Mục lục
Tiêu đề .số trang
• Lý do chọn đề tài .1
• Mục tiêu của đề tài 1
• Phương pháp nghiên cứu 1
• Phạm vi nghiên cứu 2
• Kết cấu của đề tài 2
CHƯƠNG 1: Tổng quan về thị trường chứng khoán . .2
1.1. Lý luận về thị trường chứng khoán 2
1.1.1. Khái niệm TTCK 2
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển 2
1.1.3. Phân loại TTCK 4
1.2 Chức năng của TTCK . 5
1.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế . 5
1.2.2 Khuyến khích tiết kiệm và đầu tư 5
1.2.3 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng 5
1.2.4 Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô
. . 6
1.2.5 Cung cấp khả năng thanh toán cho các chứng khoán 6
1.2.6 Đánh giá giá trị doanh nghiệp .6
1.3 Sở giao dịch chứng khoán . . .6
1.3.1 Khái niệm . . 6
1.3.2 Hình thức sở hữu . 6
1.3.3 Chức năng của SGDCK . 7
1.4 Hàng hóa của thị trường chứng khoán .7
1.4.1 Cổ phiếu . .7
1.4.1.1 Khái niệm . .7
1.4.1.2 Đặc điểm của cổ phiếu .7
1.4.1.3 Phân loại cổ phiếu . .8
1.4.2 Trái phiếu . .8
1.4.2.1 Khái niệm . 8
1.4.2.2 Đặc điểm của trái phiếu . 8
1.4.2.3 Phân loại trái phiếu . .9
1.4.3 Các chứng khoán phái sinh .10
1.5 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán . .12
1.5.1 Nhà phát hành . 12
1.5.2 Nhà đầu tư . .12
1.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán . .12
1.5.4 Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoá n . 12
1.6. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK . 13
1.6.1 Nguyên tắc hoạt động . .13
1.6.2 Điều kiện cho sự hình thành TTCK. .13
1.7 Một số định chế tài chính trung gian . . 15
1.7.1 Chức năng 15
1.7.2 Các định chế tài chính trung gian 15
1.8 Mô hình TTCK Việt Nam . 16
1.8.1 Cơ quan quản lý TTCK Việt Nam . .16
1.8.2 Về sở giao dịch chứng khoán . 16
1.8.3 Cách thức và các loại lệnh được sử dụng trong giao dịch. 16
1.8.4 Một số kiến thức khác về TTCK . 18
CHƯƠNG 2: Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam. . 22
2.1 Đôi nét về kinh tế thế giới những tháng đầu năm 2010 . . 22
2.1.1 Nền kinh tế của một số khu vực kinh tế chủ chốt thế giới 23
2.2 Đôi nét về nền kinh tế Việt Nam 24
2.3 Toàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam 8 tháng đầu năm 2010 28
2.3.1 Diễn biến của các nhóm ngành .33
2.3.2 Quy mô giao dịch .35
2.3.3 Thị trường trái phiếu .37
2.3.4 Thị trường cổ phiếu .38
2.3.4.1 Thị trường cổ phiếu chưa niêm yết 38
2.3.4.2 Cổ phiếu đã niêm yết .39
2.3.5 Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam 39
2.3.5.1 Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán .39
2.3.5.2 Về sở giao dịch chứng khoán .39
2.3.5.3 Về lĩnh vực đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán 40
2.3.5.4 Về các tổ chức trung gian 40
2.3.5.5 Về sự tham gia của bên nước ngoài 40
2.3.5.6 Hệ thống thông tin của TTCK 41
2.3.5.7 Hệ thống thanh tra giám sát 41
2.4 Tác động tích cực của thị trường chứng khoán. . 43
2.5 Những mặt hạn chế của thị trường chứng khoán ở Việt Nam . 44
2.6 Dự đoán về thị trường trong năm 2010 . 48
CHƯƠNG 3 các kiến nghị thúc đẩy phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam 50
3.1 Mục tiêu chiến lược của việc hình thành và phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam .50
3.1.1 Một số quan điểm định hướng .50
3.1.2 Hoạch định mục tiêu dài hạn phát triển thị trường . . .52
3.2. Các kiến nghị phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam . 53
3.2.1 Hoàn thiện khung pháp lý 53
3.2.2 Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia thị trường chứng khoán 54
3.2.3 Tăng nguồn cung chứng khoán 55
3.2.4 Chính sách kích cầu chứng khoán 56
3.2.5 Minh bạch, công khai hoá thông tin . 58
3.2.6 Xây dựng một lãi suất chuẩn hợp lý và ổn định . 60
3.2.7 Các chính sách hỗ trợ khác 60
KẾT LUẬN . 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO 63
63 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 3575 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chế tài chính Mỹ và thế giới rơi vào tình trạng thua lỗ nặng, mất tính thanh khoản, đối diện với nguy cơ phá sản cao, kể từ tháng 8-2007 cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới bắt đầu đến tận cuối năm 2009 thì nền kinh tế thế giới mới có những dấu hiệu phục hồi.
Trong bối cảnh đó Việt Nam vẫn nỗ lực tiếp tục đà tăng trưởng đã đạt được từ những năm trước đó. Khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến những biến động lớn về thị trường, tỷ giá, đầu tư và thương mại. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu ngày càng làm cho thời tiết trở nên bất lợi hơn cho nông nghiệp, thiên tai xuất hiện với tần số cao hơn, sức tàn phá mạnh hơn, chi phí cho canh tác nông nghiệp tăng lên.
Tổng kết tình hình kinh tế trong năm 2009 kinh tế nước ta đạt được những thành tựu: tăng trưởng GDP 5.2%, trên mức trung bình khu vực song là mức thấp nhất từ một thập kỷ. Lạm phát được kiểm soát duy trì ở mức dưới hai con số.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn những điểm cần chú ý: bội chi ngân sách tăng lên cả về con số tuyệt đối lẫn theo tỷ lệ GDP, nợ chính phủ và nợ nước ngoài tăng lên, nhập siêu và cán cân thanh toán tài khoản vãng lai bị thâm hụt, gây sức ép lên tỷ giá đồng tiền Việt Nam.
Trong quí I năm 2010 nền kinh tế nước ta vẫn tiếp tục đà phục hồi của những quý cuối năm 2009 với tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đạt 5.83%, gấp gần 1.9 lần tốc độ tăng trong quý I/2009. Đáng chú ý là sự phục hồi diễn ra ở hầu hết các ngành, các lĩnh vực kinh tế then chốt: Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 5.8%; giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13.6%, thị trường trong nước tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao,…
Sáu tháng đầu năm 2010 kinh tế Việt Nam có những tín hiệu tích cực Theo Cục Ðầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Ðầu tư), sáu tháng đầu năm 2010, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 8.43 tỷ USD, bằng 80.9% so với cùng kỳ năm 2009. Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào nước ta 7 tháng đầu năm 2010 là trên 70 tỷ mức khá cao trong bối cảnh chịu tác động bởi cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu.
Biểu đồ so sánh đầu tư nước ngoài FDI 7 tháng đầu năm 2009-và 7 tháng đầu năm 2010
TT
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
7 tháng năm 2009
7 tháng năm 2010
So cùng kỳ
1
Vốn thực hiện
triệu USD
6,300
6,400
101.6%
2
Vốn đăng ký
triệu USD
13,375
9,128
68.2%
2.1.
Cấp mới
triệu USD
7,979
8,413
105.4%
2.2.
Tăng thêm
triệu USD
5,396
715
13.3%
3
Số dự án
3.1.
Cấp mới
dự án
635
533
83.9%
3.2.
Tăng vốn
lượt dự án
241
137
56.8%
4
Xuất khẩu
4.1.
Kể cả dầu thô
triệu USD
16,314
20,674
126.7%
4.2.
Không kể dầu thô
triệu USD
12,611
17,670
140.1%
5
Nhập khẩu
triệu USD
13,292
19,453
146.4%
Nguồn: www.vneconomy.vn
Tuy nhiên nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn: Chất lượng, hiệu quả tăng trưởng hạn chế, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn khiêm tốn. Một số nhân tố kinh tế vĩ mô chưa được cải thiện đáng kể, nhất là cân đối xuất nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ, cân đối thu chi ngân sách Nhà nước, cân đối vốn đầu tư phát triển, chỉ số giá tiêu dùng tuy đã giảm nhưng vẫn còn ở mức cao.
Những khó khăn, thách thức đó đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế của nước ta. Vì vậy, nếu không tích cực tìm các giải pháp khắc phục có hiệu quả thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong năm 2010 như: sản xuất nông nghiệp đang gặp khó khăn do hạn hán, nắng nóng trong suốt tháng 6/7 vừa qua, ngay sau đó chúng ta phải đối đầu với 2 cơn bão mạnh nhất là bão số 1 conson, giá cả thế giới tăng và đặc biệt là giá dầu tiếp tục gây áp lực lớn đến lạm phát lần đầu tiên trong nhiều tháng qua giá dầu thô thế giới đạt mức 82 USD/thùng. Xuất khẩu giảm sút, trong khi nhập khẩu tăng làm cho nhập siêu bị đẩy mạnh trong tháng 1/2010 thâm hụt giữa xuất khẩu và nhập khẩu là 58,5 triệu USD, ảnh hưởng đến cân đối ngoại tệ và dự trữ ngọai hối giảm sút.
Việc huy động vốn cho đầu tư và sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, nhất là vốn tín dụng với lãi xuất có xu hướng tăng. Hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp, trong khi đó áp lực cạnh tranh của nước ngoài trên thị trường quốc tế và cả ở thị trường trong nước ngày càng gay gắt hơn bao giờ hết.
Bên cạnh đó Việt Nam đang bước vào giai đoạn dân số vàng với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm 66,2 % điều này có nghĩa là 2 người lao động mới phải nuôi thêm một người phụ thuộc nếu tận dụng tốt giai đoạn này thì Việt Nam có thể tạo được một bước tiến dài về kinh tế.
Biểu đồ dân số Việt Nam
Dưới đây là biểu đồ so sánh tình hình lạm phát và GDP của Việt Nam so với các nước trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc.
Qua biểu đồ trên ta thấy rằng tình hình lạm phát ở nước ta vào quí I và quí II của năm 2010 ở mức trung bình chấp nhận được tuy mức lạm phát có cao hơn trong năm 2009 và cao hơn các nước trong khu vực nhưng nếu đặt vào hoàn cảnh kinh tế của nước ta hiện nay thì điều đó hoàn toàn có thể kiểm soát được và sẽ không gây nhiều trở ngại lớn cho nền kinh tế nước ta. Hơn thế nữa với quyết tâm của chính phủ Việt Nam trong việc kiềm chế lạm phát thì tôi hoàn toàn tin tưởng vào việc lạm phát sẽ được duy trì một cách hợp lý.
2.3 Toàn cảnh thị trường chứng khoán Việt Nam 8 tháng đầu năm 2010.
Qua 8 tháng đầu năm 2010, TTCK đã có những biến động nhưng chỉ số VN-Index nhìn chung không có những biến động lớn mà chỉ dao động quanh mức 500 điểm. Nguyên nhân của những biến động đó là do những chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của chính phủ. Chính sách thắt chặt tín dụng được áp dụng trong những tháng cuối năm 2009 đã khiến dòng tiền cho nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng bị hạn chế, điều đó khiến VN-Index điều chỉnh giảm mạnh vào cuối năm 2009.
Tới những tháng đầu năm 2010, chính sách vĩ mô đã dần được nới lỏng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế khi nỗi lo lạm phát đã dần lắng xuống. Chính điều này đã tạo nên đợt hồi phục khá ấn tượng của VN-Index từ mức 471 điểm lên mức 550 điểm trong giai đoạn từ cuối tháng 01/2010 tới đầu tháng 05/2010.
Và cho đến nay đã xuất hiện thêm nhiều dấu hiệu phục hồi kinh tế, hỗ trợ tích cực cho TTCK và kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước khá khả quan nhưng do tác động tiêu cực từ cuộc khủng hoảng nợ của Hy Lạp và một số quốc gia Châu Âu, xu thế tăng điểm của thị trường trong nước đã bị gián đoạn VN-Index rơi xuống dưới 500 điểm vào cuối tháng 5 nhưng ngay sau đó VN-Index đã dần hồi phục trở lại trong tháng 6,7 cuối cùng đến tháng 8 thị trường đã có những điều chỉnh và giảm nhẹ.
Biểu đồ HOSE-index năm 2009.
(nguồn
Qua biểu trên ta thấy chỉ số HOSE-index liên tục tăng điểm từ tháng 20/2/2009 đến tận tháng 10/2009 trước khi giảm điểm vào những tháng cuối năm 2009 nguyên nhân của sự điều chỉnh này như tôi đã trình bày ở trên là do sự thay đổi về chính sách tiền tệ cuả chính phủ.
Biểu đồ VN-index những 8 tháng đầu năm 2010.
Qua đến những tháng đầu năm 2010 VN-Index tiếp tục đà giảm điểm của những tháng cuối năm 2009. Đến tháng 2/2010 VN-Index đã bắt đầu có những dấu hiệu tích cực thị trường đã bắt đầu tăng điểm trở lại và xu thế đó kéo dài đến tận tháng 5/2010 có được điều đó là do chính sách nới lỏng tiền tệ của chính phủ cùng với việc giảm lãi suất vào tháng 3/2010.
Trong tháng 5 lãi suất ngân hàng giảm nhưng chỉ số VN-Index lại điều chỉnh giảm do những tác động của nền kinh tế thế giới và thị trường cũng cần có thời gian để tích lũy trước khi có những bước tăng trưởng mới.
Biểu đồ HNX-index năm 2009.
(nguồn
Biểu đồ HNX-index 8 tháng đầu năm 2010.
Qua quan sát các biểu đồ ta có thể dễ dàng nhận thấy rằng trong những tháng gần đây cả chỉ số VN-Index và HNX-Index đều có xu hướng giảm xuống sau một thời gian dài không có những biến động lớn VN-Index thường xuyên giao động quanh mức 500 điểm còn đối với HNX-index là 160 điểm.
Nền kinh tế nước ta vẫn đang trên đà hồi phục với những dấu hiệu khởi sắc rõ ràng hơn nhưng cả hai chỉ số chứng khoán đều giảm theo tôi đó chỉ là những điều chỉnh mang tính chất kỹ thuật, nếu so sánh với năm 2009 ta thấy rằng đến tháng 7/8 thị trường bắt đầu tăng trưởng mạnh cho tới tận tháng 10 nhưng trước đó vào những tháng đầu năm cả hai chỉ số cũng đã có một thời gian điều chỉnh giảm. Vì vậy, theo tôi sau đợt điều chỉnh này sẽ tạo lực cho thị trường tăng trưởng vào những tháng cuối năm. Một trong những nguyên nhân dẫn đến đợt điều chỉnh giảm trên là sự tăng giá của vàng, các nhà đầu tư thay vì đầu tư vào TTCK thì họ sẽ đầu tư vào thị trường vàng, nhưng đến một thời điểm nào đó khi giá vàng hạ nhiệt thì TTCK sẽ só những phiên tăng trưởng trở lại.
Biểu đồ giá vàng thế giới
(Nguồn www.kitco.com)
Qua biểu đồ trên ta thấy giá vàng thế giới trong những tháng đầu năm 2010 đã tăng một cách nhanh chóng từ 1075 lên đến 1250 trong suốt từ tháng 2/2010 đến tháng 28/6/2010 mới hạ nhiệt. Nhưng đến những ngày cuối tháng 7 và đầu tháng 8 giá vàng có xu hướng tăng trở lại điều này cũng làm cho giá vàng trong nước có những biến động nhất định, giá vàng trong nước tăng lên 28 triệu VND/chỉ.
Trong những tháng đầu năm vừa qua lãi suất đã có những dấu hiệu hạ nhiệt một cách rõ ràng, trong buổi làm việc với các Giám đốc ngân hàng Nhà nước và Tổng thư ký Hiệp hội các ngân hàng Việt Nam ngày 27/4 vừa qua dưới sự chủ trì của ông Nguyễn Văn Giàu thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam các bên đã đật được thỏa thuận sẽ giảm lãi suất cho vay từ 0.5-1 % năm bắt đầu thực hiện vào ngày 1/5.
Biểu đồ lãi suất từ 7/2009- 7/2010
(Nguồn www.vnexpress.net)
Trong mối quan hệ giữa lãi suất và TTCK, khi lãi suất bước vào thời kỳ tăng cao nhất thì cũng đồng nghĩa TTCK bước vào một thời kỳ tăng trưởng. Với việc lãi suất tăng cao nhất vào tháng 3/2010 là 1,96% và bắt đầu giảm như trên có thể sẽ gây ra một đợt điều chỉnh giảm của chứng khoán. Khi lãi suất đạt mức cao nhất có nghĩa là lạm phát đã được đẩy lùi, sau đó lãi suất sẽ giảm tính thanh khoản, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn chứng khoán cũng sẽ tăng trưởng như vậy lãi suất và chứng khoán có mối quan hệ tỷ lệ nghịch.
Biểu đồ mối quan hệ giữa lãi suất và TTCK
(Nguồn www.cafef.com)
Qua biểu đồ trên ta thấy rằng khi lãi suất tăng lên thì VN-index lại giảm điểm. Rõ ràng là giữa lãi suất và VN-index có mối quan hệ tỷ lệ nghịch, hi vọng với đợt giảm lãi suất của các ngân hàng và các công ty chứng khoán sẽ tạo một lực đẩy giúp VN-index tăng trưởng mạnh.
Lãi suất thị trường cũng là một nhân tố quan trọng gây ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đặc biệt là lãi suất cho vay để đầu tư chứng khoán vì vậy, nhiều công ty chứng khoán đã giảm lãi xuất cho vay đầu tư chứng khoán nhằm kích thích nhà đầu tư lướt sóng. Công ty chứng khoán Rồng Việt giảm phí tài trợ cho đầu tư chứng khoán từ 0,05 %/ngày xuống còn 0.04% ngày, công ty HSC từ 18% năm xuống 16%/năm. Các công ty chứng khoán cho biết thời gian qua có rất ít nhà đầu tư vay để mua chứng khoán trong xu hướng giảm nên nhà đầu tư ngại lướt sóng. Nếu thị trường tốt, thanh khoản cao thì lãi vay trên 0,05%/ngày cũng không là vấn đề, còn như hiện nay nhà đầu tư có tiền nhàn rỗi cũng hạn chế đầu tư (báo tuổi trẻ ngày 12/08/2010).
Hi vọng với việc giảm lãi suất cho vay này của các công ty chứng khoán sẽ thu hút được nhiều nhà đầu tư. Bên cạnh đó, việc các ngân hàng thương mại lớn giảm lãi suất cho vay trong các tháng gần đây cũng là một tín hiệu tích cực. Ngân hàng MB tháng 5/2010 đã hạ lãi xuất cho vay ngắn hạn bằng VND thấp nhất đã là 12,8%/năm đối với các doanh nghiệp tốt theo đánh giá của hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là 13,5%/năm, cũng như với các doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp có quan hệ truyền thống với ngân hàng.
Bắt đầu từ tháng 7/2010 ngân hàng tiếp tục thực hiện hạ lãi suất cho vay xuống 12,5%/ năm đối với các khoản vay ngắn hạn, áp dụng cho các đối tượng khách hàng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp - nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp truyền thống tốt. Các khoản vay trung dài hạn cũng sẽ giảm dần.
2.3.1 Diễn biến của các nhóm ngành.
Sau 5 tháng đầu năm 2010, VN-Index đã có những dấu hiệu khởi sắc trở lại với mức tăng 2,56% so với thời điểm 31/12/2009. Nhìn chung tất cả các nhóm ngành đều có sự gia tăng nhưng mức tăng còn hạn chế, cũng có những nhóm ngành đã tăng mạnh trong giai đoạn này, tiêu biểu như giá cổ phiếu ngành bảo hiểm có mức tăng trưởng gần 30% tiếp theo sau là nhóm xây dựng và vật liệu xây dựng. Tuy nhiên, nếu ta xem xét kỹ những nhóm ngành này thì ta thấy đã có sự dịch chuyển doanh thu từ hoạt động xây lắp, cung cấp vật liệu xây dựng sang lĩnh vực bất động sản. Ngược lại với các ngành trên thì ngành Ngân hàng, Chứng khoán và các công ty cung cấp dịch vụ khai thác, dẫn truyền dầu khí lại tiếp tục giảm xuống những mức giá thấp hơn.
Biểu đồ so sánh giữa ngành tài chính chứng khoán và VN-index trong năm 2009 (Đường màu xanh là đường chỉ số nghành còn đường màu cam là đường chỉ số VN- index)
(Nguồn công ty chứng khoán Âu Việt)
Biểu đồ so sánh giữa ngành bất động sản và VN-index trong năm 2009 (Đường màu xanh là đường chỉ số nghành còn đường màu cam là đường chỉ số VN- index)
(Nguồn công ty chứng khoán Âu Việt)
Qua 2 biểu đồ trên ta thấy rằng đường chỉ số các ngành bất động sản và nghành tài chính chứng khoán đều nằm trên đường VN-index và có những biến động gần giống với đường chỉ số VN-index điều này chứng tỏ rằng giữa TTCK và các nghành nghề kinh doanh khác nhau đều có những mối quan hệ tác động qua lại với nhau.
Giai đoạn từ cuối tháng 1/2010 tới đầu tháng 3/2010, do chính sách nới lỏng tín dụng của chính phủ đã có một lượng vốn lớn chảy mạnh vào các cổ phiếu có vốn hóa lớn và trong giai đoạn từ cuối tháng 3/2010 tới đầu tháng 5/2010, nhóm cổ phiếu có vốn hóa nhỏ lại thu hút rất mạnh nhà đầu tư tham gia. Với chính sách nới lỏng tín dụng của chính phủ các dịch vụ tài chính đã được mở rộng điều đó đã mang lại những dấu hiệu tích cho TTCK. Đây chính là nguyên nhân khiến những mã cổ phiếu nhỏ, có lượng cổ phiếu lưu hành thấp đã tăng giá mạnh trong suốt tháng 4/2010. Điều này khiến phần lớn cổ phiếu đều tăng giá quá nhiều trong khi những yếu tố mang tính chất cơ bản chưa có nhiều thay đổi. Hậu quả việc tăng mạnh trong thời gian ngắn đã khiến thị trường điều chỉnh giảm hầu hết thời gian của tháng 5/2010 và thông tin thế giới tiêu cực cũng khiến đà giảm này mạnh lên. Trong suốt tháng 6 và 7 sau đó VN-index luôn ở thế giằng co quanh mức 495-515 điểm TT liên tục có những điều chỉnh và cuối cùng đến những phiên giao dich tháng 8 VN-index đã thường xuyên ở dưới 500.
2.3.2 Quy mô giao dịch.
Giá trị giao dịch toàn thị trường ở mức tương đối thấp trong những tháng đầu năm khi VN-Index trong quá trình điều chỉnh giảm và giao dịch tăng khá mạnh trong quý II khi dòng tiền lớn được đưa vào thị trường. Cho tới cuối tháng 5/2010 và 6/2010 giá trị giao dịch vẫn duy trì ở mức cao thể hiện còn dòng tiền mạnh trong thị trường.
Biểu đồ qui mô giao dịch của HSX và HNX từ năm 2006-2009
2006
2007
2008
2009
HOSE
Khối lượng cổ phiếu(tr)
538,5
1.817
2.978
10.432
Giá trị tỷ VND
35.742
217.835
124.576
423.299
Giá tb một cổ phiếu
66.370
119.900
41.832
40.577
HASTC
Khối lượng cổ phiếu(tr)
95,6
612
1.531
5.765
Giá trị tỷ VND
3.917
63.442
57.122
197.524
Giá tb một cổ phiếu
40.970
103.630
37.310
34.263
Toàn thị trường
Khối lượng cổ phiếu(tr)
634.1
2.426
4.509
16.197
Giá trị tỷ VND
39.389
281.258
181.698
620.823
Giá tb một cổ phiếu
62.118
115.935
40.296
38.329
( Nguồn công ty chứng khoán Âu Việt)
Qua biểu đồ trên ta thấy rằng từ năm 2006-2009 khối lượng cổ phiếu và giá trị của các cổ phiếu niêm yết tại 2 sàn HOSE và HASTC đã tăng lên rất lớn. Đối với sàn HOSE khối lượng cổ phiếu niêm yết tăng gấp đôi, còn giá trị giao dịch tăng gấp 12 lần. Còn đối với sàn HASTC thì số lượng cổ phiếu niêm yết tăng 60 lần còn giá trị tăng 50 lần. Điều đó chứng tỏ rằng TTCK Việt Nam đã só những bước tiến đáng kể chỉ sau 4 năm từ 2006-2009.
Qui mô thị trường HASTC
Toàn thị trường
Cổ phiếu
Trái phiếu
UPCoM
Số chứng khoán niêm yết
924
327
509
88
Tổng khối lượng niêm yết
7,368,756,917
4,779,055,548
1,676,760,000
912,941,369
Tổng giá trị niêm yết
226,755,969,170,000
49,950,555,480,000
167,676,000,000,000
9,129,413,690,000
(Nguồn )
Hiện tại thị trường có trên 900 loại chứng khoán niêm yết trên sàn HASTC, trong đó, có những doanh nghiệp đứng đầu về thị phần môi giới như SSI, BVS,VND.Với tổng khối lượng niêm yết trên 7 triệu và tổng giá trị trên 226 ngàn tỷ đồng.
Toàn thị trường
Cổ phiếu
Chứng chỉ
Trái phiếu
Số CK niêm yết
(1 CK)
315
253
5
57
Tỉ trọng (%)
100
80,32
1,59
18,10
KL niêm yết(ngàn CK)
11.900.577,18
11.512.296,80
276.099,29
112.181,09
Tỉ trọng(%)
100
96,74
2,32
0,94
GT niêm yết(triệu đồng)
129.102.069,93
115.122.968,03
2.760.992,90
11.218.109,00
Tỉ trọng (%)
100
89,17
2,14
8,69
(Nguồn )
Trên HOSE hiên đang có hơn 300 loại chứng khoán niêm yết, với 253 mã cổ phiếu, 57 mã trái phiếu và 5 lọai chứng chỉ quỹ, với khối lượng trên 11.000 CK, lớn hơn so với sàn HASTC. Tổng giá trị giao dịch 129.102 tỷ đồng . Phần lớn các công ty chứng khoán niêm yết là những công ty đầu tiên của TTCK Việt Nam, có lợi thế về kinh nghiệm, quy mô hoạt động và nguồn tài chính vững chắc.
2.3.3 Thị trường trái phiếu.
Số lượng trái phiếu trên thị trường chứng khoán ngày càng dồi dào đi cùng với đó là chất lượng cũng được nâng cao một cách đáng kể, kinh tế Việt Nam đang trên đà hồi phục chính vì thế mà nhu cầu phát hành trái phiếu của nhà nước cũng như của các doanh nghiệp sẽ ngày càng tăng. TTTP đã trở thành một kênh huy động vốn có hiệu quả, thu hút được lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, góp phần giảm bớt sức ép tiền mặt trong lưu thông và hạn chế lạm phát.
Phương thức phát hành ngày càng phong phú và không ngừng được cải tiến, độ an toàn cao ngày càng đáp ứng được quyền lợi và thị hiếu của nhà đầu tư, hơn thế nữa nhằm tăng tính cạnh tranh cho TTTP bộ tài chính đang đẩy nhanh quá trình hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
Nhưng bên cạnh đó thị trường trái phiếu vẫn còn một số hạn chế nhất định: tuy TTTP đã có những bước phát triển vượt bậc trong thời gian qua nhưng quy mô của nó vẫn còn khá khiêm tốn so với tiềm năng, các nước trong khu vực thì quy mô thị trường tính theo tỷ lệ giữa số dư trái phiếu đang lưu hành trên GDP của VN mới chỉ ở mức khoảng 15%, trong khi tỷ lệ này ở các nước như Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia tối thiểu là trên 30% và các nước phát triển như Nhật Bản, Mỹ, Châu Âu thì đều trên dưới 100%.
Có thể thấy, khả năng cho TTTP VN phát triển còn rất lớn, bên cạnh đó tính lưu chuyển của các loại trái phiếu là rất hạn chế, vì vậy nó chưa phát huy hết những ưu điểm của một công cụ tài chính. Ngoài ra, tỷ lệ trái phiếu dài hạn còn thấp mà chủ yếu vẫn là trái phiếu ngắn và trung hạn. Trong năm nay mặt bằng lãi suất có chiều hướng tăng cao cũng gây khó khăn nhất định cho thị trường.
Ngày nay, thị trường vốn không còn bị giới hạn trong phạm vi một quốc gia mà sự phát triển của nó đã vươn tới tầm vóc quốc tế đã mở ra triển vọng cho các chính phủ huy động vốn trên phương diện quốc tế. Một trong các hình thức huy động vốn quốc tế hiện nay là phát hành trái phiếu quốc tế. Đó là hình thức chính phủ phát hành các trái phiếu quốc tế ra thị trường quốc tế, đây là hình thức vay vốn trực tiếp qua các nhà đầu tư nước ngoài không phải qua các trung gian tài chính, vì vậy chi phí đi vay sẽ thấp hơn đồng thời tính độc lập về tài chính của chính phủ sẽ cũng lớn hơn do không bị ràng buộc vào các điều kiện sử dụng vốn khi vay.
Trên thế giới hiện nay có 2 loại TTTP:
- TTTP nước ngoài là thị trường mà chủ thể đi vay của một nước phát hành trái phiếu để huy động vốn trên thị trường vốn của một nước khác và được thanh toán bằng đồng tiền của nước nới nó được phát hành.
- TTTP châu Âu được bán ở các nước khác hơn là nước mà đồng tiền của nó được sử dụng là thước đo giá trị trái phiếu.
Trong những năm gần đây chính phủ nước ta cũng dùng trái phiếu quốc tế để huy động vốn cho nền kinh tế mà điển hình mà việc phát hành 1 tỷ USD trái phiếu chính phủ để huy động vốn cho tập đoàn vinashin.
Trái phiếu chính phủ và tín phiếu kho bạc: Tín phiếu kho bạc ở Việt Nam là các chứng khoán nợ ngắn hạn với kỳ hạn 182, 273 hoặc 364 ngày trong khi trái phiếu chính phủ là 7, 10, hay 15 năm. Có gần 400 loại tín phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ khác nhau hiện đang được mua bán. Khoảng 60.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát triển Việt Nam phát hành hàng năm chủ yếu thông qua các kênh bảo lãnh và đấu giá. Hiện tại trái phiếu chính quyền địa phương được chính quyền địa phương phát hành dưới sự cho phép của chính phủ. Còn trái phiếu doanh nghiệp được phát hành thông qua kênh đấu giá, bảo lãnh và môi giới. Tuy nhiên, tính thanh khoản của chúng vẫn chưa cao.
2.3.4 Thị trường cổ phiếu
2.3.4.1 Thị trường cổ phiếu chưa niêm yết
TT Cổ phiếu chưa niêm yết hoạt động khá sôi nổi và hấp dẫn cùng với sự thay đổi phương thức giao dịch và thời gian giao dịch vào ngày 19/7/2010 của sàn chứng khoán UPCOM. Với sự hoạt động tương đối hiệu quả của sàn UPCOM đã góp phần làm giảm bớt áp lực cầu lên giá của các chứng khoán đã niêm yết, tạo ra một hướng đầu tư mới an toàn cho các nhà đầu tư so với việc đầu tư vào các cổ phiếu chưa niêm yết như trước kia. Cổ phiếu chưa niêm yết đã dần trở thành một mặt hàng phổ biến và được ưa chuộng.
Mặt khác, TTCP chưa niêm yết sẽ hứa hẹn tiếp tục tăng trưởng mạnh với sự tham gia tích cực của các công ty chứng khoán là tư vấn niêm yết đi kèm với đầu tư vào doanh nghiệp, hứa hẹn đem lại lợi nhuận hấp dẫn với độ an toàn cao.
2.3.4.2 Cổ phiếu đã niêm yết
TT cổ phiếu đã niêm yết ngày càng được tổ chức và vận hành một cách có hiệu quả đã tạo nên một TTCK sôi nổi, hấp dẫn cho công chúng đầu tư. Thị trường tài chính Việt Nam đã có diện mạo mới, hình ảnh và uy tín của các công ty niêm yết được cải thiện một cách đáng kể, cơ chế quản lý được từng bước hoàn thiện, sản xuất được mở rộng. Thông tin thường xuyên được cập nhật cung cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng giúp cho thông tin được minh bạch hóa góp phần tích cực phát triển bền vững cho thị trường.
Qua hơn 10 năm hoạt động cho đến nay TTCK đã trở nên phổ biến trong nhân dân. Cùng với việc tăng cường cơ chế quản lý, giám sát công bố thông tin trên thị trường đã tạo ra một thị trường minh bạch giúp các nhà đầu tư có thể đưa ra quyết định dựa trên thông tin đầy đủ, hệ thống và chính xác, thì việc các tổ chức tài chính trung gian hoạt động hiệu quả cũng góp phần hỗ trợ mạnh cho thị trường.
2.3.5 Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.3.5.1 Về cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.
Đối với Việt Nam, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập để quản lý và giám sát thúc đẩy cho thị trường phát triển theo định hướng XHCN và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư. Đây là bước đi đúng phù hợp với điều kiện của Việt Nam và xu hướng quốc tế.
2.3.5.2 Về sở giao dịch chứng khoán.
Hiện nay nước ta đã có hai sở giao dịch chứng khoán là SGDCK TP HCM và SGDCK Hà Nội. Sở giao dịch chứng khoán sẽ do Nhà nước sở hữu, để đảm bảo an toàn, công bằng theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc thành lập, đình chỉ hoạt động hoặc giải thể Sở giao dịch chứng khoán do Thủ tướng chính phủ quyết định theo đề nghị của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là một tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận đặt dưới sự quản lý trực tiếp của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Ngoài ra, để công khai hoá tất cả các hoạt động giao dịch, Nhà nước đang xem xét thành lập Sở giao dịch chứng khoán tập trung cho tất cả các chứng khoán (kể cả công ty và và nhỏ) có đủ điều kiện niêm yết, hay không đủ điều kiện niêm yết được mua bán tại Sở giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, việc giao dịch những chứng khoán của công ty lớn (đủ điều kiện niêm yết) tách biệt với khu vực giao dịch những chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ không đủ điều kiện niêm yết.
2.3.5.3 Về lĩnh vực đăng ký, thanh toán - bù trừ và lưu giữ chứng khoán.
Trung tâm lưu ký chứng khoán chính thức được đưa vào hoạt động vào ngày 3/5/2006 từ đó đến nay nó đã góp phần quan trọng thúc đẩy sự phát triển của TTCK thông qua việc củng cố và hoàn thiện cấu trúc hạ tầng của TTCK. Trung tâm lưu ký chứng khoán sử dụng mô hình lưu ký 2 cấp. Đảm nhiệm nghiệp vụ hỗ trợ sau giao dich là lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ, giúp cho các cơ quan giám sát nhà nước giám sát hiệu quả hơn giao dịch chứng khoán trên thị trường.
2.3.5.4 Về các tổ chức trung gian.
Các ngân hàng chỉ được phép kinh doanh chứng khoán dưới hình thức thành lập các công ty độc lập, hoạt động tách rời với kinh doanh tiền tệ. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cho phép cả các công ty chứng khoán độc lập hình thành từ các công ty tài chính, các tổng công ty lớn. Còn các công ty chứng khoán được phép thực hiện tất cả các hình thức như: bảo lãnh phát hành chứng khoán, môi giới chứng khoán, tư doanh chứng khoán, tư vấn chứng khoán và quản lý quỹ đầu tư. Riêng hình thức quản lý quỹ đầu tư, yêu cầu phải hoạt động tách rời dưới hình thức một công