DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN LIÊN QUAN ĐẾN
NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TRONG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM -
TRUNG QUỐC.6
1.1. Cơ sở lý luận .6
1.2. Cơ sở thực tiễn .14
1.3. Chính sách và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ một số nước Châu Á .26
Tiểu kết chương.29
Chương 2: THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TRONG QUAN
HỆ THƯƠNG MẠI VỚI TRUNG QUỐC .30
2.1. Đánh giá chung tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam.30
2.2. Thực trạng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc.34
2.3. Nguyên nhân Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc.50
2.4. Giải pháp nhằm giảm nhập siêu của Việt Nam trong thương mại với Trung
Quốc đã thực hiện cho đến nay .59
Tiểu kết chương.65
Chương 3: GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM GIẢM NHẬP SIÊU CỦA VIỆT
NAM TRONG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - TRUNG QUỐC .66
3.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế .66
3.2. Định hướng phát triển thương mại của Việt Nam đến 2025.68
3.3. Giải pháp chủ yếu nhằm giảm nhập siêu của Việt Nam trong quan hệ thương
mại với Trung Quốc.70
Tiểu kết chương.79
KẾT LUẬN .80
TÀI LIỆU THAM KHẢO
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 97 trang
97 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 654 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp chủ yếu của Việt Nam nhằm giảm nhập siêu từ Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i mới (1986-2005)”, 
 và 
“Xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam - Hội nhập và phát triển 2005-2015”, 
 và 
“Giá trị xuất nhập khẩu”, 
 Cán cân thương mại Việt - Trung có thể được phân tích thành 2 giai đoạn: 
- Giai đoạn 1991 - 2005 
- Giai đoạn 2006 - nay 
2.2.1.1. Giai đoạn 1991 - 2005 
36 
Nhìn chung, kim ngạch XNK giữa Việt Nam và Trung Quốc trong giai đoạn 
1991 - 2005 liên tục tăng. Cụ thể: kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung 
Quốc đạt 19,3 triệu USD (năm 1991) đã tăng thành 3.246,2 triệu USD (năm 2005), 
tăng gấp 168 lần. Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc cũng tăng 
từ 18,4 triệu USD (năm 1991) lên 5.899,7 triệu USD (năm 2005), tăng 320 lần. 
Tuy nhiên, từ năm 1991 - 2000, cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung 
Quốc ở trạng thái dương, thì bắt đầu từ năm 2000 - 2005, cán cân thương mại bắt 
đầu âm, và có xu hướng ngày càng tăng hay nói cách khác là đây là dấu hiệu cho 
thấy Việt Nam bắt đầu “nhập siêu” từ Trung Quốc. 
Bảng 2.2. Kim ngạch XNK Việt Nam - Trung Quốc 
giai đoạn 1991 - 2005 
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê - Xuất nhập khẩu hàng hóa 
Việt Nam 20 năm đổi mới (1986-2005), 
2.2.1.2. Giai đoạn 2006 - nay 
 Theo số liệu từ Tổng cục thống kê Việt Nam, Trung Quốc luôn là đối tác 
thương mại có kim ngạch nhập khẩu lớn và tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch nhập 
khẩu của Việt Nam trong các năm qua. Quan hệ Việt - Trung tiếp tục phát triển 
37 
mạnh mẽ theo hướng tích cực, nhập siêu tuy còn cao song đã từng bước giảm dần 
cho thấy những chuyển biến theo hướng tích cực. 
Bảng 2.3. Kim ngạch XNK Việt Nam - Trung Quốc 
giai đoạn 2006 - 2017 
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê - Xuất nhập khẩu hàng hóa 
của Việt Nam - Hội nhập và phát triển 2005 - 2015, 
và Giá trị xuất nhập khẩu, 
Kể từ năm 2007 mức nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc cũng tăng nhanh 
và ngày càng lớn. Các năm 2008, 2009, 2010, nhập siêu từ Trung Quốc chiếm gần 
như toàn bộ giá trị nhập siêu của Việt Nam. Các năm từ 2011- nay, nhập siêu từ 
Trung Quốc vẫn rất lớn, ngay cả khi tổng cán cân thương mại của cả nước cân bằng, 
hoặc thậm chí là xuất siêu. 
Kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc trong những năm gần đây của Việt Nam 
tăng từ đó góp phần giảm nhập siêu từ Trung Quốc, cụ thể trong năm 2017 chỉ còn 
22,8 tỷ USD so với năm 2016 là 28,0 tỷ USD và 32,4 tỷ USD năm 2015. Đồng thời, 
38 
tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc trong tổng kim ngạch nhập khẩu cũng 
giảm từ mức 29,9% năm 2015, 28,5% năm 2016 xuống còn 27,6% năm 2017. 
Trên nền tảng quan hệ kinh tế tiến từ “bình thường hóa quan hệ” (năm 1991) 
đến quan hệ “đối tác, hợp tác chiến lược toàn diện” (năm 2008), quan hệ thương 
mại Việt - Trung phát triển nhanh chóng, nhất là từ khoảng từ năm 2000 - nay. 
Đồng thời, vấn đề thâm hụt cán cân thương mại giữa Việt Nam với Trung Quốc 
ngày càng lớn và kéo dài. 
Biểu đồ 2.5. Tỷ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc và nhập khẩu từ 
Trung Quốc của Việt Nam trong tổng kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu 
Nguồn: Số liệu từ Bảng 2.2 và Bảng 2.3 
39 
2.2.2. Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc 
Thực trạng “nhập siêu” của Việt Nam từ Trung Quốc thể hiện rõ rệt nhất trong 
giai đoạn 2006 - nay. Do vậy, luận văn tập trung phân tích tình hình xuất nhập khẩu 
hàng hóa Việt Nam - Trung Quốc giai đoạn 2006 - nay: 
2.2.2.1. Việt Nam xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc 
 Giai đoạn 2006 - nay: 
- Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc 
Bảng 2.4. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc 
giai đoạn 2006 - nay 
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê - Xuất nhập khẩu hàng hóa 
của Việt Nam - Hội nhập và phát triển 2005-2015, 
và Giá trị xuất nhập khẩu, 
Nếu như ở trước đó, phần lớn các nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang 
Trung Quốc là các mặt hàng thô, sơ chế, lao động thủ công chiếm tỷ trọng cao thì 
sang giai đoạn này đã xuất hiện các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu mới như là: các 
40 
mặt hàng thuộc nhóm hàng về điện thoại là linh kiện; linh kiện điện tử và tivi, máy 
tính và linh kiện máy tính; hàng rau, hoa quả; 
Đặc biệt, ngoài những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu truyền thống 
như: dệt may, giày dép, thì nhóm mặt hàng về điện thoại các loại và linh kiện, máy 
vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đang có xu hướng tăng trưởng xuất khẩu cao, 
chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu. Cụ thể: Nếu như trong năm 2006, 
kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng điện thoại và linh kiện chỉ đạt 0,037 triệu 
USD, thì sang năm 2017 đã đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là 7152,5 triệu USD, 
tăng 7152,463 triệu USD, gấp 193,3 lần (chiếm 20,2%). Tiếp đến là nhóm mặt hàng 
linh kiện điện tử và tivi, máy tính và linh kiện máy tính trong năm 2006 chỉ đạt 69,6 
triệu USD thì sang năm 2017 đã đạt 6860,6 triệu USD, tăng 6791,0 triệu USD, gấp 
98,6 lần, chiếm 19,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc. 
- Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu 
Nhìn chung, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Trung 
Quốc đã được mở rộng. Hầu hết những mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Trung 
Quốc là các hàng hóa lao động thủ công qua sơ chế và có giá trị gia tăng thấp như: 
lắp ráp các linh kiện sản phẩm điện tử; các hàng nông, lâm sản; thủy sản; dầu thô và 
hàng thủ công về dệt, may, da, giày. 
Việt Nam cần tích cực thay đổi cơ cấu hàng hóa xuất khẩu nhằm tăng cường, 
mở rộng xuất khẩu hàng hóa sang Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc đang giữ vị 
trí là đối tác thương mại lớn thứ hai (sau Hoa Kỳ) trong hoạt động xuất khẩu của 
Việt Nam. Việt Nam cần tận dụng và phát huy lợi thế địa lý và chuyển dịch cơ cấu 
hàng hóa sang xuất khẩu hàng hóa, sản phẩm chế tạo đã qua chế biến, có hàm lượng 
trí tuệ cao hơn nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. 
2.2.2.2. Việt Nam nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc 
 Giai đoạn 2006 - nay: 
- Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Trung Quốc 
41 
Bảng 2.5. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Trung Quốc 
giai đoạn 2006 - nay 
Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ Tổng cục Thống kê - Xuất nhập khẩu hàng hóa 
của Việt Nam - Hội nhập và phát triển 2005 - 2015, 
và Giá trị xuất nhập khẩu, 
Dựa vào số liệu từ bảng ta thấy, các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam 
từ Trung Quốc tăng mạnh và chiếm tỷ trọng lớn là các nhóm hàng về: máy móc, 
thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác; điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản 
phẩm điện tử và linh kiện; vải các loại; sắt thép các loại, Cụ thể: kim ngạch nhập 
khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng khác đạt 921,5 triệu USD (năm 2006) 
thì đến năm 2017 đã tăng thành 10869,0 triệu USD, tăng 9947,5 triệu USD, gấp 
khoảng 11,8 lần. Tiếp theo là mặt hàng máy móc thiết bị, thông tin liên lạc đạt 
209,6 triệu USD (năm 2006) đã tăng 8539,4 triệu USD thành 8749,0 triệu USD, gấp 
khoảng 41,7 lần. 
42 
Đặc biệt, trong một vài năm trở lại đây, một số mặt hàng thuộc nhóm ngành 
điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện có xu 
hướng tăng và chiếm tỷ trọng cao. 
 Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu 
Hầu hết những nhóm mặt hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc đều là 
những các hàng thành phẩm có giá trị gia tăng cao như: máy móc, thiết bị, dụng cụ 
phụ tùng; điện thoại các loại và linh kiện; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh 
kiện; thậm chí đối với ngành dệt may, da giày là mặt hàng xuất khẩu chủ lực truyền 
thống của Việt Nam vẫn phải nhập khẩu 50- 60% vải các loại và nguyên phụ liệu từ 
Trung Quốc để sản xuất thành phẩm. 
Kim ngạch nhập khẩu từ Trung Quốc trong những năm trước tăng cao bởi Việt 
Nam nhập khẩu tập trung chủ yếu các mặt hàng cần nhập khẩu như: máy móc thiết 
bị; nguyên, nhiên vật liệu phục vụ sản xuất; trong khi Trung Quốc là quốc gia 
láng giềng có chi phí và giá thành phù hợp nên Việt Nam chọn nhập khẩu từ nước 
này. Đến nay, cơ cấu kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam đã dần di chuyển sang các 
thị trường khác như: Hàn Quốc, ASEAN, có hàm lượng công nghệ cao hơn với 
mức thuế nhập khẩu ưu đãi. 
2.2.2.3. Đánh giá chung 
Cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hóa hai chiều trong thương mại Việt - Trung mang 
đậm đặc trưng của mối quan hệ giữa một nước phát triển và kém phát triển. Việt 
Nam vẫn đang trong tình trạng nhập siêu kéo dài nhiều năm với Trung Quốc và thể 
hiện quan hệ “phụ thuộc” nặng nề vào việc nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc. 
Năm 2017, Hàn Quốc soán ngôi Trung Quốc trở thành thị trường nhập siêu dẫn 
đầu, tiếp đến vị trí thứ hai là Trung Quốc. Tuy nhiên, theo Viện nghiên cứu kinh tế 
và chính sách (VEFR), nguyên nhân chính của việc nhập siêu từ Hàn Quốc này là 
do Hàn Quốc dẫn đầu về lượng vốn FDI ở Việt Nam, và các doanh nghiệp FDI này 
chủ yếu nhập khẩu tư liệu sản xuất từ chính quốc. Và các tập đoàn lớn của Hàn 
Quốc tại Việt Nam đã tận dụng lợi thế được hưởng thuế suất ưu đãi 0% từ Hiệp 
định thương mại tự do Việt Nam - Hàn Quốc (VKFTA) có hiệu lực từ năm 2015 để 
43 
tăng cường nhập hàng từ Hàn Quốc. Ngoài việc tận dụng lợi thế từ FTA Việt Nam - 
Hàn Quốc, thì lượng vốn lớn đầu tư từ Hàn Quốc vào Việt Nam cũng lý giải nguyên 
nhân vì sao nhập siêu từ nước này tăng nhanh. Do vậy, việc nhập siêu từ Hàn Quốc 
tăng bởi phần lớn vốn FDI Hàn Quốc đầu tư vào Việt Nam và dùng chính tiền đầu 
tư nhập khẩu máy móc, hàng hóa, máy móc,... từ chính quốc về để phục vụ việc sản 
xuất tại Việt Nam. Vì thế, bản chất nhập siêu của Hàn Quốc khác Trung Quốc. Hàn 
Quốc là nước phát triển, có chất lượng hàng hóa tốt, đặc biệt được Việt Nam nhập 
khẩu chủ yếu qua đường chính ngạch, trong khi nhập khẩu từ thị trường Trung 
Quốc còn gặp nhiều tồn tại trong kiểm soát, quản lý chất lượng hàng nhập khẩu và 
tình trạng gian lận thương mại, buôn lậu ở tuyến biên giới diễn biến phức tạp. Do 
vậy, quan ngại nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc vẫn đang được quan tâm và 
tìm phương án giảm nhập siêu từ thị trường “công xưởng của thế giới” này. 
 Thành tựu: 
Thứ nhất, về cơ bản, chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo đúng những định 
hướng đề ra. Tiếp tục là đối tác tin cậy trên các thị trường xuất khẩu lớn trên thế 
giới nhưng cũng tương đối tiêu chuẩn như: Mỹ, EU, ASEAN. Đồng thời, thị trường 
nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam ngày càng được mở rộng theo hướng đa dạng, và 
đang giảm dần sự phụ thuộc vào một số thị trường. 
Thứ hai, chuyển dịch thị trường nhập siêu, giảm dần sự phụ thuộc vào thị 
trường Trung Quốc trong hoạt động nhập khẩu: Năm 2017, Hàn Quốc là quốc gia 
đầu tiên soán ngôi thị trường nhập siêu sau nhiều năm “nhập siêu từ Trung Quốc” 
của Việt Nam. 
Thứ ba, quy mô nhập khẩu duy trì mức tăng ổn định, xuất siêu trong 3 năm 
liên tiếp. Cán cân thương mại của Việt Nam đều đạt ở mức dương. 
Thứ tư, Việt Nam đã chú trọng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, thông qua 
nhiều chính sách đã được ban hành như: Quyết định số 1483/QĐ-TTg ngày 
26/08/2011 ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển; 
Thông tư số 96/2011/TT-BTC hướng dẫn chính sách tài chính khuyến khích đối 
với các ngành cơ khí chế tạo, điện tử, tin học, sản xuất lắp ráp ô tô, dệt may, da 
44 
giầy và công nghiệp hỗ trợ cho phát triển công nghệ cao; và Thông tư số 
01/2016/TT-NHNN ngày 04/02/2016/TT-BTC ngày 05/02/2016 hướng dẫn về khai 
thuế giá trị và ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ. 
Thứ năm, hoạt động xuất nhập khẩu đã đáp ứng được các nhu cầu tiêu dùng 
hàng hóa của người dân. Đã dần xuất hiện và phát triển các loại hình thương mại 
hiện đại như: siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi,... giúp nâng cao chất 
lượng cuộc sống người dân. 
 Hạn chế 
Thứ nhất, kim ngạch xuất khẩu tăng, nhưng chưa bền vững. Cơ cấu hàng hóa 
nhập khẩu chưa hướng mạnh vào phần cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa do 
thiếu công nghiệp phụ trợ và công nghệ nhập khẩu chủ yếu là công nghệ thứ cấp, 
hoặc đã lạc hậu, hàm lượng công nghệ thấp. 
Thứ hai, cơ cấu thị trường chậm chuyển dịch theo hướng tăng nhập khẩu ở các 
thị trường công nghệ cao và công nghệ nguồn - trong khi EU và Bắc Mỹ là những 
thị trường có công nghệ nguồn thì tỷ trọng nhập khẩu còn quá nhỏ, còn nhập siêu lại 
chủ yếu từ các thị trường Châu Á (Trung Quốc, Hàn Quốc,...). Sự phụ thuộc quá lớn 
của Việt Nam vào thị trường “nhập khẩu truyền thống” như Trung Quốc không chỉ 
gây khó khăn cho đảm bảo tăng trưởng, an ninh kinh tế mà còn cản trở việc nhập 
khẩu công nghệ nguồn, hàng hóa có chất lượng cao. 
Thứ ba, mặc dù thị trường xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đã được mở rộng 
khá đa dạng, nhưng cơ cấu thị trường xuất khẩu còn chậm thay đổi, giá trị gia tăng 
của hàng xuất khẩu còn thấp, năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu còn chậm 
được cải thiện. Thị trường xuất khẩu hàng hóa chủ yếu vẫn là khu vực ASEAN, 
Hoa Kỳ, Trung Quốc,... làm gia tăng sự phụ thuộc về xuất khẩu hàng hóa của Việt 
Nam vào các quốc gia này, đồng thời hoạt động xuất khẩu hàng hóa vẫn còn gặp 
nhiều khó khăn bởi các tiêu chuẩn và rào cản kỹ thuật nên dễ rơi vào tình trạng thụ 
động và tổn thất. 
Thứ tư, quy mô sản xuất và xuất khẩu của các doanh nghiệp còn nhỏ lẻ, không 
tập trung, ỷ lại, trông chờ từ sự hỗ trợ của Nhà nước. Xuất khẩu hàng hóa vẫn phụ 
45 
thuộc chủ yếu vào khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mở rộng xuất 
khẩu đang có nguy cơ dẫn đến cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, gây suy giảm 
đa dạng sinh học và ô nhiễm môi trường. Nhìn chung trình độ phát triển khoa học 
kỹ thuật và trình độ lao động của Việt Nam còn thấp. Do vậy, hầu hết các sản phẩm 
sản xuất và xuất khẩu đều chủ yếu dưới dạng sản phẩm thô, sơ chế hoặc phải nhập 
khẩu nguyên phụ liệu để sản xuất, gia công. 
Thứ năm, ngành công nghiệp hỗ trợ chậm phát triển, trình độ công nghệ còn 
thấp và giá thành cao. Mức độ phụ thuộc của nền kinh tế vào bên ngoài về vật liệu, 
máy móc, thiết bị ngày càng lớn. Do vậy không nâng cao được hiệu quả xuất khẩu 
mà ngược lại làm tăng nhu cầu nhập khẩu. 
 2.2.3. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Trung Quốc vào Việt Nam 
 2.2.3.1. Tốc độ và quy mô 
Bắt đầu từ cuối năm 1991, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam - do một doanh 
nghiệp Quảng Tây (Trung Quốc) liên doanh với một doanh nghiệp Hà Nội, đã mở 
nhà hàng Hoa Long tại phố Hàng Trống - Hà Nội. Kể từ đó, FDI Trung Quốc liên 
tục vươn lên trong vị trí xếp hạng, tăng về quy mô, thay đổi về hình thức, lĩnh vực, 
mở rộng về địa bàn ở Việt Nam. 
Giai đoạn 1991 - 2001, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam chỉ mang tính chất 
thăm dò với số dự án và lượng vốn chiếm rất nhỏ so với tổng FDI vào Việt Nam. 
Trung Quốc có 110 dự án với tổng số vốn đăng ký theo giấy phép là 221 triệu USD 
(năm 2001). Tốc độ đầu tư chậm, vốn đầu tư trung bình của một dự án khiêm tốn, 
vào khoảng 1,5 triệu USD. Các dự án đầu tư của Trung Quốc trong giai đoạn này 
hầu như đều có quy mô nhỏ, đáp ứng những yêu cầu cơ bản. 
Giai đoạn 2001 - 2010, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tăng cả về số lượng 
dự án cũng như quy mô vốn, có nhiều dự án từ 1 - 10 triệu USD đã xuất hiện. Năm 
2007, FDI của Trung Quốc vào Việt Nam tăng khá mạnh, đã có nhiều dự án 10-100 
triệu USD, nâng vốn bình quân của một dự án lên 4,3 triệu USD/dự án. 
Thời gian 2011- nay, FDI Trung Quốc tăng đáng kể với nhiều dự án đầu tư lớn. 
Điển hình là từ năm 2013 trở lại đây, nếu như trong năm 2012 lượng vốn FDI Trung 
46 
Quốc vào Việt Nam giảm mạnh xuống mức 312 triệu USD thì năm 2013 lượng vốn 
đã tăng đột biến lên tới trên 2,3 tỷ USD với 110 dự án được cấp mới [67]. Đáng lưu 
ý là trong năm 2016, vốn đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam đạt mức 1,26 tỷ 
USD, chiếm 8,3% tổng vốn FDI vào Việt Nam, đến năm 2017, FDI Trung Quốc 
vươn lên đứng thứ 4 trong tổng số các quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt 
Nam với 284 dự án đầu tư mới, tổng vốn đầu tư lên tới 1,41 tỷ USD [38]. Theo đó, 
quy mô các dự án đầu tư của Trung Quốc cũng không ngừng mở rộng. Cụ thể, từ 
mức trung bình 1,5 triệu USD/ dự án vào năm 2007, các dự án của Trung Quốc 
đang tăng hơn 3 lần về quy mô, lên mức trung bình 5 triệu USD/dự án vào năm 
2017. 
Lý giải hoạt động tăng đột biến FDI Trung Quốc vào Việt Nam bắt đầu từ năm 
2013 là do: Các nhà đầu tư Trung Quốc đã bộc lộ động thái đón lõng để hưởng lợi 
ưu đãi từ Hiệp định TPP (nay là CPTPP) mà Việt Nam đã đẩy mạnh đàm phán để 
thông qua, và cũng là thời điểm Việt Nam có khả năng kết thúc đàm phán về Hiệp 
định mậu dịch tự do với EU (EVFTA) được miễn thuế khi có hiệu lực. Bên cạnh đó, 
có thể tận dụng ưu đãi thuế suất khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ hay Châu Âu 
vì Việt Nam đã ký rất nhiều Hiệp định thương mại tự do với các khu vực này. 
Biểu đồ 2.6. Số lượng dự án và vốn đăng ký mới từ Trung Quốc 
vào Việt Nam giai đoạn 2007 - 2017 
Nguồn: Thời báo kinh tế Sài gòn [44]. 
47 
Với một quốc gia đang phát triển và cần vốn đầu tư như Việt Nam, đón nhận 
thêm làn sóng đầu tư từ bên ngoài vào là cần thiết. Nhưng đối với dòng vốn đầu tư 
từ Trung Quốc tăng nhanh và mạnh vào Việt Nam trong thời gian qua cũng gây nên 
sự quan ngại nhất định, nhất là trong bối cảnh Trung Quốc đang thực hiện chiến 
lược “Made in China 2025” nhằm thay thế công nghiệp giá rẻ, tiêu hao nhiều năng 
lượng , gây ô nhiễm môi trường bằng sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao. Thực 
tiễn cho thấy, Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều dự án khai thác tài nguyên thiên nhiên 
trải dài suốt từ Bắc vào Nam của Việt Nam. Mặt khác, phần lớn FDI Trung Quốc là 
công nghệ lạc hậu, yếu kém trong chuyển giao công nghệ, và thuộc các ngành gây ô 
nhiễm môi trường,... Do vậy, quá trình chọn lọc và phê duyệt các dự án đầu tư cần 
phải được thực hiện chặt chẽ để đảm bảo các công nghệ lạc hậu hoặc đang trong 
quá trình thải loại của Trung Quốc có cơ hội chuyển sang Việt Nam. 
2.2.3.2 Cơ cấu FDI của Trung Quốc vào Việt Nam 
 Cơ cấu FDI theo lĩnh vực đầu tư 
Bài viết “Doanh nghiệp Trung Quốc tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Việt Nam” của 
tác giả Mai Ca được đăng trên báo Công thương cho hay: “Bà Nguyễn Thị Huyền 
Ngọc, Trung tâm Xúc tiến đầu tư phía Nam, Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cho biết, tính 
đến 20/11/2017, Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 1.727 dự án với tổng vốn 
đăng ký gần 12 tỷ USD, đứng thứ 8 trong 122 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào 
Việt Nam. Các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư nhiều vào chế biến, chế tạo 
(khoảng 7,6 tỷ USD), kế đến là điện - khí và một số lĩnh vực khác”. 
 Một số dự án tiêu biểu như: Nhà máy sản xuất Polyester và sợi tổng hợp 
Billion Việt Nam có vốn đầu tư 220 triệu USD đầu tư tại Tây Ninh. Dự án đầu tư hạ 
tầng cụm công nghiệp Lan Sơn và Nhà máy nhựa Khải Hồng Việt có vốn đầu tư 
150 triệu USD do công ty Wenzhou Hendy Mechanism and Plastics Co., Ltd (Trung 
Quốc) đầu tư tại Bắc Giang. 
Việt Nam và Trung Quốc đã hợp tác đầu tư trong nhiều dự án lớn trong các lĩnh 
vực xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông vận tải, năng lượng như: dự án thông tin tín 
hiệu đường sắt các tuyến: Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào Cai, Hà Nội - Đồng 
48 
Đăng; các dự án cải tạo nâng cấp nhà máy gang thép Thái Nguyên; dự án xây dựng 
nhà máy khai thác và luyện đồng tại Sinh Quyền, hợp đồng EPC xây dựng nhà máy 
Alumin thuộc dự án tổ hợp Bauxit - nhôm Lâm Đồng,... 
 Cơ cấu FDI theo hình thức đầu tư 
Nếu như trước đây phần lớn các dự án FDI Trung Quốc tại Việt Nam là liên 
doanh với các doanh nghiệp Việt Nam, thì hiện nay các dự án đầu tư của Trung 
Quốc đều được thực hiện chủ yếu theo hình thức đầu tư trực tiếp (100% vốn nước 
ngoài) và theo các hình thức hợp đồng BOT, BT, BTO,... Còn lại là đầu tư theo hình 
thức liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, công ty cổ phần. Một số dự án tiêu 
biểu như: Dự án xây dựng Nhà máy Nhiệt điện đốt than BOT Vĩnh Tân , với vốn 
đầu tư 2 tỷ USD (trong đó nhà đầu tư Trung Quốc nắm giữ 95% vốn) tại Bình 
Thuận. Trong dự án này, các nhà đầu tư Trung Quốc liên danh với Công ty Trung 
Quốc là Công ty TNHH Lưới điện Phương Nam và Công ty TNHH Điện lực quốc 
tế Trung Quốc cùng Tổng công ty Điện lực Vinacomin khởi công xây dựng; Dự án 
BOT Nhiệt điện Hải Dương (vốn đầu tư 1,85 tỷ USD), Tập đoàn Điện lực Trung 
Quốc nắm giữ 50% vốn,... Bên cạnh đó, cũng có khá nhiều dự án quy mô lớn khác 
của các nhà đầu tư Trung Quốc như: Dự án Lốp xe Việt Luân (tổng vốn đầu tư 400 
triệu USD tại khu công nghiệp Tây Ninh), Dự án Chế biến cao su Tân Cao Thâm tại 
Lào Cai (vốn đầu tư 337,5 triệu USD), Dự án Khoáng sản và Luyện kim Việt - 
Trung tại Lào Cai (vốn đầu tư 337,5 triệu USD), 
Sự thay đổi hình thức đầu tư từ liên doanh cho đến đầu tư toàn phần cho thấy: 
Các doanh nghiệp Trung Quốc đã từ quá trình thử nghiệm, thăm dò và thấy kết quả 
tốt nên đã chuyển hẳn sang quá trình tự độc lập kinh doanh tại thị trường Việt Nam. 
 Cơ cấu FDI theo địa bàn đầu tư 
Đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam đã hiện diện tại 54 tỉnh, thành 
của Việt Nam. Trong đó, tập trung chủ yếu tại các thành phố đông dân, có cơ sở hạ 
tầng tốt và thuận lợi cho hoạt động giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc. Cục 
Đầu tư nước ngoài cho biết tính đến ngày 20/03/2017, tỉnh đứng đầu thu hút FDI 
Trung Quốc là Bình Thuận, chỉ với 7 dự án nhưng tổng vốn đầu tư đăng ký lên tới 
49 
2,03 tỷ USD (chiếm 18,1% tổng vốn đầu tư đăng ký của Trung Quốc tại Việt Nam). 
Đứng thứ hai là tỉnh Tây Ninh có 46 dự án với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 1,65 tỷ 
USD (chiếm 14,8% tổng vốn đầu tư đăng ký của Trung Quốc tại Việt Nam). Tiếp 
theo là Bắc Giang với 61 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 957,56 triệu USD (chiếm hơn 
8,5% tổng vốn đầu tư đăng ký của Trung Quốc tại Việt Nam). 
Các doanh nghiệp FDI Trung Quốc hiện tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Nam 
của Việt Nam có điều kiện thuận lợi như: Bình Thuận, Bình Dương,... và một số 
tỉnh gần biên giới Việt -Trung, có nhiều người Hoa sinh sống như: Lào Cai, Lạng 
Sơn, Cao Bằng,... Tuy nhiên, đối với các dự án đầu tư này thì chủ yếu tập trung vào 
khai thác khoáng sản, nguyên vật liệu lợi thế của địa phương. 
2.2.3.3. Đánh giá chung 
 Tác động tích cực chủ yếu đối với cán cân thương mại 
Một là, luồng vốn FDI Trung Quốc góp phần bổ sung nguồn vốn trong nước, 
củng cố cán cân thanh toán và tạo điều kiện bù đắp cán cân thương mại. 
Hai là, doanh nghiệp FDI Trung Quốc đóng góp vào sự chuyển dịch cơ cấu 
hàng hóa xuất nhập khẩu từ hàng hóa nông nghiệp, sản phẩm thô dần nhường chỗ 
cho sự tăng tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp chế biến và chế tạo. 
Ba là, FDI Trung Quốc góp phần cải thiện năng suất của khu vực sản xuất, 
phong phú thêm nguồn hàng xuất nhập khẩu, tạo ra giá trị hàng hóa xuất khẩu lớn 
hơn cho Việt Nam, từ đó hỗ trợ cho cán cân thương mại. 
 Tác động tiêu cực chủ yếu đối với cán cân thương mại 
Một là, nhập siêu từ Trung Quốc kéo dài. Do cơ cấu xuất nhập khẩu mất cân đối 
và chưa có biện pháp cải thiện trong nhiều năm qua, nên Trung Quốc vẫn là thị 
trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. 
Hai là, doanh nghiệp FDI Trung Quốc nhập khẩu nhiều hàng hóa từ chính quốc 
về Việt Nam dẫn đến tình trạng mất cân đối trong cán cân thương mại. 
Ba là, độ lan toả về công nghệ và kỹ năng từ khu vực doanh nghiệp FDI Trung 
Quốc thấp, hầu hết các công nghệ chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng phổ thông 
50 
nhằm mục đích lợi nhuận, dẫn đến việc tăng nhập siêu do cơ chế “gia công” còn 
lớn, tỷ lệ “nội địa hóa” còn thấp. 
2.3. Nguyên nhân Việt Nam nhập siêu từ Trung Quốc 
2.3.1. Nguyên nhân nhập siêu chung 
2.3.1.1. Về phía Nhà nước 
Thứ nhất, để đạt được mục tiêu: “Đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành 
nước công nghiệp theo hướng hiện đại” và trong Đại hội X của Đảng (năm 2006), 
một lần nữa xác định: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh 
tế tri thức tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại vào năm 2020”. Trong khi nền kinh tế trong nước còn đang trong 
quá trình phục hồi và phát triển, điều kiện cơ sở hạ tầng còn chưa có hoặc đã lạc 
hậu, thì việc đầu tư nhập khẩu các máy móc, thiết bị công nghệ; nguyên, nhiên vật 
liệu sẽ giúp cho Việt Nam thực hiện nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
Thứ hai, một trong những nguyên nhân dẫn đến nhập siêu đó là chính sách tỷ 
giá - một yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến cán cân thương mại. Tuy nhiên trên thực tế, 
việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái của Việt Nam ít có ảnh hưởng đến cán cân thương 
mại. Bởi nguyên nhân chủ yếu là do tỷ trọng hàng hóa xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn 
của nước ta là sản phẩm thô, sơ chế (như: dầu thô, gạo, cà phê, chè, thủy sản,) ít 
thay đổi về giá, trong khi sản phẩm của các ngành công nghiệp chế biến thường 
biến động trước sự thay đổi của tỷ giá. Do đó, cơ chế tỷ giá ở Việt Nam cơ bản là cố 
định nên trong hầu hết các năm trước đó, tốc độ nhập siêu ngày càng tăng mạnh. 
Thứ ba, quản lý, kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu chưa chặt chẽ, hiệu quả. 
Chưa xây dựng, hoàn thiện được các rào cản thương mại, cơ chế, chính sách xuất 
nhập khẩu theo cơ chế thị trường, theo thông lệ quốc tế, phù hợp với các cam kết 
song phương và đa phương củ
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_giai_phap_chu_yeu_cua_viet_nam_nham_giam_nhap_sieu.pdf luan_van_giai_phap_chu_yeu_cua_viet_nam_nham_giam_nhap_sieu.pdf