MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT VÀ PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT. 6
1.1. Một số vấn đề lý luận về tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ. 6
1.2. Lý luận về giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ . 16
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QSDĐ TỪ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI
TAND HUYỆN ỨNG HOÀ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 37
2.1. Thực trạng Pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ. 37
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ tại TAND huyện
Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội. . 39
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG , GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG
QSDĐ VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI
HUYỆN ỨNG HOÀ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI. 57
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
CNQSDĐ. . 57
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
CNQSDĐ từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa - Thành
phố Hà Nội. . 59
3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xét xử của TAND từ thực tiễn xét xử của
Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa - Thành phố Hà Nội. . 60
KẾT LUẬN . 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 64
71 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/03/2022 | Lượt xem: 488 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn xét xử tại tòa án nhân dân huyện Ứng hòa, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thẩm quyền của Tòa án nơi cư trú, nơi làm
việc, nơi có trụ sở của bị đơn, (3) phân định thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo sự
thỏa thuận của các đương sự, (4) quy định về phân định thẩm quyền sơ thẩm dân
sự giữa các Tòa án cùng cấp theo sự lựa chọn của nguyên đơn. Trong BLTTDS
cũng điều chỉnh chi tiết về trình tự, thủ tục sơ thẩm tranh chấp đất đai.
Quy định của hệ thống Tòa án làm rõ thêm cơ chế thực hiện giải quyết
tranh chấp đất đai của Tòa án. Theo đó việc giải quyết tranh chấp đất đai được
thực thi bởi các cấp Tòa án trong hệ thống bao gồm: (1) TANDTC; (2) Các
TAND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; (3) Các TAND huyện, quận, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh.
- Pháp luật về hình thức: BLTTDS là luật về hình thức, tại Điều 1 BLTTDS
năm 2013 đã xác định Tòa án là đối tượng điều chỉnh của Bộ luật. Tòa án là cơ
26
quan trực tiếp giải quyết các vụ án về dân sự và Tòa án phải căn cứ vào Bộ luật
này để áp dụng khi giải quyết.
Về cơ cấu của BLTTDS năm 2013
BLTTDS gồm 517 Điều và 42 Chương:
Chương I: Nhiệm vụ và hiệu lực của BLTTDS
Chương II: Những nguyên tắc cơ bản
Chương III: Thẩm quyền của Tòa án
Thứ hai, về quy trình và thủ tục nộp đơn khởi kiện và thủ tục giải quyết
tranh chấp dân sự nói chung, trong đó có tranh chấp về hợp đồng CNQSDĐ nói
riêng. Cụ thể:
- Về thủ tục nhận đơn khởi kiện: Trong thời hạn 5 ngày làm việc, kể từ
ngày nhận được đơn khởi kiện, tòa án phải xem xét và có một trong các quyết
định: Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu thuộc thẩm quyền; chuyển đơn khởi
kiện cho tòa án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện nếu vụ án thuộc thẩm
quyền của tòa án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu việc đó
không thuộc thẩm quyền của tòa án. Để bảo đảm điều kiện thuận lợi cho cơ
quan, tổ chức, cá nhân nộp đơn khởi kiện; đồng thời tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong hoạt động tố tụng, tiến tới xây dựng “Tòa án điện tử”; vì
vậy, ngoài phương thức nộp đơn khởi kiện trực tiếp gửi đến Tòa án theo đường
dịch vụ bưu chính. BLTTDS năm 2015 cũng ghi nhận cụ thể hơn nội dung này
tại Điều 191, trong đó còn quy định rõ kết quả xử lý đơn của Thẩm phán quy
định tại khoản 3 Điều này phải được ghi chú vào sổ nhận đơn và thông báo cho
người khởi kiện qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án (nếu có).
- Về thụ lý vụ án: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được giấy báo
của tòa về việc nộp tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng
án phí và nộp biên lai cho tòa án để tòa án thụ lý vụ án (Điều 171 BLTTDS
2004).
27
- Thời hạn chuẩn bị xét xử đối với các vụ án tranh chấp dân sự là 4 tháng
kể từ ngày thụ lý và 2 tháng đối với các yêu cầu việc dân sự.
- Về hòa giải: Hòa giải được quy định thành một điều riêng biệt và trở
thành nguyên tắc bắt buộc trong quá trình giải quyết các tranh chấp tại tòa án,
trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được.
- *Pháp luật về nội dung
Để có thể nhận diện được những tranh chấp phát sinh liên quan đến hợp
đồng CNQSDĐ, trước tiên luận văn sẽ đi vào khái quát, phân tích những nội
dụng pháp lý liên quan đến hợp đồng CNQSDĐ được quy định trong BLDS và
Luật đất đai.
Thứ nhất, các điều kiện về chủ thể giao kết hợp đồng CNQSDĐ.
Như đã phân tích ở trên giao dịch CNQSDĐ bản chất chính là giao dịch
dân sự, do vậy để giao kết hợp đồng CNQSDĐ cũng phải đáp ứng các điều kiện
về năng lực chủ thể bao gồm có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự. Song, với tính chất đặc biệt của hoạt động CNQSDĐ, nên ngoài những
điều kiện đó, khi giao kết hợp đồng còn phải đáp ứng những điều kiện đặc thù
theo quy định của pháp luật. Do giới hạn trong luận văn thạc sĩ, các điều kiện
được phân tích dưới đây là những điều kiện đặc thù với chủ thể khi giao kết hợp
đồng CNQSDĐ.
Chủ thể hợp đồng CNQSDĐ là cá nhân, tổ chức có đầy đủ năng lực tham
gia giao kết, xác lập hợp đồng theo quy định của pháp luật. Đối với cá nhân, cá
nhân đó phải là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp luật dân
sự và là chủ có quyền định đoạt quyền sử dụng đất đem ra giao dịch. Trường
hợp cá nhân không có năng lực hành vi không đầy đủ thì phải có người đại diện
hợp pháp khi giao kết hợp đồng. Đối với tổ chức thì người đứng đầu tổ chức
hoặc người được tổ chức ủy quyền hợp pháp thì mới được ký kết hợp đồng.
Song cần lưu ý điểm đặc biệt về chủ thể khi CNQSDĐ đó là bị ràng buộc
bởi việc chứng minh, xác nhận tình trạng hôn nhân. Xét dưới góc độ thực tế và
quy định của pháp luật, GCNQSDĐ được Nhà nước cấp cho người sở hữu
28
QSDĐ. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, tác động của những mỗi quan hệ
xã hội, GCNQSDĐ này có thể được đem nhập thành khối tài sản chung trong
quan hệ hôn nhân gia đình hoặc đất đai được hình thành trong thời kỳ hôn nhân
nhưng chỉ có một bên vợ hoặc chồng là người được ghi trên GCNQSDĐ. Do đó,
khi xác lập hợp đồng, cơ quan lập hợp đồng và Nhà nước dự liệu người chuyển
nhượng bắt buộc là vợ chồng hoặc vợ hoặc chồng khi một trong các bên chứng
minh được đây là tài sản riêng của vợ hoặc chồng.
Ngoài việc đáp ứng những điều kiện trên, để thực hiện quyền chuyển quyền
sử dụng đất hay quyền CNQSDĐ, Điều 188 Luật đất đai 2013 quy định các điều
kiện sau:
Một là, có giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186
và trường hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật đất đai
2013.
Điều kiện để giao kết hợp đồng chuyển quyền CNQSDĐ là phải có giấy
chứng nhận trừ hai trường hợp sau:
- Trường hợp tất cả người nhận thừa kế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu
nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất đều là người nước ngoài hoặc người Việt
Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với
QSDĐ ở tại Việt Nam.
- Trường hợp nhận thừa kế QSDĐ thì người sử dụng đất được thực hiện
quyền đó khi có giấy chứng nhận hoặc đủ điều kiện để cấp GCNQSDĐ, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Như vậy, có thể nhận thấy đây là điều kiện tiên quyết để giao kết hợp đồng
chuyển quyền CNQSDĐ. Điều kiện này nhằm đảm bảo chức năng quản lý Nhà
nước về đất đai, quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất cũng chính là
cơ sở để giải quyết khi có tranh chấp pháp lý liên quan đến hợp đồng CNQSDĐ.
Hai là, đất không có tranh chấp
Quy định về “Đất không có tranh chấp” hiện nay vẫn do chính quyền xã,
phường là cơ quan có trách nhiệm xác nhận về tình trạng đất không có tranh chấp.
29
Bên cạnh đó, do tiêu chí làm căn cứ xác nhận không rõ ràng có tình trạng
một bộ phận không nhỏ cán bộ, chính quyền địa phương gây phiền hà cho dân.
Nên thực tế quy định này đã buộc cá nhân, hộ gia đình khi thực hiện các quy
định của pháp luật để giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp
pháp phải rơi vào tình thế “ xin xỏ” và “ cầu cạnh” cơ quan Nhà nước, thậm chí
không loại trừ họ phải chấp nhận những chi phí ngoài lề.
Ba là, quyền sử dụng đất không bị kê biên để đảm bảo thi hành án
Bốn là, trong thời hạn sử dụng đất
Theo quy định tại Điều 128 Luật đất đai 2013 quy định thời hạn sử dụng
đất khi nhận chuyển nhượng sử dụng đất đối với loại đất có quy định thời hạn là
thời gian sử dụng đất còn lại trước khi nhận CNQSDĐ. Theo đó, thời hạn quy
định đối với đất sử dụng ổn định lâu dài, đất sử dụng có thời hạn và thời hạn sử
dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng đất thực hiện theo quy định tại điều
125,126 và 127 Luật đất đai 2013.
Ngoài các điều kiện chung nêu trên, người sử dụng đất khi thực hiện
CNQSDĐ còn phải thực hiện các quy định sau:
Thứ nhất, nếu CNQSDĐ không được nhận (Điều 191 Luật đất đai 2013).
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư, cơ sở tôn giáo, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không
được nhận chuyển nhượng, nhận tặng cho quyền sử dụng đất đối với trường hợp
mà pháp luật không cho phép CNQSDĐ.
2. Tổ chức kinh tế không được nhận CNQSDĐ trồng lúa, đất rừng phòng
hộ, đất rừng đặc dụng của hộ gia đình, cá nhân, trừ trường hợp được chuyển mục
đích sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền phê duyệt.
3. Hộ gia đình, cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp không được
nhận CNQSDĐ trồng lúa.
4. Hộ gia đình, cá nhân không được nhận CNQSDĐ ở, đất nông nghiệp
trong khu vực rừng phòng hộ, trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt, phân khu
30
phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng, nếu không sinh sống trong khu vực rừng
phòng hộ, rừng đặc dụng đó.
Thứ hai, nếu hộ gia đình, cá nhân CNQSDĐ có điều kiện ( Điều 192 Luật
đất đai 2013).
1. Hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống xen kẽ trong phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt, phân khu phục hồi sinh thái thuộc rừng đặc dụng nhưng chưa có
điều kiện chuyển ra khỏi phân khu đó thì chỉ được CNQSDĐ ở, đất rừng kết hợp
sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản cho hộ gia đình, cá nhân
sinh sống trong phân khu đó.
2. Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất ở, đất sản xuất nông nghiệp
trong khu vực rừng phòng hộ thì chỉ được CNQSDĐ ở, đất sản xuất nông nghiệp
cho hộ gia đình, cá nhân đang sinh sống trong khu vực rừng phòng hộ đó.
3. Hộ gia đình, cá nhân là dân tộc thiểu số sử dụng đất do Nhà nước giao
đất theo chính sách hỗ trợ của Nhà nước thì được CNQSDĐ sau 10 năm, kể từ
ngày có quyết định giao đất theo quy định của Chính phủ.
Thứ ba, điều kiện nhận CNQSDĐ nông nghiệp để thực hiện dự án đầu tư
sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp ( Điều 193 Luật đất đai 2013).
Việc CNQSDĐ gắn với chuyển nhượng toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kết
cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Có đủ các điều kiện chung để thực hiện quyền chuyển nhượng như đã nêu
trên;
- Dự án phải xây dựng xong các công trình hạ tầng k thuật tương ứng theo
tiến độ ghi trong dự án đã được phê duyệt.
Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật đất đai 2013, Nghị định
43/2014/NĐ-CP hướng dẫn cụ thể những trường hợp CNQSDĐ có điều kiện bao
gồm:
Một là, về điều kiện CNQSDĐ của hộ gia đình, cá nhân đồng bào dân tộc
thiểu số sử dụng đất do được Nhà nước giao đất theo chính sách hỗ trợ (Điều 40
Nghị định 43/2014/NĐ-CP)
31
Hai là, điều kiện CNQSDĐ trong dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở
để bán hoặc để bán kết hợp cho thuê ( Điều 41 Nghị định 43/2014/NĐ-CP)
Ba là, điều kiện CNQSDĐ gắn với việc chuyển nhượng một phần hoặc
toàn bộ dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở ( Điều 43 Nghị định
43/2014/NĐ-CP).
- Người nhận CNQSDĐ gắn với chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ dự
án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở phải có ngành nghề kinh doanh phù hợp,
phải đáp ứng các điều kiện theo quy định tại Điều 58 của Luật Đất đai, Điều 13
và Điều 14 của Nghị định 43/2014/NĐ-CP, nghĩa là các điều kiện giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, không phải mọi chủ thể có năng lực hành vi dân sự đều được
tham gia tạo lập các hợp đồng CNQSDĐ, mà chủ thể phải có đủ những điều kiện
nêu trên mới có thể xác lập được hợp đồng. Khi chủ thể không đủ điều kiện để
được xác lập hợp đồng thì hợp đồng CNQSDĐ đó vô hiệu.
Thứ hai, nội dung hợp đồng CNQSDĐ.
Theo quy định tại Điều 698 BLDS 2005, hợp đồng CNQSDĐ bao gồm các
nội dung sau đây: Tên, địa chỉ của các bên; quyền, nghĩa vụ của các bên; Loại
đất, hạng đất, diện tích, vị trí, số hiệu, ranh giới và tình trạng đất; Thời hạn sử
dụng đất của bên chuyển nhượng; thời hạn sử dụng đất còn lại của bên nhận
chuyển nhượng; Giá chuyển nhượng; Phương thức, thời hạn thanh toán; Quyền
của người thứ ba đối với đất chuyển nhượng; Các thông tin khác liên quan đến
QSDĐ; trách nhiệm của các bên khi vi phạm hợp đồng.
Pháp luật dân sự quy định khá đầy đủ, chi tiết những nội dung trong hợp
đồng CNQSDĐ. Tuy nhiên, trên phương diện lí luận và thực tế nội dung về
quyền, nghĩa vụ của các bên và giá chuyển nhượng là hai nội dung thường xảy
ra hành vi vi phạm hoặc những nội dung thường dẫn đến những tranh chấp khi
thực hiện hợp đồng. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng CNQSDĐ
32
* Bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Trong quan hệ hợp đồng CNQSDĐ, mục đích của bên CNQSDĐ là khai
thác lợi ích kinh tế cùng một lúc do giá trị được xác định của đất đai mang lại.
Vì vậy, pháp luật quy định rõ quyền của họ, trên cơ sở đó để bảo vệ quyền lợi
chính đáng của họ khi bị xâm phạm. Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định nghĩa
vụ của bên CNQSDĐ, điều này thể hiện sự ràng buộc của Nhà nước, với tư cách
là đại diện chủ sở hữu, Nhà nước đã đưa ra quy định nghĩa vụ của bên chuyển
nhượng để việc thực hiện quyền của chủ sử dụng đất nằm trong một khuôn khổ
nhất định. Tuy nhiên, pháp luật về đất đai hiện hành chưa quy định cụ thể quyền
và nghĩa vụ của các bên chuyển nhượng. Song, do QSDĐ được xem là một
quyền tài sản và được tham gia vào giao dịch dân sự trong đó có cả hành vi
CNQSDĐ nên sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Theo đó pháp
luật dân sự ghi nhận như sau:
Quyền của bên CNQSDĐ
Theo quy định tại Điều 700 BLDS 2005, bên CNQSDĐ có quyền như sau:
Được nhận tiền CNQSDĐ. Việc Nhà nước đưa ra quy định trên xuất phát
từ lợi ích chính đáng của người có QSDĐ khi họ đem QSDĐ của mình chuyển
nhượng cho người khác.
Nghĩa vụ của bên CNQSDĐ
Theo quy định tại Điều 699 BLDS 2005, bên CNQSDĐ có các nghĩa vụ sau:
Chuyển giao đất cho bên nhận CNQSDĐ đủ diện tích, đúng hạng đất, đúng
loại đất, đúng vị trí, đúng tình trạng như đã thỏa thuận; từ quy định trên ta thấy,
pháp luật dân sự đã quy định nghĩa vụ của bên chuyển nhượng rất chặt chẽ. Việc
quy định này xuất phát từ quan điểm đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
thống nhất quản lý.
* Bên nhận CNQSDĐ.
Quyền của bên nhận CNQSDĐ
Yêu cầu bên CNQSDĐ giao cho mình giấy tờ có liên quan đến QSDĐ;
33
Yêu cầu bên CNQSDĐ giao đủ diện tích, đúng hạng đất, loại đất, vị trí, số
hiệu và tình trạng đất như đã thỏa thuận;
Được cấp GCQSDĐ đối với đất được chuyển nhượng;
Nghĩa vụ của bên nhận CNQSDĐ:
Trả đủ tiền, đúng thời hạn và đúng phương thức thanh toán như đã thỏa
thuận cho bên CNQSDĐ;
Tuy nhiên, quy định của pháp luật dân sự về quyền và nghĩa vụ của các bên
tham gia quan hệ chuyển QSDĐ hay quan hệ CNQSDĐ có một số hạn chế thể
hiện ở những điểm sau:
Một là, quyền và nghĩa vụ của các bên CNQSDĐ còn chung chung chưa
bao quát hết những trường hợp cụ thể và chủ yếu chỉ được đề cập ở BLDS và
không được quy định rõ ràng trong pháp luật về đất đai.
Hai là, pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của các bên nhưng không có
biện pháp bảo đảm bằng việc ban hành các quy phạm chế tài cụ thể khi các bên
vi phạm nghĩa vụ hoặc lạm quyền. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp các bên
CNQSDĐ không thực hiện nghĩa vụ hoặc vượt quá quyền hạn mà pháp luật cho
phép. Ví dụ, trong thực tế diễn ra nhiều hiện tượng mua bán trao tay không
qua ủy ban nhân dân phường, xã, thị trấn xác nhận; các bên CNQSDĐ không
làm nghĩa vụ nộp thuế chuyển QSDĐ, lệ phí trước bạ, lệ phí địa chính hoặc
không đến đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; bên nhận QSDĐ chưa
làm các thủ tục lại chuyển nhượng cho người khác dưới hình thức mua bán trao
tayĐiều này dẫn đến tình trạng Nhà nước không quản lý được các trường hợp
chuyển nhượng trên thực tế, đồng thời gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước mà
lẽ ra các bên chuyển nhượng phải thực hiện nghĩa vụ.
Tóm lại, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng CNQSDĐ đã được
pháp luật dân sự quy định với những nội dung cơ bản. Tuy nhiên, pháp luật hợp
đồng luôn tôn trọng sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ dân sự. Khi các bên
đạt được sự thống nhất theo ý chí, nguyện vọng, mong muốn của mình, các bên
sẽ ghi nhận thành những nội dung cụ thể trong hợp đồng dựa trên những quy
34
định của pháp luật và không được trái với quy định của pháp luật. Việc thỏa
thuận trong khuôn khổ pháp luật. Tuy nhiên, những hạn chế nêu trên về vấn đề
này chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng vi phạm pháp
luật hay tranh chấp về hợp đồng CNQSDĐ.
Thứ hai, giá cả và phương thức thanh toán
Xét dưới góc độ thực tế thì mức giá trên hợp đồng giữa các bên thông
thường bằng hoặc cao hơn không đáng kể so với khung giá Nhà nước nhưng lại
không phải là giá trị chính thức của các bên giao kết vì các bên tham gia hợp
đồng chuyển nhượng thường lấy theo giá của thị trường điều chỉnh. Vì thế khi
có tranh chấp hợp đồng thì giá đã thỏa thuận trong hợp đồng là một căn cứ bất
lợi cho mỗi bên tham gia quan hệ này.
Thứ ba, hình thức hợp đồng CNQSDĐ.
Việc quy định về hình thức này của hợp đồng dựa trên cơ sở là đối tượng
của hợp đồng có giá trị lớn, là một loại tài sản đặc biệt, mặt khác, những quy
định này về hình thức còn là cơ sở để các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền
kiểm tra, giám sát việc CNQSDĐ trên thực tế.
Ngoài ra Điều 503 BLDS 2015 cũng quy định việc chuyển QSDĐ có hiệu lực
kể từ thời điểm đăng kí theo quy định của Luật đất đai.
Thứ tư, trình tự, thủ tục kí kết và thực hiện hợp đồng
Các bên trong hợp đồng CNQSDĐ chuẩn bị đầy đủ giấy tờ chứng minh về
nhân thân, quyền sử dụng diện tích đất chuyển nhượng, quyền sở hữu với tài sản
gắn liền với đất (nếu có), dự thảo hợp đồng (nếu có) để tham gia xác lập, ký kết
hợp đồng bởi văn phòng công chứng hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực.
Sau khi xác lập hợp đồng, các bên thực hiện nghĩa vụ được quy định trong
hợp đồng, chẳng hạn nghĩa vụ thanh toán, nghĩa vụ giao nhận giấy tờ
Bên cạnh đó, một trong các bên hoặc cả hai bên tiến hành các thủ tục theo
quy định tại văn phòng đăng ký đất và nhà nơi nhà, đất có địa chỉ để thực hiện
sang tên cho chủ thể có thẩm quyền theo hợp đồng chuyển nhượng giữa các bên.
Việc thực hiện hợp đồng chỉ được coi là kết thúc trọn vẹn khi người nhận
35
chuyển nhượng được sang tên, ghi nhận quyền sử dụng đất theo GCNQSDĐ,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất mà cơ quan có thẩm quyền cấp,
và bên nhận chuyển nhượng, bên chuyển nhượng đã hoàn thành tất cả nghĩa vụ
theo hợp đồng mà các bên đã ký kết.
1.2.6. Các yếu tố tác động chi phối tới pháp luật về giải quyết tranh chấp
hợp đồng CNQSDĐ tại Tòa án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi nhận được đơn, thụ lý vụ án cho
đến khi kết thúc bằng một quyết định, hoặc bản án. Tòa án phải căn cứ vào:
- BLDS, BLTTDS, Luật Đất đai, Luật thi hành án Dân sự.
- Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 hướng dẫn thi hành Luật
Đất đai 2003.
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí
- Các nghị quyết án lệ của TANDTC
- Nghị định của Chính phủ, các nghị quyết, chỉ thị của Hội đồng nhân dân,
UBND các cấp quy định về quy hoạch, sơ đồ địa chính, khung giá đất, đăng ký
đất đai (ví dụ: Điều 146 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính
phủ quy định: “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đấtcó hiệu lực kể từ
thời điểm đăng ký tại văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất)
- Thông qua việc xét xử phúc thẩm, Giám đốc thẩm (rất ít tái thẩm) của Tòa
án cấp trên để rút ra được kinh nghiệm bổ ích về quan điểm, đường lối xét xử.
- Học tập, nghiên cứu qua: Hội nghị tổng kết công tác ngành, Hội nghị Tập
huấn các chuyên đề, các văn bản rút kinh nghiệm về đường lối xét xử thông qua
công tác giám đốc, kiểm tra của Tòa án cấp trên.
- Tham khảo các bài viết, bình luận, tranh luận trong Tập san TAND, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, Nghiên cứu pháp luật, thông tin khoa học, trong lĩnh
vực về pháp luật.
- Trách nhiệm cung cấp thông tin các chứng cứ của cá nhân, cơ quan có
liên quan cho Tòa án cũng là yếu tố ảnh hưởng chi phối tới pháp luật về giải
36
quyết tranh chấp Hợp đồng CNQSDĐ tại Tòa án. (Ví dụ: không cung cấp, chậm
cung cấp, thông tin, chứng cứ không chính xác, chứng cứ giả mạo).
Kết luận Chương 1
Đây là Chương mở đầu với mục đích quan trọng là làm rõ các khái niệm cơ
bản, đặc điểm của hợp đồng CNQSDĐ và giải quyết tranh chấp hợp đồng
CNQSDĐ và nêu một số quy định của pháp luật.
Trên cơ sở đó, chương 1 của luận văn cũng làm rõ những vấn đề lý luận về
pháp luật giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ thông qua hoạt động xét xử
của Tòa án trong đó nêu sự cần thiết khách quan của việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng CNQSDĐ dưới góc độ kinh tế, chính trị xã hội. Từ đó, phân tích pháp
luật nội dung và pháp luật tố tụng là căn cứ pháp lý để giải quyết tranh chấp về
hợp đồng CNQSDĐ tại Tòa án và nêu rõ các nguyên tắc giải quyết tranh chấp
hợp đồng CNQSDĐ tại Tòa án giúp cho việc nghiên cứu của tranh chấp hợp
đồng CNQSDĐ và pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ ở các
chương tiếp theo.
37
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG CHUYỂN NHƯỢNG QSDĐ TỪ THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP TẠI TAND HUYỆN ỨNG HOÀ,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ
2.1.1. Pháp luật hình thức điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp hợp
đồng CNQSDĐ.
Kinh nghiệm giải quyết các vụ án nói chung, Tòa án phải thực hiện nghiêm
chỉnh các quy định của BLTT, có thể đường lối giải quyết đúng nhưng vì bỏ qua
hoặc không tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục của BLTTDS
dẫn đến án bị hủy khi có kháng cáo, hoặc kháng nghị. Đây là trường hợp vi
phạm tố tụng nghiêm trọng đã được quy định trong Điều 311 BLTTDS.
Là một huyện thuần nông, vùng chiêm trũng, cách xa đô thị, đường giao
thông chưa thuận tiện nên sự biến đổi về đất đai ít, rất ít có dự án liên quan đến
việc tập trung đất đai, rải rác ở một số thôn xã do nhu cầu chỗ ở, tách hộ gia đình
có giao dịch chuyển nhượng. Một số cán bộ thôn, xã, hợp tác xã có việc thu hồi
ruộng canh tác, ao chuyển nhượng cho cá nhân một cách bất hợp pháp, nay cá
nhân bán cho người dân làm chỗ ở.
Quá trình chuyển nhượng QSDĐ tuy bất hợp pháp nên hai bên chỉ viết tay,
việc xây dựng nhà cửa vẫn tiến hành bình thường, vì làm sai nên chính quyền
cũng làm ngơ, cũng rất ít có phạt nhưng phạt để tồn tại. Và cũng chính vì vậy,
khi có tranh chấp họ tự dàn xếp, giải quyết vì nếu có kiện thì hợp đồng cũng vô
hiệu, vừa mất thời gian, vừa mất tiền án phí, vừa mang tiếng với dân làng.
- Do năng lực hoặc cố tình vi phạm của một số cá nhân, tổ chức trong công tác
quản lý đất đai nên rất ảnh hưởng đến hoạt động của Tòa án. Chậm trễ, thiếu trách
nhiệm, không cung cấp chứng cứ hoặc làm sai lệch hồ sơ, sao chép các văn bản có
liên quan. Song rất đáng tiếc họ không phải chịu bất kỳ chế tài nào của pháp luật.
38
- Trong một số vụ án có ít hoặc nhiều người có quyền lợi và nghĩa vụ liên
quan, tham gia tố tụng Toà án báo gọi họ không đến, gây khó khăn cho Tòa án,
không cung cấp các chứng cứ, tài liệu, hoặc có cung cấp là tài liệu giả Tòa án
phải mất thời gian trưng cầu cơ quan giám định, phần nào ảnh hưởng đến thời
hạn xét xử, đến đường lối xét xử.
- Sự tùy tiện, không tôn trọng quy định của pháp luật nên một số lãnh đạo
của UBND khi xử lý các vi phạm đất đai ở cơ sở thường thu tiền phạt của đương
sự với phương thức: “phạt cho tồn tại” họ đã xây dựng nhà trái phép. Điều này
khi xảy ra tranh chấp đến Tòa án xử lý rất khó khăn, xét xử thế nào cho đúng
pháp luật.
- Việc tham gia giải quyết của Viện kiểm sát (VKS) cùng cấp do luật quy
định không bắt buộc cùng với Tòa án xác minh, thu thập, kiểm tra chứng cứ nên
phần nào cũng bị hạn chế việc nêu quan điểm đúng đắn, chính xác tại phiên tòa
sơ thẩm.
Kinh nghiệm giải quyết các vụ án nói chung, Tòa án phải thực hiện nghiêm
chỉnh các quy định của BLTTDS, có thể đường lối giải quyết đúng nhưng vì bỏ
qua hoặc không tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định về trình tự, thủ tục của
BLTTDS dẫn đến án bị hủy khi có kháng cáo, hoặc kháng nghị. Đây là trường
hợp vi phạm tố tụng nghiêm trọng đã được quy định trong Điều 311 BLTTDS.
2.1.2. Pháp luật nội dung điều chỉnh hoạt động giải quyết tranh chấp hợp
đồng CNQSDĐ
Thực tiễn giải quyết, áp dụng pháp luật tập trung vào BLDS, Luật Đất đai
và Nghị định hướng dẫn thi hành của Chính phủ. Tòa án phải căn cứ vào các
điều quy định về luật nội dung để điều tra, thu thập chứng cứ, xác định sự thật
khách quan của vụ án, định ra đường lối xét xử của mình. Trên cơ sở đó, khi
quyết định của Tòa án cũng phải nêu cụ thể áp dụng điều nào của BLTTDS, của
Nghị định Chính phủ.
39
2.2. Thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng CNQSDĐ tại TAND
huyện Ứng Hòa, Thành phố Hà Nội.
2.2.1. Tình hình thực hiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
CNQSDĐ tại TAND huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.
Hiện tượng công dân, tổ chức khiếu kiện đến cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền là hiện tượng bình thường trong hoạt động quản lý Nhà nước và phát huy
quyền dân chủ của nhân dân. Nhưng sẽ là bất bình thường khi công dân, tổ chức
khiếu kiện liên tục, nhiều lần, đồng người gây mất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_hop_dong_chuyen_nhuong_quyen.pdf