yêu thích, trân trọng và tự hào và không thể kế thừa cha ông trong công cuộc dựng xây văn hóa mới. Trong vai trò là người thầy dạy Ngữ văn, để hướng dẫn HS tìm hiểu ngôn ngữ Truyện Kiều trong vai trò là chìa khóa giúp ta bước vào thế giới nghệ thuật của Nguyễn Du, đặc biệt trong môi trường đặc thù là học đường, chúng tôi không nhằm nghiên cứu trên bình diện khái quát những thành công về ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm cũng như cấu trúc ngôn ngữ tác phẩm mà xuất phát từ những chỗ HS còn vướng khi tiếp nhận tác phẩm. Trong Truyện Kiều có hai thành phần ngôn ngữ với hai nguồn gốc khác nhau là từ ngữ Việt và từ ngữ Hán Việt. - Nhóm từ thuần Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều So với hệ thống các truyện thơ Nôm, Truyện Kiều là tác phẩm đã sử dụng tổng hợp các thành phần ngôn ngữ thuộc ngôn ngữ xã hội và ngôn ngữ văn học dân gian với số lượng nhiều hơn. Điều này chứng tỏ vốn ngôn ngữ và tài năng sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du ở trình độ rất cao. PGS.TS Nguyễn Thúy Hồng đã thống kê trong luận án, trong Truyện Kiều, các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ có 331 từ ngữ và 429 lần xuất hiện, chiếm một vị trí đáng kể trong toàn bộ hệ thống từ vựng của tác phẩm. Phong cách ngôn ngữ này được Nguyễn Du đưa vào tác phẩm ở cấp độ từ và ngữ tự do. Với các hư từ: thì, là, mà, làm chi, hỡi, ôi vốn chỉ có ý nghĩa ngữ pháp, ý nghĩa biểu cảm mà không có ý nghĩa từ vựng, tác giả khai tác ý nghĩa biểu cảm tối đa tạo nên sự dồn nén cảm xúc cho câu thơ. Khi diễn tả nỗi đau 57 đớn của Thúy Kiều khi đứng trước bi kịch tình yêu tan vỡ, phải hi sinh hạnh phúc cá nhân để bán mình chuộc cha và em: “Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang, Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây” Hay để diễn tả tâm trạng của Kiều khi ở chốn lầu xanh phải mua vui cho khách làng chơi mà trong lòng tê tái, Nguyễn Du viết: “Vui là vui gượng kẻo là Ai tri âm đó mặn mà với ai” Nguyễn Du còn vận dụng nhiều vốn từ ngữ thông tục (các từ xưng hô: min, mày tao; các từ đưa đẩy: âu đành, ắt là, ví chăng, dẫu sao, làm chi, họa là,; các ngữ tự do được cấu tạo bằng các từ thông tục: còn chi là, thôi thế là xong, đi đời nhà ma, ai giằng cho ra; hay những tiếng chửi: chém cha, chẳng văng vào mặt) Đây là những từ ngữ mang tính xã hội, hoạt động tự do, linh hoạt và có giá trị biểu cảm cao làm rõ tâm trạng nhân vật. Với hệ thống các hình tượng phong phú như Truyện Kiều, các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ có vai trò to lớn đối với việc cá thể hóa các nhân vật. Ở các nhân vật được xây dựng chủ yếu bằng các bút pháp nghệ thuật ước lệ trang nhã như Thúy Vân, Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ được sử dụng trong ngôn ngữ đối thoại của họ là những từ có tính chất đời sống văn hóa, nó khác biệt với thứ từ ngữ vô học của Tú Bà, Mã Giám Sinh hay Sở Khanh. Đồng thời ngôn ngữ quần chúng đã góp phần tạo nên những câu thơ chân thực, khắc họa hiện thực tâm trạng và hiện thực khách quan. Từ ngữ khẩu ngữ trong tác phẩm còn làm giảm đi những phần cao kì khó hiểu của nghệ thuật từ chương, đặc biệt là ở thời kì văn học trung đại. Sau các từ ngữ có phong cách khẩu ngữ, các ngữ có phong cách thành ngữ được Nguyễn Du sử dụng với số lượng khá lớn. Tác giả rất sáng tạo khi sử dụng thành ngữ nguyên mẫu, khi lại tạo ra những thành ngữ mới trên thành ngữ sẵn có, khi lại chỉ sử dụng một phần hoặc dẫn ý thành ngữ. Yếu tố này giữ vai trò chức năng nghệ thuật đối với việc xây dựng hình tượng nghệ thuật cho tác phẩm. 58 So với hai phong cách ngôn ngữ trên, các ngữ có phong cách tục ngữ được Nguyễn Du vận dụng ít hơn song lại có những nét riêng độc đáo, thường chỉ xuất hiện trong đoạn thơ cần khái quát hoặc đúc kết số phận, cảnh ngộ của nhân vật nên thường xuất hiện ở lời bình ngoại đề của tác giả thể hiện chiều sâu khái quát cho câu thơ đồng thời thể hiện tính chất tự nghiệm của nhân vật về cuộc đời. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tìm về với cội nguồn dân tộc trên cả hai phương diện hình thức: thể loại và ngôn từ. Cùng với thể thơ lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc, tác giả cũng khai thác kiểu ngôn từ ca dao với nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ bình dị mà tình cảm, thuần phác mà đằm thắm tạo nên âm điệu tình cảm nhẹ nhàng, tha thiết, ý nhị như trong ca dao. Nguyễn Du đã đưa những từ không quá cao xa khác biệt với ngôn ngữ quần chúng nhưng cũng không quá dung tục như các từ ngư có phong cách khẩu ngữ. Đó là biểu hiện của sự giao thoa giữa ngôn ngữ văn học dân gian và ngôn ngữ văn học viết khiến cho các ngữ mang phong cách ca dao giữ một chức năng nghệ thuật quan trọng trong tác phẩm. Sự xuất hiện từ ngữ Việt thể hiện tính dân tộc sâu sắc của ngôn ngữ Truyện Kiều khiến tác phẩm gần gũi với thiên nhiên và tâm hồn Việt Nam. Với số lượng ngôn ngữ Việt phong phú về số lượng, đa dạng về kiểu loại, độc đáo về nội dung ý nghĩa thuộc các lớp từ ngữ có chức năng nghệ thuật nổi bật: khẩu ngữ, thành ngữ, tục ngữ, ca dao chúng ta thấy những từ ngữ Việt thực sự giữ vai trò chủ đạo trong ngôn ngữ tác phẩm. Nguyễn Du cũng tận dụng khả năng sử dụng ngôn từ có tính riêng biệt của thể loại lục bát truyền thống: từ ngữ dung dị, mộc mạc nhưng có khả năng tả cảnh sinh động, tả hình sâu sắc, có nhịp điệu thiết tha khiến Truyện Kiều đạt đến đỉnh cao của trình độ nghệ thuật và đưa ngôn ngữ dân tộc và ngôn ngữ ngữ văn học dân gian trở thành ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn chương bác học. - Nhóm từ Hán Việt trong ngôn ngữ nghệ thuật Truyện Kiều Từ ngữ Hán Việt được vận dụng trong ngôn ngữ Truyện Kiều chủ yếu là những từ ngữ thuộc lĩnh vực ngôn ngữ văn hóa của Trung Quốc như các địa danh, nhân danh và điển cố thi liệu quen thuộc của văn chương Trung Quốc. Trong đó, từ địa danh, nhân danh xuất hiện nhiều bởi sự vay mượn cốt truyện từ Trung Quốc và do sự diễn biến phức tạp, 59 nhiều tình tiết của cốt truyện gốc. Nhưng đồng thời, việc dùng tên người, tên đất Trung Quốc cũng là một biện pháp nghệ thuật làm gia tăng tính trang trọng cho ngôn ngữ tác phẩm. Tác giả giữ nguyên toàn bộ tên nhân vật cũng như các địa danh trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, cũng có thể coi đây là một biện pháp “ngụy trang” khéo léo cho chủ đề tư tưởng tác phẩm. Ngoài ra, Truyện Kiều còn có các thuật ngữ, khái niệm triết học, văn hóa Hán Việt. Đây là đặc điểm có tính lịch sử của một thời kì, một khu vực văn hóa và cũng là đặc điểm phổ quát của thơ ca trung đại Việt Nam. Ngôn ngữ Việt tuy phong phú, sinh động nhưng thiếu các từ có tính chất khái quát, triết lí, nước ta cũng không phải nơi sản sinh ra các tư tưởng triết học, chính trị với hệ thống thuật ngữ, khái niệm. Bởi vậy, để tác phẩm chứa đựng được tầm triết lí sâu sắc với nội dung mang ý nghĩa khái quát các phương diện đời sống, số phận con người, tâm lí nhân vật, Nguyễn Du đã sử dụng nhiều khái niệm Hán Việt chủ yếu là các khái niệm của triết học Nho giáo, Phật giáo. Việc sử dụng các thuật ngữ khái niệm Hán Việt đã đem đến cho tác phẩm môi trường xã hội phù hợp đặc biệt là các đoạn tả cảnh gắn với môi trường quý tộc. Thí dụ cảnh buồng Thúy “Êm đềm trướng rủ màn che”, cảnh nhà Hoạn Thư “Nhà hương, cao cuốn bức rèm” Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chú trọng miêu tả con người bên trong của nhân vật, đặc biệt là các nhân vật chính diện hay xuất thân quý tộc. Tác giả huy động các từ ngữ Hán Việt để biểu đạt dòng suy tư duy lí theo sự chi phối của hệ tư tưởng Nho giáo đặc biệt là trong hoàn cảnh các nhân vật rơi vào hoàn cảnh có vấn đề. Những từ: hiếu, trung, trinh, tòng, phu, phép công, anh hùng xuất hiện như những phát ngôn cho các quan điểm đạo đức chính trị phong kiến. Ngoài ra, các từ ngữ thuộc triết lí Phật giáo, hệ tư tưởng có sức sống mạnh mẽ trong tâm thức Việt cũng xuất hiện để phát ngôn cho dòng suy tư duy lí của nhân vật. Những từ này đều là từ Hán Việt do người Việt tiếp thu Phật giáo chủ yếu qua trung gian văn hóa là Trung Quốc để tập trung thể hiện cách lí giải về thế sự nhân sinh với những thuật ngữ: nhân quả, đoạn tràng, oan nghiệp, Có thể nói, tác giả đã khai thác tối đa kho từ vựng phong phú trong học thuyết Khổng Mạnh và triết lí Phật giáo để cung cấp cho Truyện Kiều nói riêng và ngôn ngữ Việt nói chung một khả năng dồi dào giàu tính khái quát, triết lí. 60 Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn đưa những điển cố, thi liệu Trung Quốc như là một dạng ngôn ngữ có phong cách nghệ thuật đặc biệt. Trên thực tế, đây là dạng ngôn ngữ văn học có chọn lọc được lấy ra từ trong sách vở Trung Quốc: thơ ca, kinh truyện, sách sử vốn chỉ quen thuộc với lớp độc giả là trí thức Nho học mà xa lạ với ngôn ngữ đời sống. Việc sử dụng điển cố thi liệu là một biện pháp tu từ làm cho văn bản giàu tính hàm súc, trang nhã đồng thời thể hiện sự uyên thâm Hán học của tác giả. Tuy Nguyễn Du rất linh hoạt khi sử dụ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_day_hoc_cac_trich_doan_truyen_kieu_theo_dac_trung_t.pdf
Tài liệu liên quan