Số lượng công nhân Thái Nguyên hiện nay còn mất cân đối giữa các ngành công nghiệp. Cụ thể công nhân công nghiệp chế biến chiếm tỷ lệ cao 77,28%, công nhân ở ngành nông, lâm nghiệp chiếm 6,7%; công nhân khai thác 12,04%, vận tải và thông tin liên lạc 0,91%, cơ khí và sửa chữa 2,07% còn lại là các ngành khác (1%). Trong số 77,28% công nhân công nghiệp chế biến có 17,9% công nhân sản xuất thực phẩm và đồ uống; 8,6% sản xuất trang phục; 16,0% sản xuất sản phẩm từ gỗ và lâm sản; 27,2% sản xuất sản phẩm khoáng phi kim loại; 29,3% sản xuất sản phẩm kim loại, ngoài ra là các ngành chế biến khác. Trong số công nhân ngành nông lâm nghiệp có 5,3% công nhân trồng trọt,
119 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1618 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g định hướng XHCN. Họ nhất trí cao với việc từ bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp, ủng hộ việc tổ chức và sắp xếp lại sản xuất, lao động trong các doanh nghiệp nhà nước mặc dù biết điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến mỗi cá nhân; luôn nêu cao tinh thần vượt khó khăn và đã góp phần tạo nên những thành tựu quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh. Thời gian qua, vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cho công nhân được Đảng bộ và các cấp chính quyền tỉnh quan tâm đưa vào chương trình hoạt động thường xuyên của Liên đoàn lao động tỉnh, song kết quả vẫn còn nhiều hạn chế.
Bảng 2.3: Trình độ chính trị của công nhân Thái Nguyên tính đến 2004
Đơn vị tính: %
Toàn tỉnh
Khu vực kinh tế
Giới tính
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Nam
Nữ
Tổng số
100%
100%
100%
100%
100%
1. Chưa qua các lớp chính trị
65,72
60,40
81,31
65,11
73,1
- Chưa học
50,71
50,40
60,71
52,39
54,1
- Không có điều kiện đi học
13,31
9,60
18,23
11,08
17,5
- Không đi học
1,0
0,4
2,37
1,64
1,5
2. Đang học ở các lớp chính trị
2,1
2,4
1,82
1,94
1,90
3. Đã qua các lớp chính trị
32,18
37,2
16,87
32,95
25,0
- Sơ cấp
25,32
29,84
12,16
23,53
20,55
- Trung cấp chính trị
6,23
7,28
4,52
8,61
4,02
- Cao cấp chính trị (tương đương)
0,63
1,08
0,19
0,81
0,43
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Thương binh - Xã hội tỉnh Thái Nguyên.
Trước đổi mới công nhân chủ yếu lao động sản xuất trong các doanh nghiệp quốc doanh cùng với nó là các tổ chức Đảng và đoàn thể như tổ chức cơ sở Đảng, tổ chức công đoàn, đoàn thanh niên, nữ công... được xây dựng và hoạt động tương đối hiệu quả. Bước vào thời kỳ đổi mới với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhiều thành phần kinh tế ra đời các tổ chức đảng, đoàn thể rất khó thâm nhập và hoạt động có hiệu quả trừ tổ chức công đoàn. Hơn thế nữa, trong điều kiện cạnh tranh về việc làm thu nhập nên rất nhiều công nhân ít quan tâm đến, thậm chí coi nhẹ rèn luyện ý thức chính trị, giai cấp. Chính điều này, giải thích vì sao trong đội ngũ công nhân Thái Nguyên vẫn còn một bộ phận không nhỏ hạn chế về nhận thức chính trị, về ý thức giác ngộ giai cấp, nhận thức chưa đầy đủ về các tổ chức trong hệ thống chính trị, chưa có nhận thức đúng về nhu cầu, về lợi ích lâu dài của mình trong tiến trình xây dựng và phát triển xã hội mới...
Qua số liệu điều tra trên cho thấy, số công nhân chưa học qua một lớp lý luận chính trị nào chiếm tới 65,72%, trong đó chưa học chiếm tới 50,71% và không có điều kiện đi học 13,68%. Số hiện đang học các lớp bồi dưỡng chính trị chiếm tỷ lệ rất thấp (2,1%). Số đã qua các lớp học chính trị là 32,18%, song chủ yếu là sơ cấp chính trị 25,32%, trong đó chủ yếu là đang làm việc trong các Công ty nhà nước được đào tạo từ trước và đa số là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tỷ lệ trên còn thấp hơn nữa. Ví dụ không qua các lớp chính trị chiếm tới 81,31% mà chủ yếu là chưa đi học, nếu có thì cũng chủ yếu là sơ cấp chính trị, trình độ rất thấp. Vì thế, trong quá trình điều tra xã hội học có những câu trả lời về đường lối, chủ trương, pháp luật của Nhà nước, về sứ mệnh giai cấp công nhân... hầu như không đúng hoặc không có ý kiến. Vì sao lại có tình trạng như vậy? có thể do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể chưa tuyên truyền hiệu quả hoặc quan tâm chưa đúng mức đến công tác giáo dục chính trị, tư tưởng nhằm nâng cao ý thức chính trị cho công nhân nhất là khu vực kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Nguồn bổ sung vào đội ngũ công nhân chủ yếu là học sinh phổ thông, tuổi đời còn rất trẻ chưa từng trải qua đấu tranh trong lao động sản xuất và chiến đấu cho độc lập dân tộc.
- Đời sống còn khó khăn do thiếu việc làm và phải cạnh tranh nên ít có thời gian tham gia hoạt động xã hội, có tư tưởng ngại học tập chính trị.
- Diễn biến phức tạp của thế giới và sự sụp đổ của hệ thống XHCN cùng với âm mưu diễn biến hòa bình cũng là một nguyên nhân làm suy giảm lòng tin của công nhân.
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức có quyền quan liêu, cửa quyền, tham nhũng - là nguyên nhân chủ yếu khiến công nhân thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và các đoàn thể nhân dân.
Tất cả những hạn chế ấy cần phải được khắc phục trong thời gian sớm nhất, có như vậy công nghiệp hóa, hiện đại hóa định hướng XHCN mới có thể thành công.
2.1.2.3. Về tham gia các tổ chức đảng và đoàn thể
- Tổ chức đảng và tổ chức đoàn thanh niên:
Tính đến thời điểm 2004, số công nhân là đảng viên, đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ rất thấp, nhất là trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên so với giai đoạn 1986-1998 đã xóa bỏ được tình trạng trắng đảng viên và đoàn viên trong hai khu vực kinh tế này.
Hiện tại số đảng viên trong đội ngũ công nhân chỉ chiếm gần 10% (9,92%) chủ yếu là trong khu vực kinh tế nhà nước (14,89%). Đây là số đảng viên thuộc lớp thợ lành nghề còn lại từ trước đổi mới. Khu vực kinh tế ngoài nhà nước chỉ chiếm 4,94%. Số công nhân là đoàn viên thanh niên cũng chỉ chiếm 40,2% trong đó khu vực kinh tế nhà nước cũng chiếm số đông (49,5%), khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 30,5%) [9, tr.40]. Nếu so sánh với trước đổi mới thì tỷ lệ này tăng không đáng kể, trong doanh nghiệp nhà nước tỷ lệ này không những không tăng mà còn giảm do giảm biên chế và giải thể cũng như cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước. Một thực tế nữa là số công nhân tuổi đời còn trẻ không có nguyện vọng tham gia vào các tổ chức này. Mặt khác một số tổ chức cơ sở đảng, đoàn ở tỉnh Thái Nguyên hoạt động kém hiệu quả, chỉ mang tính hình thức; đảng viên và đoàn viên thanh niên cũng chưa thật gương mẫu trong lao động sản xuất cũng như trong đời sống hàng ngày.
- Tổ chức công đoàn:
Theo Báo cáo tổng kết của Liên đoàn lao động tỉnh trong 5 năm 1998 đến 2003 việc xây dựng tổ chức công đoàn cơ sở và công tác phát triển đoàn viên rất được chú trọng. Chưa tính các doanh nghiệp mới thành lập do số lượng công nhân còn ít và chưa ổn định thì có tới 89,78% số công nhân lao động trong các đơn vị sản xuất kinh doanh tham gia công đoàn, 90% các doanh nghiệp đã thành lập các công đoàn cơ sở và con số này đến 2004 tiếp tục được tăng lên. Sở dĩ công tác phát triển đoàn viên và xây dựng tổ chức công đoàn cơ sở ở tỉnh đạt kết quả cao là ngoài sự quan tâm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương thì hoạt động của bản thân công đoàn cơ sở trong bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người lao động, trong tuyên truyền đường lối chủ trương, pháp luật của nhà nước tương đối thành công, nhất là trong giải quyết tranh chấp lao động. Theo kết quả điều tra sơ bộ hầu hết số công nhân được hỏi về hoạt động của công đoàn cơ sở đều trả lời công đoàn đã đứng ra bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động, có vai trò quan trọng trong tuyên truyền đường lối, chủ trương luật pháp của Nhà nước nhất là Luật lao động, Luật công đoàn.
Công nhân khu vực nhà nước xác định chức năng này 92,13%.
Công nhân trong khu vực kinh tế ngoài nhà nước 80,3%.
Công nhân trong khu vực vốn đầu tư nước ngoài: 62,1%.
Theo kết quả phân loại của Liên đoàn lao động tỉnh có tới 75% công đoàn cơ sở đạt tiêu chuẩn công đoàn vững mạnh trong đó 30% đạt xuất sắc, song chủ yếu là công đoàn thuộc doanh nghiệp nhà nước hoặc công đoàn cơ sở thuộc khối hành chính sự nghiệp. Còn khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tỷ lệ này chỉ đạt 48,2% [9, tr.9].
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy một thực tế là các tổ chức công đoàn làm công tác tuyên truyền giáo dục ý thức chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp còn rất hạn chế, thậm chí còn tránh đề cập đến trong các sinh hoạt công đoàn thường kỳ. Hiện tượng này diễn ra chủ yếu ở các công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và có vốn đầu tư nước ngoài. Mặt khác, trong giải quyết tranh chấp lao động chưa thực sự thể hiện rõ vai trò là tổ chức đại diện hợp pháp của người lao động mà chỉ tồn tại với tư cách trọng tài hòa giải gây ra những hiểu lầm không đáng có đối với người lao động. Trong việc ký kết hợp đồng lao động và thỏa ước lao động giữa tập thể người lao động và chủ doanh nghiệp ngoài nhà nước chưa được công đoàn cơ sở thực hiện tốt dẫn đến quyền lợi hợp pháp của người lao động bị xâm hại. Bản thân cán bộ công đoàn trình độ học vấn, trình độ pháp luật, nghiệp vụ công tác công đoàn chưa cao, do vậy cũng ảnh hưởng đến hoạt động chung của công đoàn cơ sở. Đã có một số ít cán bộ công đoàn bị giới chủ lợi dụng nên chưa bảo vệ lợi ích chính đáng của người lao động. Quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhất thiết phải khắc phục những hạn chế đó để vai trò công đoàn ngày càng thực hiện đầy đủ. Có như vậy công đoàn mới thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho giai cấp công nhân và người lao động.
2.1.2.4. Về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của đội ngũ công nhân Thái Nguyên
- Về đời sống vật chất: Qua gần 20 năm thực hiện đường lối đổi mới cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đời sống công nhân lao động ở tỉnh Thái Nguyên đã có nhiều thay đổi. Nếu so sánh với mặt bằng chung của cả nước là còn thấp nhưng nhìn chung cũng đã đáp ứng được phần nào nhu cầu cần thiết của công nhân. Theo thống kê về lao động việc làm của Liên đoàn lao động tỉnh năm 2004 trên 92 doanh nghiệp chủ yếu đóng trên địa bàn với 50 doanh nghiệp địa phương và 42 doanh nghiệp Trung ương thì thu nhập bình quân của công nhân lao động là 1.325.160 đồng/người/tháng. Trong đó đơn vị có mức lương cao nhất là Công ty gang thép Thái Nguyên là 2.297.000 đồng/ người/ tháng; Công ty cơ điện và vật liệu nổ 31 là 2.700.000 đồng/người/ tháng. Thấp nhất là công nhân thuộc Lâm trường Phú Lương chỉ đạt 290.000 đồng/người/tháng. Nếu so với 1998 thì đời sống vật chất hiện nay của công nhân lao động tăng lên đáng kể. Năm 1998 chủ yếu thu nhập trên 300.000 đồng/người/tháng (62,8%), dưới 300.000 đồng còn tới 32,21% [4, tr.5].
Hiện nay, mức thu nhập trung bình của công nhân Thái Nguyên (từ 500.000 đến 1.000.0000 đồng/người/tháng) chiếm khoảng 38,72%, mức thu nhập trên 1.000.000 đồng/người/tháng chiếm khoảng 27,9%; mức trên 1.500.000 đồng/người/tháng chiếm 12,4%, mức dưới 500.000 đồng giảm đáng kể hiện tại chỉ còn khoảng 8,98% trong đó mức 300.000 chỉ còn khoảng 3,11% [9, tr.25].
Về mức sống, đa số hộ gia đình có mức sống trung bình khoảng 78,2%, mức sống nghèo, khó khăn: 11,8%, mức sống khá khoảng 2,1%. Như vậy, nhìn chung đời sống hộ gia đình công nhân Thái Nguyên đa số chỉ mới ở mức trung bình, mức sống cao chiếm tỷ lệ không đáng kể. Số hộ nghèo vẫn còn cao so mặt bằng chung của tỉnh (6,06%). Do vậy, cũng cần phải có chính sách nhằm phát triển kinh tế hộ gia đình của đội ngũ công nhân, bởi có như vậy công nhân mới có thể yên tâm sản xuất, phát huy năng lực sáng tạo làm lợi cho doanh nghiệp và sự phát triển nói chung. Một điểm đáng ghi nhận là mặc dù trong thời gian dài các doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn làm ăn thua lỗ, đời sống công nhân gặp nhiều khó khăn song do sự cố gắng vượt bậc, các doanh nghiệp này bước đầu làm ăn có hiệu quả, thu nhập của đội ngũ công nhân được nâng lên. Hiện tại thu nhập cao chủ yếu rơi vào công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước 29,1%; doanh nghiệp ngoài nhà nước chỉ đạt 22,8%. Mức sống trung bình và khá của các hộ gia đình trong khu vực kinh tế nhà nước cũng cao hơn ngoài nhà nước (nhà nước là 82,6%, ngoài nhà nước là 72,3%) ]9, tr.34]. Tuy nhiên, thu nhập của đội ngũ công nhân Thái Nguyên còn thấp so với đội ngũ công nhân ở một số tỉnh có công nghiệp phát triển mạnh như Bình Dương, Đồng Nai..., thậm chí còn thấp hơn so với thu nhập bình quân của giai cấp công nhân Việt Nam (1.900.000 đồng/người/tháng). Vì vậy, vấn đề thu nhập và mức sống của đội ngũ công nhân Thái Nguyên vẫn rất cần có sự điều tiết về tiền lương và các chính sách khác nhằm nâng thu nhập và mức sống người lao động lên một bước. Có như vậy mới tạo điều kiện cho sản xuất kinh doanh tiếp tục phát triển.
- Về đời sống tinh thần: Cùng với quá trình nâng dần đời sống vật chất cho đội ngũ công nhân Thái Nguyên nhờ phát triển được sản xuất, tăng năng suất lao động và kinh doanh có hiệu quả, đời sống tinh thần của đội ngũ công nhân Thái Nguyên cũng đang từng bước được nâng lên. Đời sống tinh thần của công nhân được hiểu ở nhiều phương diện, như hoạt động của bản thân mỗi công nhân sử dụng thời gian nhàn rỗi để thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ văn hóa của mình. Cụ thể, sau thời gian lao động ở các doanh nghiệp người công nhân Thái Nguyên đã sử dụng thời gian nhàn rỗi của mình như sau: Xem ti vi 51,42%; đọc sách báo 36,19%; chơi thể thao 25,71%; nghe đài: 26,66%; du lịch 2,85%; thăm cha mẹ 31,42%, thăm bạn bè 37,14%, học thêm 8,57, làm thêm 39,04 [31, tr.169]. Như vậy có tỷ lệ khá cao công nhân tham gia vào các sinh hoạt cộng đồng qua đó cũng biểu hiện nhu cầu văn hóa, tinh thần của công nhân đã được cải thiện. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rằng số công nhân tham gia các hoạt động trên chủ yếu là công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước, còn các doanh nghiệp ngoài nhà nước do cường độ làm việc và thời gian làm việc còn khá cao nên thời gian giành cho hoạt động trên không nhiều (tỷ lệ làm thêm giờ chủ yếu là công nhân trong các doanh nghiệp này). Đây cũng là vấn đề cần suy nghĩ để có những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao đời sống văn hóa cho công nhân trong khu vực kinh tế này cũng như công nhân Thái Nguyên nói chung.
2.1.2.5. Về quan hệ lao động trong các doanh nghiệp hiện nay ở Thái Nguyên
- Về mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động: Phát triển nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi căn bản về quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, giữa chủ và thợ trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Riêng đối với tỉnh Thái Nguyên, mối quan hệ này được duy trì tương đối tốt. Điều đó thể hiện ở việc trong những năm đổi mới vừa qua Thái Nguyên chưa xảy ra một vụ đình công nào. Tất nhiên, không thể không tránh khỏi những vụ tranh chấp lao động do nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo báo cáo mới nhất của Liên đoàn lao động tỉnh 2004 từ năm 1999 đến năm 2004 chỉ có 2 vụ tranh chấp lao động kéo dài có diễn biến phức tạp của 2 tập thể: công nhân lao động thuộc Công ty dâu tằm tơ (năm 1999) và tập thể đoàn viên nghiệp đoàn mô tô chở khách bến xe Thái Nguyên thuộc Công đoàn ngành giao thông vận tải Thái Nguyên (năm 2003) hai vụ việc trên đã được giải quyết dứt điểm và đã không còn tranh chấp lao động. Hơn thế nữa, thông qua điều tra xã hội học cho thấy quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động hiện nay tương đối tốt, nhất là trong các doanh nghiệp nhà nước, chỉ có một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, mối quan hệ này còn nhiều khúc mắc.
Bảng 2.4: Quan hệ lao động trong các doanh nghiệp tỉnh Thái Nguyên tính đến năm 2004
Đơn vị tính: %
Ý kiến công nhân
Thành phần kinh tế
Quốc doanh
Tập thể
Tư nhân
Có vốn đầu tư nước ngoài
Quan hệ tốt
52,20
69,2
25,91
23,24
Quan hệ bình thường
47,6
30,1
64,62
69,52
Công nhân bị xâmphạm
0,25
0,33
0,71
1,47
Công nhân bị đuổi việc vô cớ
0,21
4,12
6,58
Nguồn: Cục Thống kê tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh, Sở Thương binh - Xã hội tỉnh Thái Nguyên.
- Về đình công, bãi công:
Xuất phát từ những tranh chấp lao động kéo dài, không được giải quyết dứt điểm dễ dẫn đến đình công, bãi công. Riêng đối với tỉnh Thái Nguyên, một phần do chưa có nhiều khu công nghiệp, khu chế xuất mà vốn đầu tư chủ yếu từ nước ngoài (nơi tập trung nhiều vụ đình công, bãi công trên cả nước), một phần nữa các doanh nghiệp nhà nước đóng trên địa bàn mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động được duy trì khá tốt, vì vậy trong nhiều năm trở lại đây, Thái Nguyên chưa xảy ra một vụ đình công nào. Tuy nhiên, một số vụ tranh chấp lao động mà điển hình là hai vụ tranh chấp lao động tập thể xảy ra năm 1999 và 2003 cùng khá nhiều tranh chấp lao động giữa cá nhân người công nhân với người sử dụng lao động mà chủ yếu nằm ở khu vực kinh tế ngoài nhà nước (trên 70%). Nguyên nhân phần lớn là do người sử dụng lao động vi phạm luật lao động, thiếu tôn trọng người lao động, lợi dụng sự kém hiểu biết pháp luật và nhu cầu tìm kiếm việc làm của người lao động... trì hoãn hoặc cố tình không thực hiện đầy đủ chế độ chính sách đối với người lao động, thậm chí còn có hành vi thiếu văn hóa, trù dập, đối xử thô bạo với người lao động, chấm dứt hợp đồng một cách vô cớ và xử lý kỷ luật khi người lao động đấu tranh đòi quyền lợi chính đáng. Bản thân người lao động, do tuổi đời còn trẻ, chưa trải qua môi trường công nghiệp nên tác phong công nghiệp kém, dễ vi phạm kỷ luật lao động. Mặt khác người lao động hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, chưa thông cảm với người sử dụng lao động, khi gặp bức xúc thường dễ bị kích động dẫn đến tranh chấp với người sử dụng lao động. Khi tranh chấp lao động xảy ra người lao động không tìm đến các tổ chức công đoàn và các đoàn thể khác tham khảo ý kiến, tìm biện pháp giải quyết mà thường có những phản ứng tiêu cực; các tổ chức đoàn thể cũng chưa phát huy được vai trò của mình trong công tác tuyên truyền và trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động, trình độ hiểu biết và năng lực công tác còn nhiều hạn chế.
Mặc dù trên địa bàn chưa xảy ra vụ đình công nào, song do yêu cầu của phát triển công nghiệp, nhiều nhà đầu tư nước ngoài sẽ tiếp tục đầu tư sản xuất và kinh doanh tại địa bàn, từ đó có thể sẽ để xảy ra nhiều vụ tranh chấp lao động mới và nếu không giải quyết kịp thời thì việc chuyển sang đình công, bãi công là tất nhiên. Vì vậy, ngoài vấn đề tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền về pháp luật cũng như quyền và nghĩa vụ của người lao động khi tham gia lao động, các cấp ủy đảng, chính quyền, Liên đoàn lao động các cấp và các đoàn thể chính trị cơ sở cần quan tâm hơn nữa trong việc xây dựng và đẩy mạnh hoạt động trong đội ngũ công nhân. Có như vậy tranh chấp lao động, đình công, bãi công của công nhân mới không diễn ra, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất và kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn và ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển kinh tế nói chung của tỉnh.
2.1.3. Thực trạng về cơ cấu
2.1.3.1. Về cơ cấu thành phần xuất thân
Theo số liệu điều tra của Liên đoàn lao động tỉnh Thái Nguyên năm 2004 ở 92 doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên (50 doanh nghiệp địa phương, 42 doanh nghiệp Trung ương) với tổng số lao động 36.798 người cho thấy số công nhân xuất thân từ học sinh phổ thông là chủ yếu (33,2%). Dù trình độ của họ chưa cao, song xét từ góc độ đào tạo và khả năng cống hiến lâu dài thì đây cũng là điểm thuận lợi, bởi lẽ số công nhân này tuổi đời còn rất trẻ, khả năng tiếp thu và nắm bắt công nghệ tương đối nhạy bén, nếu được đào tạo một cách cơ bản họ sẽ trở thành lực lượng đông đảo và có vai trò lớn trong quá trình đẩy mạnh sản xuất. Tỷ lệ công nhân qua đào tạo ở Thái Nguyên so với mặt bằng chung của cả nước cũng không phải là thấp (15,1%), cả nước là 11,10%, do Thái Nguyên có nhiều trường đào tạo nghề cũng là điểm thuận lợi cho quá trình phát triển. Gần đây, số công nhân này có xu hướng giảm dần do các địa phương khác có chính sách thu hút công nhân đã qua đào tạo nghề. Đây cũng là một thách thức đối với đội ngũ công nhân Thái Nguyên trong việc đẩy mạnh xây dựng chất lượng đội ngũ trong những năm tới. Một điểm đáng lưu ý nữa là số lượng công nhân xuất thân từ nông dân còn thấp (12,1%) trong khi Thái Nguyên tỷ lệ nông nghiệp chiếm 75% dân cư (số liệu năm 2002). Có hiện tượng đó là do nông thôn Thái Nguyên chủ yếu là vùng núi, vùng sâu, vùng xa nên việc tiếp cận với thị trường lao động công nghiệp còn hạn chế và mấy năm trở lại đây do nhu cầu về nguyên vật liệu cho phát triển công nghiệp chế biến nên số lượng nông dân tập trung sản xuất trong các vùng chuyên canh cây công nghiệp phục vụ cho sản xuất công nghiệp thu nhập tương đối ổn định, nông dân có đủ công ăn việc làm nên chưa có nhu cầu vào làm ở các khu công nghiệp.
Bảng 2.5: Cơ cấu thành phần xuất thân của đội ngũ công nhân Thái Nguyên 2003
Đơn vị tính: %
TT
Toàn tỉnh
Khu vực kinh tế
Nhà nước
Ngoài nhà nước
Tổng số
100%
100%
100%
1
Học sinh PT
33,2
31,5
35,1
2
Tốt nghiệp THCN và dạy nghề
15,4
17,4
13,4
3
Tốt nghiệp CĐ, ĐH
15,9
16,9
14,9
4
Bộ đội
5,1
6,2
4,0
5
Công chức
8,1
9,2
7,0
6
Nông dân
12,1
10,3
13,8
7
Khác
10,2
8,5
11,8
Nguồn: Cục thống kê tỉnh, Liên đoàn Lao động tỉnh và Sở Lao động thương binh - xã hội tỉnh Thái Nguyên.
2.1.3.2. Cơ cấu tuổi đời và tuổi nghề
Tuổi đời của đội ngũ công nhân Thái Nguyên càng ngày càng có xu hướng trẻ hóa, đặc biệt là từ 1991 trở lại đây. Năm 1991 tỷ lệ công nhân trong độ tuổi dưới 30 chỉ chiếm 20,6%. Do yêu cầu của công nghiệp nặng rất cần đội ngũ công nhân lành nghề và có kinh nghiệm sản xuất nên số lượng công nhân ở độ tuổi 30-45 chiếm số đông (51,52%), thậm chí còn có độ tuổi cao hơn. Tuy nhiên đến năm 1998, đội ngũ công nhân có độ tuổi từ 21-30 đã tăng lên 40,1% và số công nhân có độ tuổi từ 30-45 chỉ còn 41,2%. Trong giai đoạn hiện nay, cơ cấu tuổi đời của đội ngũ công nhân Thái Nguyên có tỷ lệ như sau: Độ tuổi 16-20 chiếm 7,1%; từ 21-25 chiếm 22,5%; từ 26-30 chiếm 22,1%; từ 31-35 chiếm 15,2%; từ 36-40 chiếm 13,5%; từ 41-45 tuổi chiếm 11,2%; từ 46-50: 5,1%; từ 51-55 tuổi chiếm 2,3%; từ 56-60 chiếm 0,62%. Như vậy, thông qua cơ cấu tuổi đời, chúng ta thấy nhóm tuổi lao động của công nhân Thái Nguyên từ 16-35 tuổi chiếm tới 66,9%, nhóm từ 36 trở lên chiếm 24,7%; độ tuổi 46-60 chỉ chiếm 7,4%. Điều này cho thấy đội ngũ công nhân Thái Nguyên còn khá trẻ, có sức khỏe tốt là một trong những ưu thế trong sản xuất và tiếp thu khoa học công nghệ, thuân lợi trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Cơ cấu tuổi nghề:
Theo kết quả điều tra sơ bộ của Liên đoàn lao động tỉnh 2004, đội ngũ công nhân Thái Nguyên có tuổi nghề phổ biến là 1-5 năm chiếm 23,6%; từ 6-10 năm chiếm 16,5%; từ 11-20 năm chiếm 20,1%; trên 20 năm là 18,7%. Như vậy, xét về cơ cấu tuổi nghề thì tỷ lệ công nhân được hình thành chủ yếu trong thời kỳ đổi mới. Đội ngũ này đa phần có trình độ học vấn, có khả năng thích nghi với khoa học công nghệ hiện đại, năng động, sáng tạo. Tuy nhiên, cũng có những hạn chế nhất định như chưa được rèn luyện, thử thách trong khó khăn gian khổ. Bên cạnh đó, Thái Nguyên còn có số lượnglớn công nhân có thâm niên nghề nghiệp khá cao có kinh nghiệm sản xuất, song do chuyển đổi của cơ cấu kinh tế và họ chủ yếu hoạt động trong các doanh nghiệp quốc doanh kém hiệu quả nên bản thân chưa phát huy được hết năng lực sở trường, chậm tiếp thu khoa học công nghệ mới nên thu nhập còn thấp và chưa thật ổn định.
2.1.3.2. Về cơ cấu giới tính, thành phần dân tộc và tín ngưỡng tôn giáo
- Về giới tính: với đặc thù của một tỉnh được đầu tư phát triển công nghiệp nặng nên trước những năm đổi mới tỷ lệ công nhân là nam giới cao hơn nữ giới nhất là các ngành công nghiệp khai thác mỏ, vận tải, xây dựng, sửa chữa, sản xuất động cơ ô tô, xe máy, khu vực công nghiệp quốc phòng. Tính trung bình tỷ lệ đó là: nam giới chiếm 58,9%, nữ giới chiếm 41,1% [9, tr.12]. Từ khi tiến hành đổi mới đến nay, do phát triển hợp lý các ngành công nghiệp nặng đã có từ trước thì đến nay nhiều ngành sản xuất mới thuộc công nghiệp nhẹ đã bắt đầu được đầu tư phát triển do đó tỷ lệ giới tính trong công nhân đã phát triển cân đối hơn. Tính đến thời điểm hiện nay, theo báo cáo của Liên đoàn lao động các cấp khảo sát 151 doanh nghiệp với 64.593 số lượng công nhân thì tỷ lệ đó đang là 51,5% (nam), 49,5% (nữ). Điều đó phản ánh xu hướng tích cực trong phát triển sản xuất, mặt khác cũng tạo điều kiện cho phụ nữ có việc làm và thu nhập ổn định, cải thiện đời sống và có cơ hội phấn đấu vươn lên.
- Về thành phần dân tộc: Thái Nguyên là một tỉnh có 9 thành phần dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 75,5%, các dân tộc khác chiếm 24,5% dân số, nhưng công nhân các dân tộc ít người chỉ chiếm 11,8% (trong đó dân tộc Tày 5,02%, Nùng 2,03%, dân tộc Dao 1,31%, các dân tộc còn lại 3,97%) người Kinh chiếm 88,2% [9, tr.15]. Sở dĩ có tình trạng này là do các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh trình độ học vấn còn thấp, có tư tưởng an phận thủ thường, ít muốn đến thành phố hoặc các thị tứ kiếm việc làm. Xuất phát từ tình trạng đó, thiết nghĩ tỉnh cũng cần có những chính sách cụ thể để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật ở các vùng dân tộc, vùng sâu, vùng xa để từng bước rút ngắn khoảng cách trên, tạo điều kiện để nhân dân các dân tộc trong tỉnh vốn đã có truyền thống đoàn kết trong đấu tranh giữ nước nay càng gắn bó chặt chẽ để thực hiện thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong tương lai.
- Về tín ngưỡng, tôn giáo: Thái Nguyên có 2 tôn giáo chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo, các tôn giáo khác chưa có nơi thờ tự và số lượng tín đồ không đáng kể. Riêng đạo Tin lành, hiện nay đang có xu hướng gia tăng song vẫn chưa được công nhận tính hợp pháp vì do chưa đăng ký hoạt động chính thức trên địa bàn. Số lượng công nhân có đạo, theo số liệu của Liên đoàn lao động tỉnh, ước tính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đội ngũ công nhân Thái Nguyên với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.doc