LỜI CAM ĐOAN . i
LỜI CẢM ƠN. ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT. iii
DANH MỤC BẢNG BIỂU . iv
TÓM TẮT LUẬN VĂN .x
LỜI NÓI ĐẦU .1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÀNH CÔNG NGHỆP VÀ DỰ BÁO SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NGÀNH CÔNG NGHIỆP.5
1.1. Khái quát về ngành công nghiệp .5
1.1.1. Khái niệm ngành công nghiệp.5
1.1.2. Vai trò của ngành công nghiệp trong nền kinh tế.5
1.2. Khái quát về doanh nghiệp ngành công nghiệp.7
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp.7
1.2.2. Khái niệm doanh nghiệp ngành công nghiệp.8
1.2.3. Đặc điểm của doanh nghiệp công nghiệp .9
1.2.4. Đánh giá sự phát triển của doanh nghiệp công nghiệp .11
1.3. Khái quát về dự báo kinh tế - xã hội.16
1.3.1. Khái niệm về dự báo kinh tế - xã hội.16
1.3.2. Các phương pháp dự báo.20
1.3.3. Tiêu chuẩn lựa chọn phương pháp dự báo .23
1.4. Ý nghĩa của dự báo và dự báo sự phát triển của doanh nghiệp ngành
công nghiệp.25
1.4.1. Ý nghĩa của dự báo.25
1.4.2. Ý nghĩa của dự báo sự phát triển của các doanh nghiệp ngành công
nghiệp .30
Kết luận Chương 1 .33
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2019 .34
2.1. Đặc điểm của ngành công nghiệp ở Việt Nam .34
108 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 14/03/2022 | Lượt xem: 436 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Dự báo sự phát triển của doanh nghiệp ngành công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2020 - 2025, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cập đến là chính sách kinh
tế - xã hội hay còn gọi là chính sách công.
Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo cùng
với công cụ, phương tiện, biện pháp, kỹ thuật mà nhà nước sử dụng để tác động tới
các đối tượng, các khách thể quản lý nhằm theo đuổi những mục tiêu đã định trong
một khoảng thời gian xác định. Chính sách bao hàm năm yếu tố cấu thành: (1) chủ
thể chính sách với hệ quan điểm chỉ đạo; (2) mục tiêu của chính sách; (3) các nguồn
lực thực thi chính sách; (4) môi trường của chính sách và (5) các đối tượng liên
quan đến chính sách. Quá trình chính sách kinh tế - xã hội là một quá trình quản lý
của Nhà nước bao gồm năm yếu tố cấu thành: Hoạch định chính sách; thể chế hóa
chính sách; tổ chức các hình thức cơ cấu; chỉ đạo thực hiện và kiểm tra, đánh giá,
điều chỉnh chính sách. Trong năm khâu đó, hoạch định chính sách là khâu đầu tiên
có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực và hiệu quả của quản lý bằng chính sách. Đó là
một quá trình gồm việc nghiên cứu đề ra một chính sách với mục tiêu, giải pháp và
công cụ nhằm đạt tới mục tiêu, được cơ quan có thẩm quyền thông qua và ban hành
dưới hình thức một văn bản quy phạm pháp luật. Kết quả của quá trình hoạch định
chính sách là một chính sách hợp lý, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quy trình hoạch định chính sách kinh tế - xã hội bao gồm các khâu chủ yếu sau đây:
- Xác định và lựa chọn vấn đề chính sách;
- Xác định mục tiêu chính sách;
- Xây dựng các phương án dự thảo chính sách;
- Lựa chọn phương án chính sách tối ưu;
- Thông qua quyết định chính sách.
Trong quy trình hoạch định chính sách, dự báo có vai trò cực kỳ quan trọng vì
nó cung cấp cơ sở thông tin cho việc xác định vấn đề, xác định mục tiêu cũng như
29
giải pháp và công cụ thực hiện mục tiêu của chính sách. Nội dung phân tích và dự
báo rất đa dạng, song có thể tập trung vào 2 nội dung cơ bản, đó là những yếu tố
thuộc hệ thống trong đó chính sách phát huy tác dụng (đối tượng chính sách, chủ
thể chính sách, kết quả thực hiện chính sách hiện hành) và những yếu tố thuộc môi
trường chính sách (môi trường quốc tế, môi trường trong nước). Việc phân tích và
dự báo được thực hiện bởi các cơ quan khoa học, các cơ quan quản lý nhà nước, các
nhóm chuyên gia của chính phủ.
1.4.1.4. Dự báo với quản trị doanh nghiệp
Trong quản lý vi mô, dự báo là hoạt động gắn liền với công tác hoạch định và
chỉ đạo thực hiện chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp
không thể không tổ chức thực hiện tốt công tác dự báo nếu họ muốn đứng vững
trong kinh doanh.
Chức năng đầu tiên của quản lý trong doanh nghiệp là xác định mục tiêu
của doanh nghiệp trong dài hạn và ngắn hạn. Doanh nghiệp phải lập kế hoạch để
thực hiện những mục tiêu đó, tổ chức tốt các nguồn nhân lực và vật tư để thực
hiện kế hoạch, điều chỉnh kế hoạch cũng như kiểm soát các hoạt động để tin chắc
rằng tất cả đang diễn ra theo đúng kế hoạch. Phân tích kinh tế và dự báo được
tiến hành trong tất cả các bước đó của quản lý doanh nghiệp, nhưng trước hết là
trong việc xác định mục tiêu và xây dựng các kế hoạch dài hạn và ngắn hạn.
Trong việc xác định mục tiêu, mỗi doanh nghiệp phải quyết định hàng hoá và
dịch vụ nào sẽ được sản xuất và bán ra, mức giá sản phẩm và dịch vụ, vùng tiêu thụ,
thị trường tiềm năng về sản phẩm đó, thị phần mà doanh nghiệp thực tế có thể hy
vọng chiếm được, hiệu suất vốn doanh nghiệp có thể kỳ vọng... Những mục tiêu
như vậy chỉ có thể trở thành hiện thực nếu doanh nghiệp đã phân tích các xu thế của
nền kinh tế, đã dự báo cầu về sản phẩm của mình cả trong dài hạn và ngắn hạn, chi
phí các nhân tố sản xuất... Như vậy các dự báo về thị trường, giá cả, tiến bộ khoa
học và công nghệ, nguồn nhân lực, sự thay đổi của các nguồn đầu vào, đối thủ cạnh
tranh,... có tầm quan trọng sống còn đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Ngoài ra dự báo còn cung cấp những thông tin phục vụ việc phối hợp hành
động giữa các bộ phận trong doanh nghiệp.
30
1.4.2. Ý nghĩa của dự báo sự phát triển của các doanh nghiệp ngành
công nghiệp
Việt Nam là nước có nền kinh tế đang phát triển và thực hiện công nghiệp hoá
cũng như chuyển đổi kinh tế từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp sang công
nghiệp - dịch vụ, công nghiệp, đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến, chế tạo luôn
được xem như động lực chính cho sự phát triển kinh tế và tạo ra của cải, vật chất
chính cho xã hội nhằm thay thế cho ngành nông nghiệp đang ngày càng giảm tỉ
trọng đóng góp trong GDP. Điều này giúp đất nước tránh được tụt hậu và tránh bẫy
thu nhập trung bình.
Trong cơ cấu của nền kinh tế có 3 ngành nghề chính: công nghiệp, nông
nghiệp và dịch vụ. Sự phát triển của công nghiệp là thước đo trình độ phát triển của
nền kinh tế. Cũng theo Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22/3/2018 của Bộ Chính trị
về định hướng xây dựng chính sách phát triển công nghiệp quốc gia đến năm 2030,
tầm nhìn đến năm 2045. Đến năm 2030, Việt Nam sẽ hoàn thành mục tiêu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
hóa và thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, một số ngành
công nghiệp sẽ có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Để làm được điều này, từ kinh nghiệm của một số nước đã thực hiện thành công
công nghiệp hóa cho thấy, trong thời kỳ công nghiệp hóa, ngành công nghiệp trong
đó công nghiệp chế biến, chế tạo luôn phải duy trì mức đóng góp từ 20-30% GDP
trở lên. Trong thời gian qua, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của Việt Nam đã
có những chuyển biến tích cực và luôn chiếm trên 10% GDP, gần đây nhất là năm
2018 chiếm khoảng 16% GDP của cả nước. Hơn nữa khả năng cạnh tranh của sản
phẩm công nghiệp của Việt Nam cũng đã dần được nâng cao và sự chuyển dịch cơ
cấu tích cực sang ngành có giá trị cao hơn và lên nấc thang giá trị cao của chuỗi giá
trị. Công nghiệp hóa là nấc thang mà bất kỳ quốc gia nào muốn đạt tới trình độ một
quốc gia phát triển đều phải trải qua và trong điều kiện tiến bộ của khoa học và
công nghệ hiện nay, CNH phải gắn liền với HĐH. Cùng với quá trình xây dựng đó,
việc hình thành nên những DNCN là tất yếu của sự phát triển. DNCN có vị trí rất
quan trọng trong nền kinh tế mỗi nước, kể cả các nước có trình độ phát triển cao.
31
Trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển, DNCN luôn là nền tảng
của nền kinh tế. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá như hiện nay, các nước đều
chú ý hỗ trợ các DNCN nhằm huy động tối đa các nguồn lực để hỗ trợ cho các
doanh nghiệp lớn và tăng sức cạnh tranh của sản phẩm. Những năm vừa qua ở nước
ta, công nghiệp đã có những đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển chung của
đất nước. Công nghiệp là nhân tố cơ bản đảm bảo sự tăng trưởng nhanh và ổn định.
Trong công nghiệp, tỷ trọng các DN chiếm tuyệt đại bộ phận. Vì vậy, vai trò và vị
trí của công nghiệp đối với sự phát triển đất nước cũng như đối với việc giải quyết
các nhiệm vụ kinh tế - xã hội gắn liền với vai trò và vị trí của các DN. Trong điều
kiện kinh tế của Việt Nam hiện nay, có thể khái quát lại vai trò của DNCN trên các
mặt cụ thể dưới đây.
1.4.2.1. Vai trò của DNCN về khía cạnh kinh tế
- DNCN góp phần quan trọng vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước và chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam. Sự phát triển của các DNCN
nước ta đã ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển kinh tế thông qua việc tăng lên về
số lượng doanh nghiệp và tạo ra giá trị sản lượng lớn trong nền kinh tế quốc dân.
Việc ra đời của các DNCN ở các vùng nông thôn đã góp phần làm giảm tỷ trọng
ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp dẫn đến chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tốt hơn. Quá trình phát triển các DNCN cũng là quá trình cải tiến máy móc,
thiết bị, nâng cao năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm để đáp ứng nhu cầu xã
hội. Từ đó, làm thay đổi công nghệ, giúp cho quá trình CNH - HĐH đất nước diễn
ra không chỉ ở chiều rộng mà cả ở chiều sâu.
- DNCN góp phần làm cho nền kinh tế phát triển ổn định, hiệu quả hơn. Quá
trình phát triển DNCN nhằm nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để
đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ, mở rộng các mối quan hệ giữa cung ứng và
tiêu thụ, từ đó phát triển nhiều ngành, nhiều nghề mới. Từ đó, cho thấy vai trò quan
trọng của DNCN trong lưu thông hàng hóa và cung cấp hàng hóa, dịch vụ bổ sung
cho các doanh nghiệp lớn.
- Các DNCN tạo ra những điều kiện vật chất để thực hiện yêu cầu trang bị và
trang bị lại kỹ thuật cho các ngành kinh tế quốc dân. Các DNCN bao gồm các
doanh nghiệp thuộc nhóm công nghiệp nặng (nhóm A) và các doanh nghiệp thuộc
32
nhóm công nghiệp nhẹ (nhóm B). Sản phẩm và khả năng phát triển của các DNCN
(cơ khí, điện năng, hóa chất,) có ảnh hưởng rất lớn đến phạm vi và trình độ trang
bị kỹ thuật của các ngành kinh tế quốc dân. Bởi vì, DNCN là nơi sản xuất và cung
ứng các loại tư liệu sản xuất phục vụ thực hiện nội dung của tiến bộ khoa học công
nghệ. Vì vậy, việc phát triển các DN trong công nghiệp nặng sẽ tạo ra những tư liệu
sản xuất quan trọng cho sự phát triển của các ngành khác.
- Các DNCN là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước và là khu vực
thu hút được nhiều vốn trong dân. Tại Việt Nam, DNCN có mặt ở khắp các địa
phương và đóng góp quan trọng vào ngân sách, sản lượng và tạo công ăn việc làm
cho mỗi địa phương. Chính từ những quan điểm này nên một số chuyên gia nước
ngoài cho rằng, DNCN có thể được coi như “thanh giảm xóc” của nền kinh tế trong
những giai đoạn khó khăn nhất.
1.4.2.2. Vai trò của DNCN về khía cạnh xã hội
- DNCN tạo ra nhiều việc làm, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp. Các
DNCN thường phân bố rải rác ở khắp địa phương nên chúng có thể đảm bảo cơ hội
việc làm cho nhiều vùng địa lý và nhiều đối tượng lao động. Từ đó, giúp làm giảm
tỷ lệ thất nghiệp, tránh tình trạng di cư lao động từ vùng nông thôn ra thành thị gây
bất ổn về mặt xã hội.
- DNCN có vai trò quan trọng trong việc nâng cao thu nhập của dân cư, góp
phần xóa đói giảm nghèo, thực hiện công bằng xã hội. Các DNCN phát triển trong
các ngành, vùng miền và địa phương góp phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế -
xã hội ở địa phương, nâng cao thu nhập cho dân cư khu vực đó thông qua việc khai
thác và sử dụng có hiệu quả những tiềm năng kinh tế của địa phương như lao động,
đất đai, tài nguyên thiên nhiên,Đây là một trong những lý do cơ bản để Đảng và
Nhà nước ta đưa ra các chủ trương, chính sách hỗ trợ phát triển DN và DNCN ở các
vùng nông thôn. Từ việc phát triển đó làm cho khoảng cách thu nhập giữa thành thị
và nông thôn bị thu hẹp, giúp xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội
Hiện nay, tình hình kinh tế đang diễn biến phức tạp nhưng kinh tế Việt Nam vẫn
đang có chiều hướng phát triển tích cực. Tuy nhiên Việt Nam có hoàn thành được mục
tiêu công nghiệp hóa và hiện đại hóa vào năm 2030 không? Điều này phụ thuộc rất lớn
vào ngành công nghiệp, đặc biệt là sự phát triển của doanh nghiệp ngành công nghiệp.
33
Do vậy dự báo về sự phát triển của doanh nghiệp ngành công nghiệp trong thời gian tới
là rất cần thiết và cực kì quan trọng, từ đó có các giải pháp quyết liệt nhằm hỗ trợ cho
các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn, để ngành công nghiệp tiếp tục phát huy
được vai trò chủ đạo và tạo động lực cho phát triển kinh tế của Việt Nam.
Kết luận Chương 1
- Mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công
nghiệp, chính vì vậy việc tạo điều kiện để phát triển ngành công nghiệp mà cụ thể
là phát triển các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp là nhiệm vụ
trọng yếu và cấp bách.
- Trên cơ sở nghiên cứu cơ sở lý luận về dự báo sự phát triển của các doanh
nghiệp ngành công nghiệp, luận văn tập trung vào dự báo những chỉ tiêu liên quan
đến sự phát triển các doanh nghiệp công nghiệp, từ đó đưa ra giải pháp thúc đẩy sự
phát triển của các doanh nghiệp công nghiệp trong nền kinh tế ở Việt Nam trong
thời gian tới
34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP
NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2011-2019
2.1. Đặc điểm của ngành công nghiệp ở Việt Nam
2.1.1 Thành tựu của ngành công nghiệp ở Việt Nam
Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, những năm gần đây có đóng góp lớn
nhất cho ngân sách nhà nước, trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng
trưởng ở mức cao. Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, một
số ngành công nghiệp như: điện, điện tử, công nghệ thông tin và viễn thông, chế tạo
thiết bị năng lượng, dệt may, da giày, xây dựng đã có những bước phát triển
mạnh mẽ, góp phần tích cực trong giải quyết việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động,
tăng năng suất và nâng cao đời sống của nhân dân.
Trong 9 năm qua, công nghiệp Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng
chú ý sau:
- Công nghiệp là ngành đóng góp ngày càng lớn trong nền kinh tế. Bình quân
giai đoạn 2011 – 2019, công nghiệp chiếm hơn 30% trong GDP của cả nước. Ngành
công nghiệp cũng là ngành đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước.
- Sản xuất công nghiệp liên tục tăng trưởng với tốc độ khá cao.
Năm 2019, ngành công nghiệp duy trì mức tăng trưởng cao với 8,86%, đóng
góp 2,91 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế.
Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng của khu vực
công nghiệp và là động lực chính của tăng trưởng với mức tăng 11,29%, tuy thấp
hơn mức tăng của cùng kỳ năm 2018 nhưng cao hơn nhiều so với mức tăng các năm
2012-20161, đóng góp 2,33 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng giá trị tăng thêm
của nền kinh tế. Ngành công nghiệp khai khoáng tăng nhẹ ở mức 1,29% sau 3 năm
sụt giảm liên tiếp, đóng góp 0,09 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm
của toàn nền kinh tế.
1 Tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo của một số năm: Năm
2012 tăng 9,05%; năm 2013 tăng 7,22%; năm 2014 tăng 7,41%; năm 2015 tăng 10,60%;
năm 2016 tăng 11,90%; năm 2017 tăng 14,40%; năm 2018 tăng 12,98%
35
- Cơ cấu các ngành công nghiệp có sự chuyển biến tích cực, tăng tỷ trọng của
công nghiệp chế biến, chế tạo và giảm tỷ trọng của ngành khai khoáng, phù hợp với
định hướng tái cơ cấu ngành. Đóng góp vào tăng trưởng GDP của công nghiệp chế
biến, chế tạo liên tục tăng từ năm 2015. Tỷ trọng GDP của nhóm ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 14,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 16,2%
năm 2016, 17,4% năm 2017 và tăng dần vào các năm 2018, 2019; của nhóm ngành
khai khoáng giảm từ 8,8% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 xuống 7,6% năm 2016,
6,6% năm 2017 và giảm dần vào các năm 2018, 2019.
- Công nghiệp trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở
mức cao; cơ cấu sản phẩm công nghiệp xuất khẩu đã có sự dịch chuyển tích
cực. Trong giai đoạn 2011 – 2019, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp
tăng cao, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, trong đó tỷ
trọng các sản phẩm công nghiệp chế biến, chế tạo ngày càng tăng. Nhiều mặt hàng
công nghiệp như da – giày, dệt may, điện tử có vị trí xếp hạng xuất khẩu cao so với
khu vực và thế giới.
- Đã hình thành và phát triển được một số tập đoàn công nghiệp tư nhân trong
nước có tiềm lực tốt hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến chế tạo. Điển
hình như trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp ô tô là các Tập đoàn VinGroup, Trường
Hải, Thành Công; trong lĩnh vực sản xuất chế biến sữa và thực phẩm là Vinamilk,
TH; trong lĩnh vực sắt thép, kim khí là Tập đoàn Hoa Sen, Tập đoàn Hòa Phát,
Công ty TNHH Hòa Bình Minh, Công ty thép Pomina, Công ty CP thép Nam
Kim... Đây là những tín hiệu tốt cho thấy các chủ trương chung của Đảng, cơ chế
chính sách của Chính phủ đã tạo được niềm tin tưởng và hứng khởi cho các doanh
nghiệp tập trung đầu tư phát triển lớn, dài hạn trong các ngành công nghiệp trọng
điểm của đất nước.
- Phát triển công nghiệp đã góp phần tích cực trong giải quyết việc làm và
nâng cao đời sống của nhân dân. Lực lượng lao động trong ngành công nghiệp
ngày càng tăng về số lượng. Bình quân mỗi năm, ngành công nghiệp tạo thêm
khoảng 300.000 việc làm
36
Một số nét về ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
Nhóm ngành chế tạo sử dụng công nghệ thấp
Các sản phẩm chế tạo sử dụng công nghệ thấp bao gồm hàng dệt may, da giày,
nhựa, thủy tinh, đồ nội thất, sản phẩm kim loại đơn giản, v.v Đặc trưng của các sản
phẩm này là thâm dụng lao động, sử dụng công nghệ tương đối đơn giản và nghiên cứu
và phát triển (R&D) thường là thấp và hạn chế đổi mới.
Đối với các sản phẩm ít tinh xảo, năng lực cạnh tranh nằm ở việc giữ chi phí
lao động thấp và năng suất cao. Những ngành này không có nhiều rào cản gia nhập
thị trường và do đó dễ có đối thủ cạnh tranh mới. Đối với những sản phẩm tinh xảo
hơn (như hàng may mặc có thương hiệu hoặc đồ trang sức cao cấp), năng lực cạnh
tranh nằm ở năng lực công nghệ, nguồn nhân lực, cũng như sự nhạy bén với các
thay đổi về sở thích và nhu cầu.
Nhóm ngành chế tạo sử dụng công nghệ trung bình
Nhóm sản phẩm chế tạo sử dụng công nghệ trung bình bao gồm ba mặt hàng:
sản phẩm vận tải (ví dụ, xe chở khách hoặc các phụ tùng, linh kiện của xe chở khách,
xe thương mại, xe gắn máy và các phụ tùng, linh kiện của xe gắn máy), sản phẩm chế
biến (ví dụ, sợi tổng hợp, hóa chất và sơn, phân bón công nghiệp, nước hoa/mỹ
phẩm) và các sản phẩm cơ khí khác (ví dụ, ống dẫn khí, máy móc công nghiệp, máy
bơm, thiết bị đóng ngắt, tàu/thuyền, đồng hồ).
Năng lực cạnh tranh của các ngành công nghiệp này đòi hỏi công nghệ tinh
xảo hơn và một lực lượng lao động có tay nghề cao, đặc biệt là trong việc phát triển
sản phẩm mới. Những rào cản gia nhập vào các ngành này rất cao, đó chính là động
lực công nghiệp và kinh tế của hầu hết các nước phát triển, vì nó đòi hỏi một quá
trình học hỏi lâu dài, đổi mới và liên tục cải tiến kỹ thuật và quy trình.
Nhóm ngành chế tạo sử dụng công nghệ cao
Sản phẩm chế tạo sử dụng công nghệ cao gồm các sản phẩm máy móc tiên
tiến (như máy bay và các thiết bị chính xác, thiết bị truyền tải điện, máy tính) và các
sản phẩm chế biến tiên tiến (như thuốc chữa bệnh, vật liệu phóng xạ). Sản xuất các
37
sản phẩm này đòi hỏi năng lực vượt trội và có cả những rủi ro đáng kể từ phía nhà
đầu tư. Tuy nhiên, khâu lắp ráp của nhiều mặt hàng điện tử công nghệ cao không
yêu cầu sử dụng lao động có kỹ năng hoặc chuyên môn cao.
2.1.2. Những tồn tại và hạn chế
Mặc dù đạt được một số thành tựu, tuy nhiên, nền công nghiệp nước ta thời
gian qua phát triển chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chủ yếu phát triển theo các mục tiêu ngắn hạn, thiếu tính bền vững. Những
hạn chế, tồn tại của công nghiệp Việt Nam chủ yếu gồm:
- Tăng trưởng công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp chưa thực sự là nòng cốt thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Trong nhiều năm qua, tỷ trọng của công nghiệp trong GDP thay đổi
không lớn. Tốc độ tăng trưởng công nghiệp có xu hướng tăng song vẫn ở mức thấp
so với yêu cầu công nghiệp hóa.
- Tái cơ cấu các ngành công nghiệp thực hiện còn chậm, chưa tạo ra những
thay đổi đáng kể về cơ cấu ngành, chưa tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Trình độ công nghệ nhìn chung còn thấp, chậm được đổi mới, nhất là đối với
các doanh nghiệp công nghiệp trong nước. Hiện nay, phần lớn doanh nghiệp công
nghiệp nước ta vẫn đang sử dụng công nghệ tụt hậu so với mức trung bình của thế giới
từ 2 – 3 thế hệ, đặc biệt là trình độ cơ khí chế tạo (là trụ cột của sản xuất công nghiệp).
- Công nghiệp chưa thu hút mạnh mẽ lao động để tạo ra sự dịch chuyển cơ
cấu lao động chung của nền kinh tế đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa. Tỷ lệ lao
động công nghiệp trong tổng lao động có việc làm của nước ta thấp hơn nhiều so
với các nước khác đã thực hiện thành công công nghiệp hóa trong giai đoạn nửa đầu
của thời kỳ dân số vàng.
- Nội lực của ngành công nghiệp còn yếu, phụ thuộc nhiều vào các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong khi việc chuyển giao công nghệ còn hạn chế;
năng lực, hiệu quả của các doanh nghiệp công nghiệp trong nước ở mức thấp.
38
- Năng lực cạnh tranh của ngành công nghiệp còn thấp, kém xa các nước khác
trong khu vực và châu lục.
- Khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu của các sản phẩm
công nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế, chủ yếu tham gia vào khâu gia công, lắp
ráp. Phần lớn các mặt hàng công nghiệp của Việt Nam có hàm lượng công nghệ
thấp, ngoại trừ hàng điện tử chủ yếu do khu vực FDI nắm giữ. Số lượng sản phẩm
công nghiệp chủ lực Việt Nam có lợi thế so sánh đang có xu hướng giảm.
- Chất lượng năng suất lao động ngành công nghiệp còn thấp, có khoảng cách
khá xa so với các nước khác.
- Nhiều ngành công nghiệp ưu tiên phát triển không đạt mục tiêu đã đề
ra. Trong số các ngành ưu tiên theo xác định của Chính phủ, có các ngành công
nghiệp ưu tiên có tốc độ tăng trưởng khá cao là dệt may, da – giày, thép, điện tử.
Tuy nhiên, các ngành công nghiệp này chỉ thực sự tham gia được ở một vài khâu có
giá trị gia tăng thấp trong chuỗi giá trị, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên vật
liệu, các sản phẩm trung gian, máy móc thiết bị sản xuất trong khi nguồn lực nhà
nước hỗ trợ các ngành này thông qua ưu đãi về thuế là khá lớn. Nhiều ngành công
nghiệp ưu tiên khác không đạt mục tiêu đã đề ra.
- Công nghiệp hỗ trợ kém phát triển. Hiện nay, công nghiệp hỗ trợ mới đáp
ứng được khoảng 10% nhu cầu trong nước về sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đối với
các sản phẩm chủ yếu là linh kiện và chi tiết đơn giản, có giá trị thấp trong cơ cấu
giá trị sản phẩm. Tỷ lệ nội địa hóa của hầu hết các ngành công nghiệp ở mức thấp.
- Vốn đầu tư vào khu vực công nghiệp đa số tập trung vào các ngành có thời
gian hoàn vốn ngắn như công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và chế biến thực
phẩm, số dự án đầu tư vào công nghệ cao chưa nhiều.
- Liên kết vùng trong phát triển công nghiệp còn hạn chế và kém hiệu
quả. Không gian phát triển công nghiệp hiện nay còn bị chia cắt theo địa giới hành
chính, thiếu sự hợp tác và phân công lao động trong vùng, chưa có sự phân bố hợp
lý trên phạm vi toàn quốc dựa trên lợi thế so sánh. Việc kết hợp và lồng ghép chính
sách phát triển ngành công nghiệp với chính sách phát triển vùng chưa hiệu quả,
chưa xây dựng được mạng lưới các cụm công nghiệp.
39
- Phát triển công nghiệp gắn kết chưa chặt chẽ với các ngành kinh tế khác,
đặc biệt là nông nghiệp.
Ngành công nghiệp phát triển thiếu gắn kết chặt chẽ đã ảnh hưởng đến việc
phát huy tối đa lợi thế của các ngành kinh tế khác, trong đó đặc biệt là nông nghiệp.
Giữa công nghiệp và nông nghiệp là mối liên kết cộng sinh, không thể phát triển
ngành này mà không cần đến sự phát triển của ngành kia, và ngược lại. Đối với
công nghiệp, nông nghiệp là nguồn cung nguyên liệu đầu vào như mía, bông, trà,
gạo, lúa mì cho ngành công nghiệp chế biến. Ngược lại, đối với nông nghiệp,
công nghiệp là ngành cung cấp công cụ lao động, máy móc thiết bị giúp nâng cao
hiệu quả sản xuất như máy kéo, máy cày, máy thu hoạch, máy bơm nước, phân
bón tăng hiệu quả tiếp cận thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp thông qua
các hoạt động xây dựng đường sá, chợ, siêu thị, nhà kho Trong các chính sách
phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn, trọng tâm là việc cơ khí
hóa nông nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản.
2.2. Tăng trưởng doanh nghiệp công nghiệp giai đoạn 2011-2019
2.2.1. Số lượng doanh nghiệp công nghiệp ở Việt Nam giai đoạn 2011-2019
Trong vòng 9 năm, số lượng các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
công nghiệp đã có sự tăng trưởng rất nhanh (từ hơn 57 nghìn doanh nghiệp năm 2011
lên trên 127 nghìn doanh nghiệp vào năm 2019);
40
Bảng 2.1. Số lượng doanh nghiệp ngành công nghiệp giai đoạn 2011-2019
Số doanh nghiệp tất cả các
ngành có đến 31/12
Số doanh nghiệp ngành công
nghiệp có đến 31/12
2011 324691 57105
2012 346777 61166
2013 373213 63486
2014 402326 63486
2015 442485 72702
2016 505059 81067
2017 560417 90486
2018 714755 104047
2019 758610 127340
Nguồn: Dữ liệu điều tra doanh nghiệp hàng năm- Tổng cục thống kê
Tại thời điểm 31/12/2019 cả nước có 127.340 doanh nghiệp ngành công
nghiệp đang hoạt động, chiếm khoảng 16,8% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động
trong cả nước, tăng gấp 2,2 lần so với cùng thời điểm năm 2011. Nhìn chung, giai
đoạn 2011-2019 số lượng doanh nghiệp công nghiệp tăng nhanh và mạnh, trung
bình mỗi năm tăng 10,5%, thấp hơn tốc độ tăng bình quân chung của toàn bộ khu
vực doanh nghiệp đang hoạt động trong cả nước ở giai đoạn này2. Trong đó, tốc độ
tăng bình quân số lượng doanh nghiệp công nghiệp ngoài nhà nước cao nhất với
8,1%/năm, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 6,4%/
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_du_bao_su_phat_trien_cua_doanh_nghiep_nganh_cong_ng.pdf