Luận văn Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu – Hưng Yên

Mở đầu 1

1. Lý do chọn đề tài 1

2. Mục đích nghiên cứu 5

3. Tình hình nghiên cứu 6

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7

5. Phương pháp nghiên cứu 8

6. Những đóng góp của luận văn 8

7. Bố cục luận văn 9

Chương 1: Khái quát về lịch sử, văn hóa và con người Khoái Châu 10

1.1. Tổng quan về lịch sử, thiên nhiên và môi trường của huyện Khoái Châu 10

1.1.1. Sự hình thành và phát triển 10

1.1.2. Thiên nhiên và môi trường địa lí 12

1.2. Văn hóa và con người Khoái Châu 16

1.2.1. Cư dân Khoái Châu 16

1.2.2. Khoái Châu – vùng phù sa văn hóa 19

Chương 2: Đồng dao 25

2.1. Phân loại đồng dao 25

2.2. Nội dung của đồng dao 31

2.2.1. Đồng dao có nội dung nhắc nhở, răn dạy điều hay lẽ phải 31

2.2.2. Đồng dao chứa đựng tri thức về hoàn cảnh, môi trường sống và quan hệ cộng

đồng 35

2.2.4. Đồng dao khôi hài, chế nhạo hay nhằm mục đích giải trí 38

2.3. Đồng dao trong trò chơi 43

2.3.1. Khái quát 43

2.3.2. Đồng dao phụ họa cho trò chơi 44

2.3.3. Đồng dao mô tả hành động của trò chơi 46

2.4. Hình thức của đồng dao 47

2.4.1. Cấu trúc, vần và lời của đồng dao 47

2.4.2. Dị bản trong đồng dao 60

2.5. Nhận xét 65

Chương 3: Trò chơi dân gian 67

3.1. Phân loại trò chơi dân gian 67

3.2. Khái quát về trò chơi dân gian ở huyện Khoái Châu 74

3.3. Nội dung của trò chơi dân gian 76

3.3.1. Trò chơi dân gian phản ánh môi trường sống của trẻ 77

3.3.2. Trò chơi dân gian thể hiện trí tuệ 85

3.3.3. Trò chơi dân gian thể hiện sự khéo léo 89

3.3.4. Trò chơi dân gian với mục đích giải trí 100

3.3.5. Trò chơi dân gian phát huy sức mạnh tập thể và quan hệ cộng đồng 102

3.4. Ý nghĩa của trò chơi dân gian 109

3.4.1. Giá trị của trò chơi dân gian trong văn hóa truyền thống 109

3.4.2. Trò chơi dân gian đối với việc giáo dục con trẻ 113

3.5. Nhận xét và đề xuất 116

Kết luận 121

Tài liệu tham khảo 124

pdf158 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 26/02/2022 | Lượt xem: 407 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đồng dao và trò chơi dân gian trẻ em ở huyện Khoái Châu – Hưng Yên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vô nghĩa, “lạc lõng” với tổng thể nhưng đôi khi lại làm trẻ rất thích thú nên rất khó có thể kết luận đâu là bản sai – đúng. 2.5. Nhận xét Với những nghiên cứu, lí luận của các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cũng như một số phân tích trên đây, có thể kết luận đồng dao là một thể loại trong kho tàng văn hóa dân gian của dân tộc mà nó được sinh ra từ thế giới trẻ thơ hoặc vì thế giới trẻ thơ. Quan hệ giữa trẻ và đồng dao là quan hệ hữu cơ, tương tác, trao đổi và tác động mạnh mẽ tới nhau. Trẻ vừa là tác giả, vừa là đối tượng bị ảnh hưởng trực tiếp lại vừa là người sáng tạo, điều chỉnh. Đồng dao vừa là sản phẩm, lại như chất xúc tác tác động trực tiếp tới đời sống tinh 66 thần của trẻ, giúp trẻ nhận thức được thế giới xung quanh, nhận thức được cuộc sống, thái độ và ứng xử, kỹ năng sống trong xã hội bằng con đường đơn giản nhất là học thông qua hình thức vui chơi, giải trí. Trên thực tế, hiện nay trẻ em ở Khoái Châu thuộc rất ít đồng dao. Qua khảo sát 160 trẻ lứa tuổi sinh trong khoảng từ năm 1994 đến 2000, tính bình quân thì mỗi trẻ: - biết 5,18 bài; - thuộc 1,55 bài; - thuộc vài ba câu của bài: 2,74 bài. Tức là mỗi trẻ chỉ thuộc được hơn một bài hát đồng dao. Hơn thế nữa, đó lại là các bài rất quen thuộc như thả đỉa ba ba, nu na nu nống Trong số đó có tới 40 em không thuộc một bài đồng dao nào mà chỉ lõm bõm vài câu. Đối với tuổi già thì việc nhớ được các bài đồng dao cũng là điều rất khó khăn. Theo thống kê khảo sát 63 người có độ tuổi sinh từ năm 1915 đến 1955 thì trung bình mỗi người cũng chỉ nhớ được 1,4 bài. Những người thuộc nhiều rất hiếm và cũng chỉ thuộc hết khoảng 5-7 bài. Từ phân tích cũng như hiện trạng thực tế của đồng dao huyện Khoái Châu, chúng ta có thể thấy việc gìn giữ, bảo tồn vào phát huy đồng dao trẻ em là điều rất cần thiết bởi nếu không, xu thế hội nhập, phát triển với tốc độ nhanh chóng sẽ ngày càng làm mất dần những nét văn hóa truyền thống đặc sắc không những chỉ để dùng cho trẻ em mà nó còn có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sinh hoạt văn hóa cộng đồng của người dân nói chung. Chúng tôi xin đề cập đến vấn đề này một cách chi tiết hơn ở chương 3 của luận văn. CHƯƠNG 3 TRÒ CHƠI DÂN GIAN 3.1. Phân loại trò chơi dân gian Có thể nói, trò chơi dân gian xuất hiện và tồn tại từ khi xã hội loài người hình thành và phát triển, và cũng như xã hội loài người, trò chơi dân gian cực kỳ đa dạng, phong phú. Từ đó, mỗi cách tiếp cận, nghiên cứu sẽ có nhiều cách phân loại hơn. Đối với lĩnh vực y tế, thể thao thì có những cách phân loại theo tác động của trò chơi đối với thể chất như trò chơi vận động toàn thân hay sự khéo léo của đôi bàn tay, động tác chân, trò chơi đấu trí, đấu sức, sự bền bỉ dẻo dai của cơ thể hay một vài bộ phận của cơ thể. Đối với giáo dục thì lại quan tâm tới tác động của trò chơi dân gian trong việc tham gia vào phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ như phát triển về thể chất, trí tuệ, tinh thần, thẩm mỹ, quan hệ cộng đồng, xã hội, phát huy tính tập thể, rồi ích lợi hay tác hại của trò chơi như thế nào v.v Trong cuốn Trò chơi xưa và nay (Phan Văn Muôn chủ biên) đã chọn cách phân loại trò chơi của tác giả Roger Gaillois làm tiêu chí vì cho rằng đây là cách phân loại “thâu tóm được hầu hết các loại trò chơi mà không quá thiên lệch về một lĩnh vực chuyên môn nào”, đó là các trò chơi thi đấu, trò chơi cầu may, trò chơi mô phỏng và trò chơi choáng ngợp. Từ đó, nhóm tác giả đã phân loại cho các trò chơi dân gian Việt Nam thành 5 loại như sau: Trò chơi giải trí Trò chơi thi tài khéo léo Trò chơi thi đấu thể thao Trò chơi trẻ em. 68 Cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt của Viện Nghiên cứu văn hóa dân gian (nay là Viện Nghiên cứu văn hóa) do nhóm tác giả Nguyễn Thúy Loan, Đặng Diệu Trang, Nguyễn Huy Hồng, Trần Hoàng sưu tầm, biên soạn [16] thì trò chơi được chia thành ba nhóm như sau: - Trò chơi vận động: là những trò chơi cần đến sự vận động của toàn thân hoặc một phần cơ thể như chạy, nhảy, giằng, kéo, đẩy. Các trò chơi có thể sử dụng đồ dùng dụng cụ hoặc không, chơi theo các thao tác vận động tập thể hoặc cá nhân theo các câu đồng dao hoặc chơi theo một quy định nào đó. Đó là các trò chơi như “Nhảy dây”, “Lộn cầu vồng”, “Ô nô, ốc nốc”, “Chim bay”, “Rán mỡ”, “Thả đỉa ba ba”, “Mèo đuổi chuột”, “Phụ đồng vung” Có một số trò chơi theo thứ tự lần lượt từng người, nhưng nhiều trò thì chơi theo cặp hoặc đồng thời cả nhóm nên nó mang tính tập thể cao vì khi cùng tham gia chơi, trẻ phải phối hợp nhịp nhàng các động tác một cách ăn ý mới được. - Trò chơi khéo léo: là những trò chơi đòi hỏi người tham gia chơi phải thật khéo léo, tinh tế trong từng động tác của mình để có thể đạt được kết quả như ý muốn. Các trò chơi này thường theo quy luật chơi từ dễ đến khó dần. Có thể đấu loại trực tiếp qua từng ván chơi hoặc ngay trong một nước đi, một động tác chơi nào đó. Các tác giả đã sưu tầm 33 trò chơi thuộc các trò chơi khéo léo như “Chuyền thẻ”, “Ném vòng cổ chai”, “Gẩy chun”, “Cắp cua bỏ giỏ” trong đó, có trò chơi có một vài cách chơi khác nhau. - Trò chơi trí tuệ: Đây là những trò chơi mà người tham gia chơi cần phải vận dụng trí tuệ của mình một cách khôn khéo, phải có sự kiên trì để có thể thắng được đối phương. Phần này có 16 trò chơi thì có tới 7 trò chơi cờ khác nhau, đó là cờ chiếu tướng, cờ đi đường, cờ hùm, cờ lúa ngô, cờ ngũ hành, cờ tu tu và đánh cờ chó. Còn lại là các trò đố mẹo, trò chơi về ngôn ngữ 69 (đọc câu, đếm sao) và một số trò chơi cũng cần phải tính toán thật tốt như tam cúc, ô ăn quan. Trong cuốn Những trò chơi của trẻ em nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trước 1954, tác giả Nguyễn Quang Khải cho rằng mọi phân loại đều muốn đạt đến sự hoàn hảo nhưng thực tế cũng chỉ có tính chất tương đối, và sự phân loại, định nghĩa chẳng qua là do người lớn “nhiễu sự” gây ra. Dẫu vậy, ông cũng phân chia ra bốn hoạt động vui chơi tương đương với 4 chương sách như sau: - Những trò chơi có diễn xướng đi kèm với hát đồng dao và những trò chơi có hát đồng dao nhưng không đi kèm với diễn xướng; - Hát đồng dao, hát vè, hát ru, đố vui; - Những hoạt động sáng tạo ra đồ chơi; - Những hoạt động vui chơi bằng cách mô phỏng một số việc của người lớn. Trong đó chương I “Các trò chơi” chia trò chơi trẻ em thành 4 loại nhỏ là trò chơi có tính chất diễn xướng, trò chơi có tính chất thi tài, trò chơi có tính chất đấu sức và can đảm, một số trò chơi có tính chất saman giáo. Nhóm tác giả Phạm Vĩnh Thông (chủ biên), Phạm Mạnh Tùng, Phạm Hoàng Dương trong cuốn Trò chơi dân gian của trẻ em Việt Nam đã chọn cách phân loại phối hợp giữa rèn luyện các kỹ năng vận động và phát triển các tố chất thể chất và phân thành 6 nhóm: - Nhóm trò chơi khởi đầu - Nhóm trò chơi phát triển trí tuệ - Nhóm trò chơi dưới nước 70 - Nhóm trò chơi rèn luyện sức mạnh – khéo léo - Nhóm trò chơi chạy – nhảy - Nhóm trò chơi rèn luyện hơi thở. Tuy nhiên, theo chúng tôi nghĩ, cách phân chia này chưa thực sự thuyết phục bởi có vẻ như “Nhóm trò chơi rèn luyện sức mạnh – khéo léo” đã bao hàm cả các nhóm khác như “trò chơi chạy nhảy” chẳng hạn. Trong bài viết “Đồng dao và trò chơi trẻ em – Những hình thức giáo dục trẻ dần bị lãng quên”(ngày 4/5/2006, ecadao.com), tác giả Trần Xuân Toàn có nêu trò chơi trẻ em có những loại như trò chơi vận động, trò chơi học tập, trò chơi mô phỏng, trò chơi sáng tạo. Tuy nhiên đây có lẽ cũng là theo cách phân loại của PGS. Vũ Ngọc Khánh (Viện Nghiên cứu văn hóa). Cuốn sách Đồng dao và trò chơi dân gian cho trẻ mầm non [5], ở phần trò chơi, chúng tôi đã phân chia một cách tương đối các trò chơi nhằm giúp giáo viên có thể áp dụng một cách phù hợp với các hoạt động của trẻ. Các trò chơi được sắp xếp theo cách thức tổ chức chơi, hình thức chơi như trò chơi có dụng cụ, chơi vận động toàn diện, vận động các ngón tay, chơi theo nhóm, làm các sản phẩm từ lá cây. Cách phân chia này cũng mang tính ước lệ nhằm đáp ứng mục tiêu của cuốn sách và nhu cầu của người sử dụng nó. TS. Phạm Lan Oanh trong bài viết Phân loại trò chơi dân gian trẻ em Việt Nam [30] đã phân trò chơi dân gian trẻ em chủ yếu thành hai loại lớn: - Thứ nhất là trò chơi trí tuệ: Trò chơi trí tuệ thuộc loại trò chơi theo luật có tác dụng thúc đẩy hoạt động trí tuệ, giúp các em nhận thức thế giới xung quanh một cách tương đối hào hứng. Thông qua các thao tác trí óc kết hợp với hành động chơi, trẻ sẽ phát triển được các giác quan như thị giác, thính giác, vị giác, xúc giác, khứu giác. Phát triển trí nhớ, phát triển tư duy, trí 71 tưởng tượng, ngôn ngữ. Trò chơi trí tuệ còn được gọi là trò chơi học tập, chơi mà học, học mà chơi. Trò chơi trí tuệ khá đa dạng, ít tốn kém, dễ thực hiện và đã được chơi từ lâu nay. Đó là các trò chơi như đánh cờ, tam cúc, chơi đếm sao, ô ăn quan. - Thứ hai là các trò chơi vui-khỏe-khéo là những trò chơi kết hợp nhiều kỹ năng vận động thể lực. Mục đích của các trò chơi loại thứ hai nhằm phát huy tính tích cực chủ động của trẻ. Giúp trẻ mở rộng các mối quan hệ thông qua trò chơi để hướng tới một xã hội trẻ em lành mạnh, vô tư, trong sáng. Ngoài một số cách phân loại trò chơi nêu trên, còn có những cách phân loại khác. Tuy nhiên, tìm hiểu về trò chơi, chúng ta có thể thấy các trò chơi đều có những hoàn cảnh ra đời nhất định, chúng được hình thành và phát triển từ chính các hoạt động của con người, phản ánh rõ nét môi trường sống của con người thông qua các trò chơi. Nói đến “trò chơi” là nói đến giải trí, nhưng rõ ràng nó cũng hướng tới những mục đích, kết quả nào đó. Do vậy, chúng ta cũng có thể phân loại trò chơi dựa vào các tiêu chí là hình thức, môi trường, hoàn cảnh chơi hay mục đích, kết quả của trò chơi. * Phân loại trò chơi dân gian theo hình thức, môi trường, hoàn cảnh chơi Xét về mặt hình thức, trò chơi dân gian có thể chơi với quy mô rất lớn, có hàng chục, thậm chí hàng trăm người tham gia, nhưng có những trò chơi chỉ có một, hai người. Có những trò chơi có dụng cụ, có trò chơi vận động toàn diện, vận động các ngón tay, chơi theo nhóm, trò chơi ngôn ngữ, làm đồ chơi Đặc biệt, môi trường chơi sẽ là yếu tố chủ yếu tạo lên trò chơi dân gian bởi nó khởi tạo đồ dùng, vật dụng để chơi, quy luật của trò chơi cũng như đối tượng, số lượng người chơi. 72 Ở huyện Khoái Châu có triền đê khá dài. Do vậy, đây là một nơi lý tưởng để trẻ tha hồ chơi đủ thứ trò trong khi đi chăn trâu, chăn bò, cắt cỏ, trong lúc nông nhàn và khi được nghỉ học. Phía bên ngoài là những vùng bãi bồi rất trù phú của sông Hồng mà sau mỗi lần bị ngập lụt, đất lại thêm màu mỡ, cây cối lại thêm tươi tốt hơn. Chơi ở đây sẽ có những nét khác với trẻ ở phía bên trong là những cánh đồng lúa rộng mênh mông, trong làng thì có những sân kho, sân đình rộng lớn và có nhiều bóng mát của cây cối, nhà cửa. Từ đó, các trò chơi ở Khoái Châu có thể được xem xét ở góc độ môi trường, hoàn cảnh chơi: Những trò chơi ở đồng ruộng: là những trò chơi được thực hiện ngay trên đồng lúa vào những lúc trẻ chăn trâu, cắt cỏ, những lúc tham gia sản xuất, cấy hái, những lúc sau mùa gặt cánh đồng còn trơ gốc rạ hay những lúc nông nhàn, cánh đồng lúa đang vào thời con gái xanh tươi. Những trò chơi ở đây mang nhiều tính sáng tạo bởi trẻ có thể tận dụng nhiều đồ dùng, vật dụng nông nghiệp, những sản phẩm nông nghiệp, thậm chí những đồ bỏ đi như cỏ dại, lộc vừng dại để tạo ra những trò chơi hấp dẫn, phong phú mà lại dễ chơi, rẻ tiền và rất tiện lợi. Theo khảo sát ở người cao tuổi (sinh từ năm 1915- 1945) thì có tới 40% trẻ ngày xưa có tham gia chơi ở ngoài đồng. Trò chơi ở trên đê: Trẻ thường chăn trâu, bò, cắt cỏ ở khu vực này. Cách đó không xa là những ngôi làng với khá đông dân cư nằm dọc theo triền đê. Trong lúc đàn bò đang ung dung gặm cỏ, trẻ tha hồ vui chơi với nhau trên mặt đê khá rộng hay triền đê thoai thoải với thảm cỏ dày phủ kín và dãy tre dày đặc chống xói mòn phía bên ngoài đê. Ngày trước, không dễ gì mà nhà có được một con trâu hay bò; do đó, số lượng trẻ chăn trâu cắt cỏ cũng chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định. Đôi khi chúng còn kéo thêm cả lũ bạn cùng trang lứa ra chơi cùng. Cũng theo số liệu mà chúng tôi thu thập được, trước đây (những năm đầu thế kỷ XX) có 28% trẻ chơi trên bờ đê. Cho tới cuối thế kỷ XX, đầu 73 thế kỷ XXI thì chỉ còn 8% trẻ chơi trên đê. Điều này chắc hẳn là do có quá nhiều trò chơi hiện đại, việc làm, học hành thu hút trẻ và môi trường đê điều không còn phù hợp với các trò chơi của trẻ nữa. Trò chơi ở trong làng quê (đường làng, ngõ xóm): Khoái Châu là một trong những nơi đặc thù của làng quê Việt Nam với lũy tre xanh ngát, với cây đa, sân đình, những ngôi chùa tĩnh mịch, những giếng làng, ao, hồ. Đường làng là đường đất hoặc được lát bằng gạch. Nhà ở từ xưa chủ yếu được làm bằng gỗ của các cây nhỏ như xà cừ, xoan, tre; rồi mái lợp rạ, tường cũng bằng rơm, rạ trộn với bùn đất. Nhà nào khá giả thì xây gạch lợp ngói, xung quanh lại được quây kín bởi bức tường gạch kiên cố. Có thể nói, rất nhiều trò chơi trẻ em người Việt đã được trẻ ở đây tham gia chơi từ lâu đời và tồn tại khá lâu. Trước đây có tới 72% trẻ em tham gia chơi các trò chơi dân gian ở môi trường này. Các trò chơi trong các ngày lễ tết cũng mang nhiều nét khác hơn so với ngày thường bởi sự chuẩn bị cầu kỳ hơn, có yếu tố cạnh tranh, thi thố nhiều hơn và người tham gia chơi cũng như khán giả cũng phấn khích hơn. * Phân loại trò chơi dân gian theo nội dung của trò chơi Trước tiên, chúng ta đều thấy rõ đã là trò chơi thì trước tiên phải nói đến là sự giải trí. Người tham gia chơi hay người cổ vũ đều muốn đem lại niềm sảng khoái, sự thoải mái thông qua trò chơi. Tuy nhiên, các trò chơi dân gian thực sự không đơn thuần chỉ là để giải trí mà nó còn đem lại cho người chơi nhiều điều bổ ích và lí thú khác nữa. Trí tuệ dân gian thật tuyệt vời khi dồn đúc trong trò chơi dân gian cả việc chơi, việc học lẫn quan hệ cộng đồng. Nó khiến tâm hồn các em trong sáng, tươi mát và trí tuệ các em phát triển lành mạnh. Tìm hiểu về trò chơi dân gian ở huyện Khoái Châu, có thể phân chia nội dung trò chơi dân gian như sau: 74 - Trò chơi dân gian phản ánh môi trường sống của trẻ - Trò chơi dân gian thể hiện trí tuệ - Trò chơi dân gian thể hiện sự khéo léo - Trò chơi dân gian với mục đích giải trí - Trò chơi dân gian phát huy sức mạnh tập thể và quan hệ cộng đồng 3.2. Khái quát về trò chơi dân gian ở huyện Khoái Châu Là một trong những vùng đất có nền văn hóa phát triển từ lâu đời, Khoái Châu là một trong những nơi nảy sinh, lan tỏa và tiếp thu rất nhiều trò chơi của trẻ em người Việt nói chung cũng như với các dân tộc khác, thậm chí với các nước khác. Có thể thấy rõ điều đó trong một vài thống kê sau đây: Trong 106 trò chơi trong cuốn Đồng dao và trò chơi trẻ em người Việt [15] thì trẻ ở Khoái Châu chơi tới 56 trò và chỉ có 50 trò là không chơi, hoặc rất hiếm khi chơi một vài trò trong số đó. Cuốn Trò chơi dân gian [21] có 75 trò. Trong đó có 29 trò của người lớn, còn lại 46 trò chơi trẻ con. Trong số 46 trò này thì có 35 trò giống [16]. Còn lại 11 trò thì có 2 trò không được coi là trò chơi dân gian (căn cứ vào luật, cách chơi, cách dùng từ ngữ) là Thi tìm những con vật có từ láy [21, tr.90] và Kể chuyện [21, tr.98]. Ở 9 trò này thì trẻ ở Khoái Châu có chơi 2 trò là Đánh trống lảng và Đứng-ngồi-nằm-ngủ. Trong 9 trò chơi dân gian phổ biến tại Malaysia [43] là Kite (thả diều), Gasing-Giant top spinning (bện thừng khổng lồ), Congkak (ô ăn quan), Sepak Raga Ratus (cầu mây), Kaki Hantu- Stilt walk (đi cà kheo), Tapak Gajah – Elephant Steps (những bước đi của voi – đi trên 2 nửa vỏ quả dừa), Bola cetong (ném vỏ hộp), Rakit darat (cưỡi ngựa tre/mây/gỗ), Terompah gergasi – Giant clog (đi guốc khổng lồ) có một số trò chơi khá giống với trò chơi dân 75 gian của trẻ em người Việt mà trong đó, trẻ Khoái Châu cũng chơi tuy có khác một chút về cách chơi cũng như đồ dùng, vật dụng chơi như chơi Ô ăn quan chẳng hạn. Trẻ Malaysia dùng hạt của cây cao su để làm quân; trong khi đó trẻ ở Khoái Châu thường lấy những mẩu gạch vụn, hòn đá, sỏi làm quân. Việt Nam có rất nhiều tre, do đó với trò Cưỡi ngựa tre, trẻ ở địa phương dùng đoạn tre để làm “ngựa” cưỡi, và thường hay chơi một mình, cưỡi ngựa phi loanh quanh, vô định, có thể có bạn hay người lớn cổ vũ. Trong khi đó, trẻ Malaysia có thể dùng tre, đoạn mây hay khúc gỗ để “cưỡi” và chơi theo nhóm và thi xem ai đến đích trước. Các trò chơi còn lại thì khác tương đối nhiều về luật chơi, cách chơi. Ngoài hàng chục trò chơi giống hoặc gần giống với những nơi khác như thống kê ở trên, có thể kể đến các trò chơi được trẻ Khoái Châu cũng thường chơi như: Đua trâu, Làm lò sưởi, Bán đồ hàng, Chết hoãn, Chạm gót, Cờ ngũ hành, Bắt chuồn chuồn, Làm trâu lá ổi, lá đa, Làm kèn từ đòng đòng, Làm kính, đồng hồ từ lá dứa dại, Vây đồn, Quay tay tre, Rồng rồng mổ rết, Đạp ngựa, Nhảy ngựa, Chơi con đông tây, Chơi “bật bưng” với con cần cật, Xe bò kéo (cua kéo lá ô-rô), Thổi bong bóng (với cọng rạ và nhựa cây ô rô, Đi cầu Kiều).Ngoài ra còn có một số trò khác vì những lí do khác nhau đã bị mai một bởi thời gian và không gian hoặc có những trò quá đơn giản, đơn điệu mà chúng tôi không nêu ở đây cũng như một số hạn chế chủ quan và khách quan trong quá trình sưu tầm. Trò chơi dân gian phản ánh môi trường sống của trẻ. Điều này đã tạo lên nét khu biệt trong trò chơi ở mỗi vùng miền khác nhau. Điểm khác nhau ở đây có thể căn cứ vào đồ dùng, đồ vật sử dụng trong trò chơi (đồ chơi); ngôn ngữ sử dụng trong trò chơi và nghề nghiệp, nếp sinh hoạt cũng như đời sống tinh thần của người dân nơi đó. Ở Khoái Châu, đồ chơi được trẻ khai thác nhiều từ thiên nhiên với tre, đất thịt, và hoa, lá cành đặc trưng của vùng nhiệt 76 đới nóng ẩm, mưa nhiều như chuối, cau, dậu dách, dâm bụt, ô rô, dứa dại, mây, lúa, ngô, khoai, đay, thuồng muồng Ngôn ngữ trẻ dùng trong trò chơi thường rất giản dị, mộc mạc và thân thiện, thậm chí còn hơi thô thiển như mày, tao, đít (đáy, chôn của một số đồ chơi), đôi khi còn văng tục một cách rất vô tư, không hàm ý gì khi làm hỏng một động tác, thua một ván hay bị ăn gian, bị bắt nạt trong mỗi tình huống nào đó. Có trò chơi được tiếp thu từ địa phương khác về cũng được trẻ “bản địa hóa” từ ngữ cho phù hợp, thí dụ như đại từ nhân xưng các vai trong trò chơi hay một số từ trong lời ca đồng dao của những trò chơi có nguồn gốc từ miền nam, miền trung hay dân tộc khác. Nghề nghiệp của người dân Khoái Châu chủ yếu sống bằng nghề trồng trọt với cây lúa là chủ yếu cùng với một số cây như đay, nhãn hay hoa màu như ngô, khoai, rau màu. Ngoài ra làm một số nghề như đánh rèn, dệt vải, buôn bán. Với đời sống như vậy, việc trông nom, chăm sóc trẻ có nhiều hạn chế. Từ đó chúng được tách biệt với người lớn hơn, độc lập hơn trong sinh hoạt hàng ngày cũng như việc “kiêm nhiệm” các công việc nhà như trông em, quét dọn nhà cửa, phụ anh chị cơm nước Điều này nảy sinh một số trò chơi đáng kể trong thế giới trẻ thơ bởi thời gian rảnh rỗi khá nhiều của chúng cũng như điều kiện quan sát, học hỏi và thực hiện những trò chơi mô phỏng nghề nghiệp công việc của người lớn mà những trò chơi này có thể do người lớn bầy cho hoặc do chính chúng sáng tạo ra. Sự lan tỏa, giao thoa và tiếp biến là điều tất yếu đối với văn hóa của mỗi dân tộc, vùng miền. Càng nơi nào phát triển thì nơi đó càng có ảnh hưởng, lan tỏa lớn đối với xung quanh. Đối với trò chơi dân gian, có lẽ sức lan tỏa còn nhanh, mạnh và lớn hơn bởi người chơi là con trẻ; mà ở độ tuổi đó thì thường là vô tư trong sáng và sự tiếp thu, học hỏi cũng rất nhanh. 3.3. Nội dung của trò chơi dân gian 77 3.3.1. Trò chơi dân gian phản ánh môi trường sống của trẻ Có thể nói, trò chơi dân gian được nảy sinh và tồn tại từ chính môi trường, hoàn cảnh sống của trẻ. Thiên nhiên phong phú được phản ánh trong từng trò chơi, từng cách chơi, nó biểu hiện mối quan hệ chặt chẽ với con người, chịu sự tác động mạnh mẽ của con người. Điều này có thể thấy rõ thông qua các vật dụng, đồ dùng được sử dụng trong trò chơi, qua hoàn cảnh chơi, các quy luật của trò chơi. Thứ nhất là bối cảnh, vật dụng của trò chơi. Không gian rộng mênh mông và tương đối bằng phẳng của những cánh đồng với những bờ vùng khá dài rộng phân chia các khu vực cấy trồng, trẻ có thể tha hồ chạy nhảy, chơi đùa nơi đây. Cùng với con trâu, trẻ có thể nhảy lên “phi” nước đại, có trẻ còn táo bạo đứng thẳng lên lưng trâu, tay cầm thừng, tay dùng roi quất cho chúng chạy thẳng hoặc chạy lòng vòng trông khá nguy hiểm nhưng cũng rất hấp dẫn. Vài trẻ còn “đua trâu”. Cùng với vài con trâu già có, non có, nghé có, chúng cùng lấy đà và dùng tay đập mạnh vào lưng trâu và những chú trâu, nghé thi nhau lồng1 những đoạn xa. Có lúc chưa phân thắng bại nhưng vì trâu chán quá đi chậm lại, hoặc trẻ thấy hết hứng thú thì cũng không đập nữa và trâu lại đi chậm lại, cúi xuống ăn cỏ ngon lành. Trò chơi này cho thấy sự ngẫu hứng, tính tương đối trong cuộc chơi. Nó xuất phát từ không gian mở cùng với thời gian bất định, từ đó sẽ làm cho chủ thể tham gia không bị gò bó, trái lại, nó mang tới sự sảng khoái tinh thần cho người chơi cũng như bầu không khí náo nhiệt xung quanh cuộc chơi. Một trò chơi khác ở môi trường này: Vào mùa đông, trẻ còn nặn đất thành hình như chiếc hộp vuông hoặc tròn, dùng dây chuối, dây đay làm quai, sau đó nhặt những quả phi lao khô cho vào trong và đốt cháy âm ỉ. Không 1 Lồng: (trâu) chạy nhanh, thường là vô định 78 những dùng nó để sưởi ấm, chúng còn thi nhau chạy trên bờ ruộng vừa cho lửa bốc cháy, vừa tạo thành vệt khói như những con rắn mây ngoằn nghèo uốn lượn chạy theo. Cách chơi khác là dùng tay quay tròn theo chiều thẳng đứng, vì có lực ly tâm nên các quả phi lao không bị rơi ra ngoài, tạo thành vòng tròn khói cũng rất hay. Trò chơi này cho thấy trẻ đã rất sáng tạo, biết tận dụng những đồ “thải” của thiên nhiên là những quả phi lao chín già quá, rụng xuống; đất dẻo rất sẵn có, chỉ việc dùng bốn đầu ngón tay móc vào bên bờ ruộng là đã lấy đủ để nặn thành nồi, thành hộp theo ý thích, lại vừa chịu được nhiệt. Vừa chơi, trẻ lại vừa được sưởi ấm phần nào trong những ngày đông giá rét. Trẻ luôn tiếp xúc với môi trường tự nhiên xung quanh mình trong lúc làm, lúc nghỉ ngơi cũng như lúc chơi đùa. Các trò chơi biểu hiện rất rõ nét sự gần gũi với thiên nhiên của trẻ nơi đây. Trẻ có thể tìm kiếm, “sở hữu” rất nhiều thứ từ đó như những quả cam, quả bưởi bị rụng do mưa bão hoặc vì lí do nào đó khác, những hòn đá, sỏi, gạch vụn, rồi hoa, lá, cành của cây cối xung quanh nhà, ngoài ngõ Nhiều gia đình có đông con, bố mẹ đi làm cả ngày, trẻ ở nhà đứa lớn trông đứa bé, rồi tha thẩn sân nhà, bờ rào, bụi rậu hay ra ngõ xóm mà chơi. Chơi đồ hàng (mua bán hàng) được các bé gái rất thích. Trẻ thường chơi ở trước hiên nhà, ngoài sân hay ngõ xóm cùng với vài bạn gái hàng xóm hoặc với chính chị em trong nhà1. Đồ chơi đều là những thứ lượm lặt đâu đó quanh nhà, ngoài ngõ như: những chiếc bẹ hoa chuối màu tím đỏ dày dặn được trẻ sử dụng làm “thúng”, “mủng” đựng đồ hàng; “đòn gánh” là một đoạn tay tre hoặc nan tre, “quang thúng” là sợi dây lấy từ sống lá chuối khô khá dẻo dai chắc chắn; “hàng hóa” là hoa chuối, là những quả chuối con 1 Ngày trước, trẻ trai chơi riêng, trẻ gái chơi riêng, không chơi chung các trò chơi với nhau, có thể do nếp sống phong kiến, có thể do thói quen, và đặc biệt, chúng còn sợ bị “chế nhau” - HCD 79 con cuối buồng người ta cắt bớt đi, rồi lá leo, hoa quả, tơ hồng1; “tiền” có thể là tiền ảo, tức là chỉ đưa tay đang “nắm” tiền “giả vờ” ra để “trả tiền”, hoặc tiền là lá, thường là lá dâm bụt, cam, bưởi. Tóm lại, chúng sử dụng tất tật những gì có thể để phục vụ cho cuộc chơi. Điều đáng nói ở đây là có những trẻ chưa bao giờ đi chợ, chưa từng chứng kiến cảnh mua bán thật sự của người lớn. Đối với trò chơi này, điểm tích cực là cuộc chơi biểu hiện nhu cầu giao lưu, giao tiếp của trẻ với bạn bè, sự khám phá, sáng tạo đối với thiên nhiên. Trẻ giao tiếp với nhau bằng những ngôn ngữ mô phỏng của người lớn theo cách riêng của con trẻ, cũng là “Bác bán cho tôi cái này”, “Mấy đồng?”, “Sao đắt thế?”, “Tiền đây” nhưng thật ngộ nghĩnh, tự nhiên và rất chân thật. Tuy nhiên, sự ứng xử của con người với thiên nhiên thường có hai mặt: cũng là khám phá, sáng tạo, nhưng đôi khi ảnh hưởng và ít nhiều tàn phá thiên nhiên, môi trường mình đang sinh sống. Ở trò chơi này, nếu như trẻ bứt những cụm tơ hồng ăn bám để bờ rào được “yên ổn” và tốt tươi hơn, thì bứt lá, bẻ cành, ngắt hoa, rồi rút nan giại2 để sử dụng trong trò chơi lại làm ảnh hưởng và có nguy hại tới môi trường xung quanh. Điều này cho thấy sự ngây thơ, vô thức của con trẻ chứ không hẳn đã là thái độ coi thường thiên nhiên hay thờ ơ trước thiên nhiên bởi vì nhiều khi vô tình hoặc hữu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_dong_dao_va_tro_choi_dan_gian_tre_em_o_huyen_khoai.pdf
Tài liệu liên quan