MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT CỦA VIỆC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN . 7
1.1. Cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn . 7
1.1.1. Khái niệm và nội hàm tài sản chung của vợ chồng. 7
1.1.2. Khái niệm giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn . 9
1.1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của việc giải quyết tranh chấp về chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn . 11
1.2. Cơ sở và căn cứ pháp luật của việc giải quyết tranh chấp về
chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn . 12
1.2.1. Pháp luật về nội dung: Các nguyên tắc và các nội dung cụ thể. 14
1.2.2. Pháp luật về tố tụng: Quyền hạn, nghĩa vụ, thẩm quyền của các
chủ thể và trình tự, thủ tục trong giải quyết tranh chấp chia tài
sản chung của vợ chồng khi ly hôn . 26
1.3. Các điều kiện và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của việc giải
quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn . 43
Kết luận chương 1 . 45
90 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 191 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p về chia tài sản chung của vợ chồng
thì hòa giải là một thủ tục bắt buộc trước khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm.
Công tác hòa giải trong các vụ án giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn rất quan trọng. Nếu việc giải quyết tranh chấp
về chia tài sản chung của vợ chồng trong cùng vụ án ly hôn thì việc hòa giải
trước tiên sẽ giúp cho vợ chồng có điều kiện hàn gắn những rạn nứt về tình
cảm, quay về đoàn tụ xây dựng hạnh phúc gia đình. Quan hệ hôn nhân chính
là quan hệ tranh chấp gốc [37, tr.192], nếu hòa giải về hôn nhân thành đồng
37
nghĩa với việc Tòa án không phải giải quyết về vấn đề tài sản. Nếu việc giải
quyết tranh chấp về chia tài sản chung vợ chồng sau khi vợ chồng đã ly hôn
thì việc hòa giải cũng rất quan trọng, bởi nếu hòa giải thành sẽ giảm được sự
căng thẳng, hận thù lẫn nhau giữa vợ chồng, trong chừng mực nào đó có thể
cải thiện mối quan hệ giữa vợ và chồng, điều này rất quan trọng vì không
giống như những tranh chấp khác, sau khi giải quyết xong tranh chấp về tài
sản thì họ không chấm dứt hoàn toàn mối quan hệ mà giữa họ còn có sợi dây
ràng buộc về con cái và các mối quan hệ chung. Bên cạnh đó nếu hòa giải
thành sẽ giúp các bên giảm áp lực về án phí chia tài sản chung.
Trước khi tiến hành hòa giải, Tòa án phải thông báo cho đương sự,
người đại diện hợp pháp của đương sự biết về thời gian, địa điểm tiến hành
hòa giải, nội dung cần hòa giải (Điều 183 BLTTDS). Khi tiến hành hòa giải
Tòa án phải tuân thủ theo các nguyên tắc tiến hành hòa giải, nội dung hòa
giải, trình tự hòa giải theo quy định tại Điều 180, 185, 185a BLTTDS. Thông
qua hòa giải, Tòa án sẽ giải thích pháp luật cho các bên hiểu rõ quyền, nghĩa
vụ của mình trong mối quan hệ giữa họ nhằm mục đích hướng các đương sự
tự nguyện thỏa thuận với nhau về giải quyết tranh chấp giữa họ và đảm bảo
được rằng kết quả hòa giải là sự thỏa thuận của đương sự.
Hòa giải trong vụ án hôn nhân là một thủ tục bắt buộc, có thể thực hiện
sớm mà không cần chờ việc thu thập chứng cứ. Hòa giải trong vụ việc hôn
nhân là hành vi thuyết phục các bên trong quan hệ hôn nhân gia đình đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa, giải quyết các tranh
chấp bất đồng giữa các bên bằng cách thương lượng với nhau có sự tham gia
của bên thứ ba. Để việc hòa giải trong vụ án giải quyết tranh chấp chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn mang lại hiệu quả cao, trước khi hòa giải
Thẩm phán phải xác minh, tìm hiểu về các mối quan hệ về hôn nhân, con cái,
tài sản giữa các bên, tìm ra nguyên nhân, mấu chốt nảy sinh tranh chấp, đồng
38
thời cũng phải tìm hiểu nguyện vọng, tâm tư của các bên để có hướng hòa
giải thích hợp.
Khi Tòa án tiến hành hòa giải, đương sự có quyền và nghĩa vụ tham
gia phiên hòa giải để trình bày ý kiến của mình về những nội dung tranh
chấp và đề xuất những vấn đề cần hòa giải. Sau khi đương sự đã trình bày
xong ý kiến của mình thì Thẩm phán sẽ xác định lại những vấn đề các bên
đã thống nhất, vấn đề chưa thống nhất thì yêu cầu đương sự trình bày bổ
sung, sau đó Thẩm phán kết luận cuối cùng. Việc hòa giải phải lập biên bản,
có chữ ký của các bên.
Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn
bộ vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành, biên bản này phải gửi ngay
cho các đương sự tham gia hòa giải. Các đương sự có quyền thay đổi ý
kiến về vấn đề thỏa thuận trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày lập biên bản
hòa giải thành, hết thời hạn 7 ngày nếu không có đương sự nào thay đổi ý
kiến về việc thỏa thuận thì Thẩm phán sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự.
Điều cần chú ý là nội dung hòa giải chỉ có giá trị pháp lý đối với những
đương sự có mặt tại phiên hòa giải.
Quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự có hiệu lực pháp
luật ngay sau khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm.
Nếu việc hòa giải không thành Thẩm phán sẽ ra quyết định đưa vụ án
ra xét xử.
Ngoài ra, trong quá trình chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công
giải quyết vụ án có thể căn cứ vào Điều 189, 192 BLTTDS để ra một trong
các quyết định sau đây: Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự,
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.
39
Việc hòa giải vẫn phải tiếp tục thực hiện tại phiên tòa sơ thẩm.
Thư tư: Xét xử tại phiên tòa
Nếu Tòa án hòa giải không thành, các đương sự không thỏa thuận được
với nhau về những vấn đề đang tranh chấp thì Tòa án sẽ ra quyết định đưa vụ
án ra xét xử sau khi đã thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ theo quy định. Tòa
án nhân dân cấp huyện xét xử sơ thẩm các vụ án được quy định tại Điều 33
BLTTDS, Tòa án nhân dân cấp tỉnh xét xử sơ thẩm những vụ án được quy
định tại Điều 34 BLTTDS. Sau khi xét xử sơ thẩm, nếu các bên có kháng cáo
hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị thì Tòa án cấp trên trực tiếp sẽ xét xử phúc
thẩm, bản án phúc thẩm có hiệu lực thi hành.
* Phiên toà xét xử vụ án hôn nhân và gia đình phải tuân theo các bước
sau đây:
- Khai mạc phiên toà
Khai mạc phiên tòa là thủ tục bắt buộc phải thực hiện trước khi Hội
đồng xét xử tiến hành xét xử. Việc thực hiện khai mạc phiên tòa được thực
hiện theo quy định tại Điều 213 BLTTDS.
+ Xem xét đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định,
người phiên dịch của đương sự
Đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng theo
quy định tại Điều 58 Bộ luật tố tụng dân sự. Tòa án có thể từ chối đề nghị
thay đổi người tiến hành tố tụng hoặc chấp nhận yêu cầu thay đổi của
đương sự bằng quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng theo quy định
tại Điều 50, Điều 51 BLTTDS.
Tại phiên tòa nếu đương sự đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng,
người giám định, người phiên dịch thì theo quy định tại Điều 214 BLTTDS
thì Hội đồng xét xử phải xem xét, quyết định, có thể chấp nhận hoặc không
chấp nhận; trường hợp không chấp nhận thì phải nêu rõ lý do.
40
+ Xem xét, quyết định hoãn phiên toà khi có người vắng mặt.
Theo quy định tại Điều 199 BLTTDS đương sự đã được triệu tập hợp
lệ lần thứ hai thì có nghĩa vụ tham gia phiên tòa, nếu vắng mặt nhưng không
vì sự kiện bất khả kháng và không có người đại diện tham gia phiên tòa,
không có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt thì Thẩm phán sẽ giải quyết theo
hướng sau: Nếu người vắng mặt là nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa
vụ liên quan có yêu cầu độc lập thì bị coi là từ bỏ yêu cầu khởi kiện, yêu cầu
độc lập, Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, đình chỉ yêu cầu độc
lập; nếu người vắng mặt là bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan
không có yêu cầu độc lập thì Tòa án xét xử vắng mặt.
Điều 215 BLTTDS quy định khi có người tham gia tố tụng vắng mặt tại
phiên tòa mà không thuộc trường hợp Tòa án phải hoãn phiên tòa thì Chủ tọa
phiên tòa phải hỏi xem có ai đề nghị hoãn phiên tòa hay không; nếu có người
đề nghị thì Hội đồng xét xử xem xét, quyết định, có thể chấp nhận hoặc không
chấp nhận, trường hợp không chấp nhận phải nêu lý do.
+ Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.
Người làm chứng là người biết các tình tiết liên quan đến vụ án,
những thông tin mà người làm chứng cung cấp có giá trị cho Tòa án giải
quyết vụ án. Để đảm bảo tính khách quan trong việc tham gia tố tụng của
người làm chứng thì Điều 216 BLTTDS quy định đã quy định các biện
pháp chủ tọa phiên tòa có thể áp dụng để đảm bảo tính khách quan trong
lời khai của người làm chứng.
- Thủ tục hỏi tại phiên toà:
Mở đầu thủ tục hỏi tại phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán sẽ hỏi nguyên
đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập có
thay đổi, bổ sung, rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình hay không
(Điều 217 BLTTDS). Tại phiên tòa phúc thẩm, Thẩm phán sẽ hỏi nguyên
41
đơn, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị về việc có rút yêu
cầu khởi kiện, thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị (Điều 268
BLTTDS). Tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, các đương sự vẫn
có thể rút, thay đổi, bổ sung yêu cầu của họ, việc thay đổi, bổ sung không
được vượt quá phạm vi yêu cầu ban đầu.
Theo Điều 220 BLTTDS thì sau khi đã hỏi đương sự về việc thay đổi,
bổ sung yêu cầu, chủ tọa phiên tòa sẽ hỏi các đương sự có thỏa thuận được
với nhau về việc giải quyết vụ án không, nếu họ tự nguyện thỏa thuận và sự
thỏa thuận đó không trái pháp luật và đạo đức xã hội thì Hội đồng xét xử ra
công nhận sự thỏa thuận đó.
Trường hợp nếu các đương sự không thỏa thuận được và vẫn giữ
nguyên yêu cầu thì Hội đồng xét xử bắt đầu xét xử bằng việc yêu cầu đương
sự trình bày ý kiến của mình theo thứ tự bắt đầu từ nguyên đơn, tiếp đến là bị
đơn, cuối cùng là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, nếu các đương sự
có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp thì người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp sẽ trình bày thay đương sự (phiên tòa sơ thẩm). Tại phiên tòa phúc
thẩm, người kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị sẽ trình bày trước,
sau đó các đương sự có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị trình bày (Điều
221, Điều 271 BLTTDS).
Tại phiên tòa phúc thẩm, đương sự và Viện kiểm sát có quyền xuất
trình bổ sung chứng cứ (khoản 3 Điều 271 BLTTDS).
+ Thứ tự hỏi tại phiên toà:
Thứ tự hỏi tại phiên tòa sơ thẩm như sau: Sau khi nghe lời trình bày của
đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự: Chủ
tọa phiên tòa, Hội thẩm nhân dân, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự, đương sự và những người tham gia tố tụng khác, trường hợp phiên
tòa có sự tham gia của Kiểm sát viên thì Kiểm sát viên hỏi sau đương sự
(Điều 222 BLTTDS).
42
Tại phiên tòa phúc thẩm thì trình tự hỏi cũng tương tự, tại phiên tòa
phúc thẩm không có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân nên có thể hiểu thứ
tự hỏi của Hội thẩm nhân dân sẽ được thay thế bằng các thẩm phán khác, việc
xét hỏi tại phiên tòa phúc thẩm xoay quay vấn đề thuộc phạm vi xét xử phúc
thẩm (khoản 2 Điều 272 BLTTDS).
Sau khi đã hỏi các đương sự, Thẩm phán sẽ công bố các tài liệu, chứng
cứ của vụ án, cho nghe hoặc xem băng, đĩa ghi âm, ghi hình tại phiên tòa theo
quy định của pháp luật.
- Thủ tục tranh luận tại phiên toà:
Tranh luận là việc các bên trình bày, đưa ra quan điểm của mình về
chứng cứ, pháp luật cần áp dụng và đề xuất đường lối giải quyết vụ án.
Trình tự phát biểu tranh luận tại phiên toà sơ thẩm như sau:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn sẽ phát biểu
trước, sau đó là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, cuối cùng
là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan, các đương sự có quyền bổ sung ý kiến. Người tham gia tranh luận
có quyền đáp lại ý kiến của người khác, chủ tọa phiên tòa không được hạn chế
thời gian tranh luận trừ trường hợp đương sự tranh luận những vấn đề không
liên quan đến vụ án (Điều 232, Điều 233 BLTTDS).
Trình tự phát biểu tranh luận tại phiên toà phúc thẩm được thực hiện
theo thứ tự nghe lời trình bày của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm, tại phiên
tòa phúc thẩm các đương sự chỉ được tranh luận về những vấn đề thuộc phạm
vi xét xử phúc thẩm (Điều 273 BLTTDS).
Sau khi tranh luận nếu có tình tiết của vụ án chưa được xem xét, xem
xét chưa đầy đủ hoặc cần xem xét thêm chứng cứ thì Hội đồng xét xử quyết
định trở lại việc hỏi; sau khi hỏi xong phải tiếp tục tranh luận (Điều 235 và
Điều 274 BLTTDS). Quy định này nhằm khắc phục tình huống khi đã tranh
43
luận xong nhưng có nhiều tình tiết của vụ án chưa được làm rõ. Quy định này
cũng khẳng định rằng Tòa án chỉ quyết định các vấn đề của vụ án khi các tình
tiết, sự kiện của vụ án đã được làm sáng tỏ.
Sau khi những người tham gia tố tụng tranh luận xong thì đại diện Viện
kiểm sát phát biểu ý kiến (Điều 234 BLTTDS).
- Nghị án và tuyên án:
Nghị án.
Nghị án là việc Hội đồng xét xử xem xét, quyết định giải quyết vụ án
trên cơ sở kết quả hỏi và tranh luận tại phiên tòa.
Việc nghị án được tiến hành theo quy định tại Điều 236, 274 BLTTDS.
Khi nghị án mà thấy chứng cứ, tài liệu chưa đủ thì Hội đồng quyết định
xét hỏi, tranh luận lại (Điều 237 BLTTDS).
Khi tuyên án, có thể chủ tọa hoặc một thành viên Hội đồng xét xử
tuyên đọc bản án. Khi tuyên đọc xong có thể giải thích thêm về quyền kháng
cáo, về việc thi hành án.
1.3. Các điều kiện và các yếu tố đảm bảo hiệu quả của việc giải
quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn
Để đảm bảo cho công tác giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung
của vợ chồng khi ly hôn đạt được hiệu quả như mong muốn thì yếu tố đầu
tiên là các quy định pháp luật cần phải đồng bộ, rõ ràng. Một khi pháp luật đã
có tính đồng bộ, các quy định đều rõ ràng, cụ thể thì việc áp dụng pháp luật sẽ
thống nhất, hạn chế các trường hợp bị hủy, sửa án do cách hiểu và cách áp
dụng pháp luật không thống nhất giữa tòa án các cấp.
Xây dựng hệ thống tòa án hoàn chỉnh đáp ứng được việc hoàn thành
các chức năng, nhiệm vụ của Tòa án cũng là một trong những yếu tố ảnh
hưởng đến hiệu quả, chất lượng công tác xét xử. Một khi hệ thống Tòa án đã
xây dựng có tính quy chuẩn, khoa học, phù hợp với thực tiễn yêu cầu xét xử
44
thì quyền tư pháp của Tòa án sẽ được khẳng định. Hiện nay, Luật Tòa án nhân
dân vừa mới thông qua đã có quy định về việc thành lập và xây dựng “Tòa gia
đình và vị thành niên”, việc thành lập Tòa gia đình và vị thành niên là việc
xây dựng một tòa chuyên trách chuyên xét xử những vụ án tranh chấp giữa
các thành viên trong gia đình sẽ đồng nghĩa với việc chúng ta có một hệ thống
các Thẩm phán, cán bộ Tòa án chuyên về lĩnh vực hôn nhân và gia đình- một
lĩnh vực đặc thù trong các quan hệ xã hội. Tin tưởng rằng trong tương lai số
lượng và chất lượng xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình sẽ đạt được những
bước chuyển biến tích cực.
Nguồn nhân lực và cơ sở vật chất tốt cũng sẽ góp phần rất lớn vào hiệu
quả giải quyết tranh chấp. Việc củng cố đội ngũ cán bộ, công chức Tòa án
nhân dân các cấp như công tác bổ nhiệm Thẩm phán khắc phục tình trạng vừa
yếu, vừa thiếu trong đội ngũ Thẩm phán, nâng cao năng lực, phẩm chất chính
trị cho Thẩm phán; tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn
nghiệp vụ thông qua các lớp đào tạo như đào tạo Thẩm phán, tập huấn nghiệp
vụ thẩm tra viên, thư ký tòa án; xây dựng cơ sở vật chất, tranh thiết bị phục vụ
cho công tác xét xử của Tòa án.
Các yếu tố vừa trình bày chính là tiền đề, cơ sở cho việc giải quyết vụ
án tranh chấp nói chung và giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ
chồng khi ly hôn được thực hiện có hiệu quả, đảm bảo quyền và lợi ích của
các đương sự.
45
Kết luận chương 1
Việc làm rõ cơ sở lý luận của việc giải quyết tranh chấp về chia tài sản
chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ là cơ sở cho việc xem xét, đánh giá thực
trạng áp dụng pháp luật, thực tiễn công tác xét xử ở Tòa án các cấp, từ đó có
thể đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cường hiệu quả áp dụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_giai_quyet_tranh_chap_ve_chia_tai_san_chung_cua_vo.pdf