DANH MỤC CÁC HÌNH ẢNH. vi
DANH MỤC BẢNG BIỂU .vii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ GIẢI THÍCH THUẬT NGỮ .viii
CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ HIỆU QUẢ KINH TẾ - XÃ
HỘI TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI. 6
1.1 Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới và hiệu quả kinh tế - xã hội. 6
1.2 Sự cần thiết xây dựng nông thôn mới trong toàn quốc . 10
1.2.1 Cơ sở lý luận và thực tiễn về xây dựng nông thôn truyền thống . 10
1.2.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn trong xây dựng nông thôn mới hiện nay. 14
1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế – xã hội của chương trình xây dựng
nông thôn mới. 16
1.4 Nội dung đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội trong xây dựng nông thôn mới. 19
1.5 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở trong và ngoài nước . 29
1.5.1 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới trong nước. 29
1.5.2 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở nước ngoài . 35
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1. 42
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA CHƯƠNG
TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN 43
2.1 Giới thiệu khái quát về thành phố Lạng Sơn. 43
2.1.1 Điều kiện tự nhiên. 43
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội . 44
2.1.3 Thuận lợi . 45
2.1.4 Khó khăn . 45
2.2 Thực trạng tình hình triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới
trên địa bàn thành phố Lạng Sơn. 46
2.2.1 Quan điểm về chương trình xây dựng nông thôn mới . 46
2.2.2 Tư tưởng chỉ đạo trong tổ chức thực hiện. 49
2.2.3 Phương châm thực hiện. 53
2.2.4 Nguyên tắc thực hiện . 53
110 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 404 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội của chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chỉ đạo với phương châm “dễ làm trước khó làm sau”
không nóng vội, nhưng không để mất cơ hội.
1.5.2 Kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở nước ngoài
1.5.2.1 Kinh nghiệm ở Trung Quốc
Nông nghiệp, nông thôn Trung Quốc đã trải qua những bước phát triển thăng trầm, từ
khôi phục phát triển tới cải tạo xã hội XHCN đối với nông nghiệp, phong trào hợp tác
hóa nông nghiệp... Qua những chặng đường đó, nông thôn Trung Quốc đã đạt được
những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, nông thôn Trung Quốc vẫn tồn tại nhiều khó khăn
hạn chế. Ngành nghề chủ yếu ở nông thôn là nông nghiệp, kinh tế thuần nông, thu
nhập của dân cư nông thôn thấp, KT - XH nông thôn, thành thị phát triển độc lập nhau,
hoàn toàn khép kín, khác nhau... Sự phân cách thành thị với nông thôn, công nghiệp
với nông nghiệp phản ánh cơ cấu nhị nguyên thành thị và nông thôn Trung Quốc. Sự
phân cách đó dẫn đến KT - XH Trung Quốc đứng trước những khó khăn nghiêm
36
trọng. Trước những khó khăn đó, Trung Quốc đã phải tìm con đường mới nhằm phát
triển nông nghiệp, nông thôn.
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI năm 1978 của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đưa ra
quyết sách cải cách, lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm. Việc từng bước thực hiện chế
độ khoán trách nhiệm ở nông thôn đã mở màn cho công cuộc cải cách ở Trung Quốc.
Công cuộc cải cách nông thôn của Trung Quốc qua nhiều dấu mốc:
Giai đoạn từ năm 1978 đến năm 1984, thực hiện nới lỏng chính sách nông thôn, làm
sống động kinh tế nông thôn. Trung Quốc thực hiện khoán đến hộ gia đình, xóa bỏ
công xã nhân dân, bước đầu hình thành thể chế kinh doanh cơ bản ở nông thôn. Năm
1982, trên cơ sở tổng kết cách làm của các địa phương, Trung Quốc đã ban hành “Văn
kiện số 1”, khẳng định tính chất XHCN của khoán sản phẩm đến hộ và xác định rõ chế
độ khoán sản phẩm đến hộ đã ngày càng trở thành hình thức chủ yếu thực hiện chế độ
trách nhiệm trong sản xuất nông nghiệp. Thông qua cải cách này, quyền tự chủ kinh
doanh của nông dân đã được phát huy mạnh mẽ, góp phần phát triển lực lượng sản
xuất, thúc đẩy nông nghiệp tăng trưởng, tạo tiền đề cho cải cách và phát triển toàn diện
nông thôn Trung Quốc những năm sau đó.
Giai đoạn từ năm 1985 đến 1991, thực hiện cải cách thể chế lưu thông, xây dựng cơ
chế thị trường. Trong hai năm 1985, 1986, Trung Quốc đã ban hành “Văn kiện số 1”
nhằm thực hiện cải cách chế độ thu mua thống nhất, thống nhất tiêu thụ nông sản
phẩm, xác định rõ thực hiện hai chế độ thu mua là theo hợp đồng và mua theo giá trên
thị trường. Việc điều chỉnh cơ cấu ngành nghề ở nông thôn được đặc biệt chú trọng.
Trung Quốc thực hiện khuyến khích phát triển nhiều loại hình kinh doanh, tối ưu hóa
cơ cấu ngành trồng trọt, thúc đẩy nông, lâm, ngư nghiệp phát triển toàn diện, kinh tế
nông thôn phát triển từ thuần nông truyền thống sang đa ngành. Các xí nghiệp hương
trấn phát triển mạnh mẽ vào những năm 80 cho thấy thị trường nông thôn đã phát triển
sôi động, kinh tế hàng hóa dần được hình thành trong kinh tế nông nghiệp, nông thôn,
đặt nền móng cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn quá độ toàn diện sang kinh tế thị
trường.
Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001, thúc đẩy phát triển tổng thể thành thị, nông
37
thôn, từng bước loại bỏ cơ cấu kinh tế nhị nguyên. Đại hội XIV của Đảng Cộng sản
Trung Quốc năm 1992 xác định mục tiêu của cải cách thể chế kinh tế là xây dựng thể
chế kinh tế thị trường XHCN. Cải cách nông thôn không ngừng đi vào chiều sâu theo
yêu cầu xây dựng thể chế kinh tế thị trường XHCN. Thông qua việc cải cách quyền sở
hữu tài sản, xí nghiệp hương trấn đã phát triển mạnh mẽ, trở thành lực lượng chủ thể
của kinh tế nông thôn. Các nguồn lực sản xuất ở Trung Quốc đã dần dần được thực
hiện phân bổ theo nhu cầu thị trường.
Từ năm 2002 đến nay là giai đoạn tính toán tổng thể phát triển thành thị và nông thôn,
xây dựng NTM XHCN. Để định hướng cho mô hình xây dựng NTM. Từ năm 2004
đến năm 2008, Trung ương Đảng và Chính phủ công bố 05 văn kiện (Văn kiện số 1)
đã áp dụng các chính sách, giải pháp mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn nhằm thúc đẩy cải
cách, phát triển nông thôn.
Việc chỉ đạo của Chính phủ trước kia cũng kiểu mệnh lệnh hành chính, nên việc thực
hiện khá miễn cưỡng. Sau đó, việc thực hiện xây dựng NTM linh hoạt hơn, dựa trên
quy hoạch tổng thể (ngân sách nhà nước và địa phương). Căn cứ tình hình cụ thể ở
các địa phương, đặc điểm tự nhiên, xã hội, để đưa ra chính sách, biện pháp thích
hợp. Trong đó, các giải pháp thúc đẩy cải cách, phát triển nông thôn chủ yếu: Thứ
nhất, thúc đẩy cải cách thuế nông nghiệp; năm 2004, Trung Quốc thực hiện xóa bỏ
thuế đối với đặc sản nông nghiệp; năm 2006 xóa bỏ thuế nông nghiệp. Thứ hai, thúc
đẩy cải cách tổng hợp nông thôn, từ năm 2006 thực hiện thí điểm trước hết với cơ
quan xã, thị trấn, giáo dục nghĩa vụ nông thôn và thể chế quản lý tài chính huyện, xã.
Thứ ba, đẩy mạnh giải quyết vấn đề phát sinh do nông dân vào thành phố làm thuê,
các vấn đề việc làm, an sinh xã hội, nhà ở, giáo dục, dịch vụ y tế khám chữa bệnh
cho nông dân làm thuê ở thành phố, tạo môi trường tốt cho nông dân vào thành phố
làm thuê. Thứ tư, đi sâu mở cửa đối ngoại nông nghiệp toàn diện, nhiều tầng nấc,
nhiều lĩnh vực. Thứ năm, thúc đẩy thiết thực các sự nghiệp xã hội ở nông thôn, ngân
sách hỗ trợ đối với nông nghiệp, nông thôn, xây dựng chế độ y tế hợp tác nông thôn
kiểu mới và chế độ bảo đảm sinh hoạt tối thiểu cho nông thôn, miễn trừ toàn bộ học
phí, tạp phí giai đoạn giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn, xây dựng hệ thống dịch vụ
văn hóa công cộng nông thôn.
38
Hơn 30 năm sau cải cách, nông thôn Trung Quốc đã có sự chuyển biến to lớn, khả
năng cung ứng sản phẩm nông sản được nâng lên rõ rệt, KT - XH nông thôn phát triển,
mức sống của nông dân được nâng lên mạnh mẽ, thể chế ở nông thôn có sự thay đổi
sâu sắc. Đến năm 2009, thu nhập bình quân của cư dân nông thôn lần đầu tiên đạt mức
trên 5.000 NDT, tăng 8,5% so với năm trước. Cũng trong năm 2009, Trung Quốc đầu
tư làm mới, sửa chữa khoảng 300.000 km đường bộ nông thôn; hỗ trợ trên 46 triệu
người nghèo đảm bảo đời sống tối thiểu; triển khai thí điểm ở 320 huyện về bảo hiểm
dưỡng lão xã hội nông thôn... [22].
Một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình thực hiện cải cách nông thôn và xây dựng NTM
XHCN ở Trung Quốc:
Thứ nhất, luôn kiên trì với mục tiêu cơ bản đảm bảo lợi ích kinh tế của nông dân. Con
đường cải cách nông thôn Trung Quốc lấy việc giải quyết những vấn đề mà nông dân
quan tâm, trực tiếp, gắn trực tiếp với đời sống của người dân, do đó đã phát huy, khơi
dậy được tính tích cực của đông đảo nông dân, nhờ đó công cuộc cải cách NTM đã
giành được những kết quả to lớn.
Thứ hai, phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của quần chúng nông dân. Trung Quốc
thực hiện kiện toàn cơ chế tự quản lý của nông dân, chế độ bàn bạc công khai, dân chủ
trong các công việc của nông thôn để quần chúng nông dân thực sự có quyền được
biết, quyền tham dự, quyền quản lý, quyền giám sát trong quá trình xây dựng NTM
XHCN.
Thứ ba, xử lý tốt mối quan hệ giữa cải cách, phát triển, ổn định, kiên trì thực hiện thúc
đẩy cải cách có tính toán tổng thể thành thị và nông thôn một cách khoa học căn cứ
vào điều kiện thực tế.
Thứ tư, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cho người dân thông qua các chương trình phổ
cập giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn, xây dựng và kiện toàn cơ chế đảm bảo kinh phí
giáo dục nghĩa vụ ở nông thôn, mở rộng trên quy mô lớn việc bồi dưỡng kỹ năng cho
lao động nông thôn.
39
1.5.2.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Năm 1953, sau khi nội chiến kết thúc, kinh tế Hàn Quốc bị tàn phá hoàn toàn, một
triệu người bị thương vong, kết cấu hạ tầng bị phá hoại nặng nề, ước tính trị giá gần 3
tỉ USD theo tỉ giá năm 1950. Đến những năm đầu thập kỷ 60, Hàn Quốc vẫn là một
nước chậm phát triển, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu.
Với mục tiêu CNH nhanh chóng, Hàn Quốc dốc toàn lực đầu tư phát triển các ngành
công nghiệp. Tốc độ tăng trưởng của lĩnh vực công nghiệp là 10-10,5%, trong khi
nông nghiệp tăng trưởng giảm từ 5,3% xuống 2,5% [13]. Thành thị phát triển đối
nghịch với nông thôn lạc hậu, nông dân di cư ra làm quá tải thành thị. Cuối thập kỷ 60,
sự tăng trưởng mất cân đối trong nền kinh tế lên tới đỉnh điểm, đe dọa sự ổn định của
quá trình CNH. Năm 1970, Tổng thống Pắc Chung Hy đã phát động phong trào
“Saemaulundong” (Phong trào đổi mới nông thôn). Phong trào đề cao “Tinh thần
Saemaul” gồm 3 thành tố: “Chăm chỉ - Tự lực - Hợp tác”. “Chăm chỉ” là động cơ tự
nguyện của người dân, không ngừng vượt qua khó khăn để tiến tới thành công, “Tự
lực” là ý chí bản thân, tinh thần làm chủ, chịu trách nhiệm về cuộc sống, vận mệnh
của bản thân và “Hợp tác” là nhận thức về mong muốn phát triển cộng đồng phải nhờ
vào nỗ lực của tập thể. Như vậy, tinh thần của phong trào đổi mới nông thôn đề cao
tinh thần tự chủ, ý chí sáng tạo, tự tin, đoàn kết của cộng đồng dân cư.
Giải pháp để phát triển nông thôn là tạo ra và huy động nội lực của nông dân, bằng
cách tổ chức các nhóm phát triển cộng đồng tại mọi làng, xã. Lượng vật chất nhỏ,
chính sách tốt của Nhà nước chỉ nhằm khơi dậy, kích thích sức mạnh tinh thần, tạo nên
nội lực tiềm tàng to lớn của nông dân.
Những kinh nghiệm từ chính sách được áp dụng cho phong trào đổi mới nông thôn của
Hàn Quốc:
Thứ nhất, phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn.
Trong chương trình xây dụng NTM của Hàn Quốc, Nhà nước chủ yếu đầu tư vật tư
như: xi măng, sắt thép, nhân dân đóng góp công sức, đất đai, tiền của. Sự giúp đỡ của
nhà nước trong những năm đầu chiếm tỷ lệ cao, giảm dần vào các năm sau đó khi qui
mô địa phương và nhân dân tham gia tăng dần.
40
Chương trình bắt đầu bằng các công trình xây dựng cho từng hộ nông dân như ngói
hóa nhà ở, lắp đặt điện thoại, nâng cấp hàng rào quanh nhà... làng nào làm tốt bước cơ
bản mới được chuyển sang xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống của
cộng đồng như đường làng, đường nhánh nông thôn, cầu cống, kè, hệ thống cấp thoát
nước, điện, hội trường, nhà tắm công cộng, sân chơi trẻ em, trồng cây và hoa...
Bước đầu, 16.000 làng được lựa chọn, không phân biệt đặc điểm, làng giàu, làng
nghèo. Xi măng sản xuất ứ thừa của các nhà máy được Chính phủ mua rẻ, phân phối hỗ
trợ mỗi làng 300 bao làm chương trình. Tổng số hỗ trợ cho mỗi làng từ năm 1971 đến
1978 là 84 tấn xi măng và 2,6 tấn sắt thép. Tổng giá trị xi măng, sắt thép tương đương
với 2.000 USD/làng theo tỷ giá năm 1974[15]. Trợ giúp vật chất khiêm tốn này được coi
như chất xúc tác thúc đẩy phong trào đi lên cùng với chính sách đúng đắn, Nhà nước khơi
dậy được nguồn lực từ nhân dân cho phong trào đổi mới nông thôn. Sau 8 năm, năm
1978, các dự án phát triển hạ tầng nông thôn cơ bản hoàn thành. Từ 80% nhà lá, toàn bộ
nhà nông thôn được ngói hóa, từ 27% tới 98% gia đình có điện, 70.000 cầu, 24.000 hồ
chứa, 42.220 km đường làng được nâng cấp và xây dựng [14].
Thứ hai, phát triển sản xuất để tăng thu nhập cho nông dân. Những làng hoàn thành tốt
các dự án kết cấu hạ tầng sẽ được triển khai các dự án phát triển sản xuất, nâng cao thu
nhập như: khuyến nông, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, xây dựng vùng chuyên canh,
xây dựng hợp tác sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, trồng rừng, kinh doanh... Hỗ trợ của nhà
nước chuyển sang bằng tiền dưới hai dạng cho vay và cho không. Khoảng 750 ngàn nông
hộ ở 137 vùng đã được hỗ trợ, khuyến khích sản xuất, chế biến, kinh doanh 21 mặt hàng
bao gồm: gia cầm, thịt bò, sữa bò, dâu tằm, hoa màu, cây ăn quả, cá, nấm... Đến cuối thập
kỷ 70, đầu thập kỷ 80, hầu hết các làng ở nông thôn Hàn Quốc đều tham gia vào các
dự án nâng cao thu nhập cho nông dân. Trong vòng 6 năm, thu nhập bình quân các
nông trại tăng gần 3 lần, từ 1.025 USD năm 1972 lên 2.961 USD năm 1977, quan
trọng nhất là thu nhập gia đình nông thôn tương đương thu nhập bình quân của các hộ
ở thành phố.
Mục tiêu quan trọng nhất của chương trình là biến đổi nông thôn đã thành công. Trong
những năm 70, Chương trình Saemaul một mặt giữ chân, tạo thu nhập cho đông đảo lao
động đi ra từ sản xuất nông nghiệp, mặt khác đã giúp nâng cao tay nghề và khả năng quản
41
lý, ý thức công nghiệp cho lực lượng lao động nông thôn. Khi ra thành phố kiếm việc làm
họ dễ dàng bắt kịp kỹ năng và tác phong hiện đại. Do có đủ phẩm chất, khả năng đáp ứng
với nhu cầu công việc cao hơn ở lĩnh vực công nghiệp, tổng số người làm nghề nông đã
giảm 50%.
Thứ ba, phát huy dân chủ của nhân dân trong phong trào đổi mới nông thôn. Dân chủ ở
nông thôn thực sự được phát huy thông qua vai trò tự quản lý của nhân dân. Nhà
nước chuyển toàn bộ quyền tự quản lý vật tư cho nhân dân. Nhân dân chủ động bầu
ra Ủy ban phát triển nông thôn nhằm đại diện quản lý, đồng thời bàn bạc, thảo luận
công trình nào cần ưu tiên và tự chịu trách nhiệm toàn bộ việc thiết kế, chỉ đạo, thi
công, nghiệm thu công trình.
Thứ tư, trong phong trào đổi mới nông thôn do nguồn lực hạn hẹp, Hàn Quốc thực
hiện phương châm làm từng bước, từ thấp đến cao, từ thí điểm trên diện hẹp đưa ra
toàn quốc, từ xây dựng lan sang sản xuất, từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp để
nông dân có đủ thời gian chuyển đổi cách nghĩ, cách làm, có đủ thời gian để chọn lựa,
đào tạo cán bộ cơ sở, nông hộ có thời gian để tự tích lũy tái sản xuất mở rộng, chương
trình tiến hành trong nhiều năm theo các bước từ thấp đến cao.
Chính sách đúng trong phong trào Saemaul thập kỷ 1970 là một mũi tên trúng nhiều
đích: cứu cho sản xuất công nghiệp tình trạng dư thừa sản phẩm, giúp hệ thống ngân
hàng quay vòng vốn nhanh, đổi thay bộ mặt nông thôn và sản xuất nông nghiệp tăng
trưởng. Vào năm 1980, bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đó hoàn toàn thay đổi với đầy đủ
điện, đường, nước sạch, công trình văn hóa “Saemaulundong” từ một phong trào ở
nông thôn đó lan ra thành một phong trào đổi mới toàn xã hội Hàn Quốc, KT - XH
nông thôn đã thay đổi toàn diện, đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn
ngày càng cao.
42
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Xây dựng NTM là chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta nhằm phát triển sản xuất
nông nghiệp, nâng cao mức sống của cư dân ở nông thôn. Qua nội dung chương 1 của
luận văn, tác giả đã hệ thống lại các vấn đề lý luận cơ bản về xây dựng NTM, hiệu quả
kinh tế – xã hội của chương trình, sự cần thiết của chương trình NTM, các yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả kinh tế – xã hội và các tiêu chí đánh giá hiệu quả kinh tế – xã hội
cũng như kinh nghiệm của một số nước và địa phương trong thực hiện xây dựng
NTM...
Chương 1 là cơ sở lý luận, kim chỉ nam cho việc phân tích, đánh giá thực trạng tình
hình thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Lạng Sơn
tỉnh Lạng Sơn ở chương 2 và đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục thực hiện chương
trình xây dựng nông thôn mới trên địa bàn thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng Sơn giai
đoạn 2016 - 2020 trong chương 3.
43
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HIỆU QUẢ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA
CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ LẠNG SƠN
2.1 Giới thiệu khái quát về thành phố Lạng Sơn
2.1.1 Điều kiện tự nhiên
Vị trí địa lý
Phía Bắc giáp xã Thạch Đạn, Thụy Hùng – huyện Cao Lộc.
Phía Nam giáp xã Tân Thành, Yên Trạch – huyện Cao Lộc và xã Vân Thủy -
huyện Chi Lăng
Phía Đông giáp thị trấn Cao Lộc và các xã Gia Cát, Hợp Thành, Tân Liên – huyện Cao
Lộc.
Phía Tây giáp xã Xuân Long – huyện Cao Lộc và xã Đồng Giáp – huyện Văn Quan.
Tài nguyên thiên nhiên:
Tài nguyên đất: Tổng diện tích đất tự nhiên là 7.918,5 ha, trong đó đất sử dụng
cho nông nghiệp là 1.240,56 ha, chiếm 15,66% diện tích đất tự nhiên. Diện tích
đất lâm nghiệp đã sử dụng 1.803,7 ha, chiếm 22,78% diện tích đất tự nhiên. Diện tích
đất chuyên dùng 631,37 ha, chiếm 7,9% diện tích đất tự nhiên.
Tài nguyên nước: Thành phố Lạng Sơn có sông Kỳ Cùng chảy qua địa phận Thành
phố dài 19 km, lưu lượng trung bình là 2.300 m³/s, có suối Lao Ly chảy từ thị trấn Cao
Lộc qua khu Kỳ Lừa ra sông Kỳ Cùng và suối Quảng Lạc dài 97 km, rộng 6 – 8 m.
Ngoài ra, trong vùng còn có một số hồ đập vừa và nhỏ như hồ Nà Tâm, hồ Thẩm Sỉnh,
Bó Diêm, Lẩu Xá, Bá Chủng, Pò Luông.
Tài nguyên khoáng sản: Khoáng sản ở Lạng Sơn chủ yếu là đá vôi, đất sét, cát, đá
cuội, sỏi... Có 2 mỏ đá vôi chưa xác định được trữ lượng, nhưng chất lượng đá vôi có
hàm lượng Cacbonac canxi rất cao đủ điều kiện để sản xuất xi măng. Mỏ đất sét có trữ
lượng trên 22 triệu tấn, dùng làm nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng. Ngoài ra còn
44
có một trữ lượng nhỏ vàng sa khoáng, kim loại đen (Mangan), bôxit...
2.1.2 Điều kiện kinh tế xã hội
Giao thông: Hệ thống giao thông trên địa bàn Thành phố khá hoàn chỉnh, có đường
quốc lộ 1A, 4A, 4B, đường sắt liên vận quốc tế... chạy qua. Hiện nay, trên địa bàn
Thành phố có khoảng 40 km đường quốc lộ với bề mặt rộng từ 10-20 m, 60 km
đường tỉnh lộ với mặt đường rộng từ 5–11 m. Tuyến cao tốc Hà Nội - Hữu Nghị
Quan với 6 làn xe sẽ được xây dựng với tổng vốn đầu tư dự kiến 1,4 tỷ USD vào năm
2010. Việt Nam hợp tác với Trung Quốc xây dựng tuyến đường sắt liên vận quốc tế
cho Hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Sẽ
được đầu tư xây dựng cảng Phả Lại thành cảng đầu mối quan trọng trong tuyến đường
thủy của hành lang.
Thủy lợi và cấp nước: Trên địa bàn Thành phố hiện có 8 hồ đập lớn nhỏ, với năng lực
thiết kế 600 ha và 20 trạm bơm có khả năng tưới cho 300 ha; 10 giếng khoan với công
suất 500-600 m³/h và 50 km đường ống phi 50-300 mm, cung cấp nước cho trên 8.000
hộ và hơn 300 cơ quan, trường học. Hiện nay, Thành phố có khoảng 8 km đường ống
thoát nước và hơn 5 km đường mương thoát nước.
Hệ thống điện: Hệ thống điện lưới quốc gia trên địa bàn Thành phố có khoảng 15 km
đường dây cao thế 10 KV, 70 km đường dây 6 KV, 350 km đường dây 0,4 KV... trên
200 trạm biến áp các loại có dung lượng từ 30-5.600 KVA cung cấp cho hơn 15.00
điểm công tơ. Sản lượng điện thương phẩm trên địa bàn Thành phố ngày càng tăng từ
21 triệu KWh năm 1998 lên 25,8 triệu KWh năm 2002, bình quân hàng năm tăng
5,3%, các trục đường chính, các ngã ba, ngã tư đều đã được trang bị hệ thống đèn báo
hiệu.
Mạng lưới thông tin - liên lạc: Từ năm 1997 đã lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống
truyền dẫn vi ba số từ trung tâm Thành phố đến 10 huyện, các cửa khẩu. Tổng các
kênh vi ba số nội Tỉnh là 400 kênh, dung lượng tổng đài TDX - 1B 8.000 số. Hiện nay
trên địa bàn Thành phố có trên 15.000 máy thuê bao cố định và hàng vạn máy di
động,...
Dân số 3 xã thành phố là 22.406 người với 5.585 hộ, chiếm tỷ lệ 24,26% dân số thành
45
phố, gồm: Dân tộc Nùng chiếm 42,52%, dân tộc Tày chiếm 43,25%, dân tộc Kinh
chiếm 12,14% và các dân tộc khác (Mường, Hoa, Dao,) chiếm 2,09%. Mật độ dân
số bình quân 337,8 người/km2. Lực lượng lao động khá dồi dào với 15.392 người,
chiếm 68,7% dân số 3 xã. Trong đó, lao động có việc làm thường xuyên trong độ tuổi
lao động 14.156 người, chiếm 91,97% lực lượng lao động của 3 xã; lao động đã qua
đào tạo có 3.976 lao động, chiếm 25,83%.
2.1.3 Thuận lợi
Thành phố Lạng Sơn là trung tâm kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh Lạng Sơn, vì vậy
thường xuyên nhận được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của lãnh đạo tỉnh. Trong những
năm qua thành phố luôn nhận thức rõ việc phát triển kết cấu hạ tầng là điều kiện đầu
tiên và quyết định tạo đà cho sự phát triển. Vì vậy trong phương hướng phát triển của
thành phố, kết cấu hạ tầng đã được đặc biệt chú trọng, trong đó hệ thống giao thông
được quan tâm đúng mức. Hiện nay, hệ thống giao thông nội thị, nhất là những tuyến
giao thông kết nối với bên ngoài đã được nâng cấp, mở rộng.
Vấn đề phát triển mạng lưới điện, nước, bưu chính viễn thông cũng là một yếu tố quan
trọng để thành phố đẩy nhanh tốc độ phát triển. Các dịch vụ này đã ngày càng đáp ứng
tốt hơn nhu cầu của nhân dân.
2.1.4 Khó khăn
Việc bố trí vốn, huy động vốn đầu tư chưa đáp ứng được phương hướng phát triển đề
ra, nên các công trình hạ tầng kỹ thuật chưa thực hiện được tốt chức năng tiền đề cho
phát triển kinh tế - xã hội.
Tốc độ xây dựng kết cấu hạ tầng còn chậm và thiếu sự phối hợp chặt chẽ với các
ngành khác như điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc .Một số dự án phải phân kỳ
đầu tư nhiều giai đoạn dẫn đến việc thi công các công trình không đồng bộ, hiệu quả
không cao. Một số khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng, bố trí tái định cư còn
chậm được tháo gỡ, ảnh hướng đến tiến độ triển khai các dự án trên địa bàn.
Các công trình văn hoá, thể thao, khu công viên vui chơi giải trí phục vụ nhu cầu
chung của thành phố còn ít chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân.
46
2.2 Thực trạng tình hình triển khai thực hiện chương trình xây dựng nông thôn
mới trên địa bàn thành phố Lạng Sơn
2.2.1 Quan điểm về chương trình xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ trọng yếu của cả hệ thống chính trị và toàn xã
hội; là cuộc vận động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực; là cơ sở để góp phần xây dựng
thành phố Lạng Sơn ngày càng văn minh, giàu đẹp, từng bước phát triển hiện đại.
Chương trình xây dựng nông thôn mới không phải là dự án đầu tư xây dựng cơ bản mà
đây là một chương trình phát triển tổng hợp về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội; là
chương trình phát triển nông thôn toàn diện, bền vững với mục tiêu nhanh chóng nâng
cao cuộc sống về vật chất, tinh thần của người dân nông thôn.
Chủ thể chính xây dựng nông thôn mới là người dân nông thôn, nhà nước giữ vai trò
hỗ trợ; xây dựng nông thôn mới được thực hiện theo phương châm dựa vào nội lực của
cộng đồng dân cư vì vậy mọi việc phải được dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra
và dân được hưởng thụ.
Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trọng yếu; triển khai đến
đâu phải hoàn thành dứt điểm đến đó nhằm phát huy hiệu quả mang lại lợi ích thiết
thực cho người dân. Tiến hành đồng thời ở các xã, thực hiện đồng bộ ở tất cả các tiêu
chí, trong đó ưu tiên vốn ngân sách xây dựng quy hoạch, xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội, hỗ trợ phát triển sản xuất, đào tạo cán bộ, đào tạo nghề tại các xã;
những xã có khả năng về đích sớm.
Mục tiêu chung: Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ
và từng bước hiện đại; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý; gắn
nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ; gắn xây dựng nông thôn mới với đô
thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc;
môi trường sinh thái được bảo vệ; an ninh chính trị được giữ vững; đời sống vật chất,
tinh thần của nông dân ngày càng được nâng cao. Xây dựng nông thôn mới góp phần
thúc đẩy nhanh tiến trình xây dựng thành phố Lạng Sơn trở thành trung tâm kinh tế -
khoa học kỹ thuật của tỉnh và khu vực.
Mục tiêu cụ thể: Giai đoạn 2011 đến 2015: Tập trung chỉ đạo để xã Mai Pha đơn vị
47
điểm của tỉnh về xây dựng nông thôn mới hoàn thành cơ bản các tiêu chí vào năm
2013; xã Hoàng Đồng đạt năm 2014 và xã Quảng Lạc đạt năm 2015 trong bộ tiêu chí
quốc gia xây dựng nông thôn mới vùng trung du miền núi phía Bắc.
Về quy hoạch: Năm 2012 hoàn thành quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới và Đề
án xây dựng nông thôn mới 3 xã; năm 2013 hoàn thành quy hoạch chi tiết trung tâm xã
tỷ lệ 1/500 của 3 xã; đến năm 2015 hoàn thành quy hoạch sử dụng đất xã Mai Pha,
Hoàng Đồng, Quảng Lạc giai đoạn 2011-2020.
Về hạ tầng kinh tế - xã hội: Xây dựng mạng lưới giao thông nông thôn đảm bảo chất
lượng từ xã tới các thôn, trục nối giữa các thôn, các ngõ trong thôn, liên thôn được bê
tông hóa, tỷ lệ được cứng hóa đạt chuẩn đạt 65,5%; hệ thống thủy lợi, điện cơ bản đáp
ứng yêu cầu sản xuất, sinh hoạt, tỷ lệ km kênh mương được cứng hóa đạt trên 68%.
Tiếp tục kiên cố hóa trường, lớp, hoàn thiện các điều kiện về cơ sở vật chất các trường
học, trạm y tế, cơ sở vật chất văn hóa xã, thôn đạt chuẩn; 100% trường học đạt chuẩn
quốc gia; 3/3 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế; 3/3 xã có nhà văn hóa, khu thể thao xã và
50% nhà văn hóa, sân thể thao thôn đạt chuẩn.
Về kinh tế và tổ chức sản xuất: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng nông lâm nghiệp đạt 2,5-
3%/năm, giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm 2,67% - 3,1% tổng GDP thành phố; đến
năm 2015: tỷ trọng ngành chăn nuôi trong nông nghiệp chiếm 40%; giá trị sản xuất đạt
trên 60 triệu đồng/ha; lao động có việc làm thường xuyên trong lĩnh vực nông nghiệp
đạt trên 95%, lao động nông thôn được đào tạo nghề đạt trên 32,45%; trên 80% nông
dân được tuyên truyền, phổ biến khoa học kỹ thuật về lĩnh vực sản xuất nông nghiệp;
trên 70% hộ tham gia các hình thức hợp tác phát triển kinh tế.
Về văn hóa, xã hội và môi trường: Phấn đấu 3/3 xã đạt tiêu chuẩn “xã nông thôn mới”,
trong đó có trên 70% số thôn được công nhận danh hiệu “Thôn văn hóa”; tỷ lệ gia đình
văn hóa đạt 80%, trong đó có trên 60% hộ được công nhận “Gia đình văn hóa” 3 năm
trở lên; 100% thôn duy trì được các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể thao quần
chúng;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_de_xuat_cac_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_kinh_te_xa.pdf