Bài thơlà một bức tranh thiên nhiên thanh tĩnh. Nếu thời gian trong bài “Vọng
Lưsơn bộc bố” là ban ngày có ánh nắng mặt trời chiếu rọi thì thời gian trong “Tĩnh
dạtư” là ban đêm, ánh trăng sáng bàng bạc, là nỗi suy tưtrong đêm trăng sáng.
Ba câu thơ đầu ngắn gọn hàm súc, miêu tảcảnh đêm thanh tĩnh. Ánh trăng
chan hòa, dịu hiền chiếu sáng trên bầu trời, mặt đất, vào tận phòng cho biết đêm sâu,
thanh bình yên tĩnh nên gió trăng mặc sức đến chơi. Nhận thấy ánh trăng rọi sáng đầu
giường, rõ ràng là người không ngủ. Trước ánh sáng lung linh vằng vặc ngỡrằng
“mặt đất phủsương”, sựliên tưởng phong phú đã tạo nên một hình ảnh thơtuyệt đẹp.
Một tâm hồn đa cảm dạt dào cảm xúc nhưLí Bạch làm sao có thểkhông rung động
trước vẻlộng lẫy hấp dẫn của chịHằng? Động tác “cử đầu” chỉtrong khoảnh khắc
cho thấy trăng ở đây còn là biểu tượng của một mảnh hồn cô đơn mơtìm tâm hồn tri
âm tri kỷ, thấy trăng nhưthấy “cốtri”, thấy trăng mà sinh ra nỗi nhớ, nỗi nhớluôn
tiềm ẩn trong tâm thức. Đó là tâm tình hết sức tựnhiên.
135 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2992 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giảng dạy thơ đường ở trường phổ thông dưới góc nhìn của thi pháp học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ải qua bốn đời vua, nội bộ nhà Đường rất biến động,
nhưng Hạ Tri Chương luôn được quý trọng, không hề bị biếm trích. Đây là điều rất
hiếm đối với quan lại – thi sĩ thời phong kiến. Năm Thiên Bảo thứ ba (744), ông xin
cáo lão về quê quy ẩn ở Kính Hồ, không lâu sau thì mắc bệnh qua đời, thọ tám mươi
sáu tuổi.
● Hồi hương ngẫu thư
Xa quê, nhớ quê, buồn rầu xa xứ là những đề tài quen thuộc trong thơ cổ -
trung đại phương Đông. Nhưng mỗi nhà thơ trong hoàn cảnh riêng lại có những cách
thể hiện riêng độc đáo, không trùng lặp. Còn gì vui mừng xốn xang hơn khi xa quê
lâu năm nay mới có dịp về thăm lại nơi mình đã từng chôn nhau cắt rốn? Rồi khi gặp
lại có những chuyện bất ngờ không sao nói lên lời. Hạ Tri Chương trong một lần về
thăm quê sau năm mươi năm xa cách cũng gặp một chuyện nao lòng như thế trong
bài Hồi hương ngẫu thư.
Phiên âm:
Thiếu tiểu li gia, lão đại hồi,
Hương âm vô cải, mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến, bất tương thức,
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Dịch nghĩa:
Rời nhà từ lúc còn trẻ, già mới quay về,
Giọng quê không đổi nhưng tóc mai đã rụng.
Trẻ con gặp mặt, không quen biết,
Cười hỏi: Khách ở nơi nào đến?
Dịch thơ:
Bản dịch thứ nhất:
Khi đi trẻ, lúc về già,
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao.
Trẻ con gặp, lạ lùng sao,
Hỏi rằng: Khách ở chốn nào lại chơi?
(Phạm Sĩ Vĩ dịch)
Bản dịch thứ hai:
Trẻ đi, già trở lại nhà,
Giọng quê không đổi, sương pha mái đầu.
Gặp nhau mà chẳng biết nhau,
Trẻ cười hỏi: Khách từ đâu đến làng?
(Trần Trọng San dịch)
Chữ ngẫu trong nhan đề ‘‘Hồi hương ngẫu thư’’ cho thấy nhà thơ không hề cố
ý làm thơ, cũng không hề nhắc đến năm mươi năm làm quan ở chốn cung đình,
chứng tỏ tất cả tâm tình đặt ở cái đích hồi hương. Bài thơ là một bức tranh sinh hoạt
giản dị, hồn nhiên; lời thơ tự nhiên, bình dị, như giọng nói chân chất của quê nhà
không hề trau chuốt.
Điều đặc biệt, cái thâm thúy của bài thơ là ở các mối quan hệ.
Bài thơ chỉ có bốn câu. Ba câu trước mang hình thức tự đối, tức là mỗi câu đều
tách ra thành hai vế đối nội bộ với nhau trong một dòng thơ. Riêng câu thứ tư, lại đối
lập với ba câu trước:
Thiếu tiểu li gia >< lão đại hồi,
Hương âm vô cải >< mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến >< bất tương thức,
><
Tiếu vấn: Khách tòng hà xứ lai?
Ở ba câu đầu, thể hiện tâm trạng bồi hồi xao xuyến của nhà thơ: Vừa vui vừa
buồn; nửa mừng nửa tủi. Đây là tâm trạng rất thực của con người bao năm xa cách
quê hương, giờ mới trở về. Dòng cảm xúc ấy như những ngọn triều tình cảm, những
đợt sóng lòng, buồn vui, mừng tủi cứ thế hòa quyện, không tự chủ được. Đọc câu thơ,
ta như hình dung thấy được bước chân hấp tấp, lập cập, líu ríu tay bắt mặt mừng,
nước mắt rơi xuống ướt cả nụ cười trên môi. Không kìm nén được, cụ già tám mươi
sáu tuổi ấy bỗng hóa trẻ thơ không điều khiển được cảm xúc của mình. Cũng đúng
thôi, đã bao nhiêu năm ra vào chốn lầu son gác tía, vinh hoa phú quý đã từng, dẫu giờ
đây đã là ông già đầu tóc bạc phơ nhưng vẫn là đứa con của quê hương với “giọng
quê không đổi” – lòng không thay đổi, vẫn nhớ quê hương dù thời gian có đổi.
“Giọng quê không đổi” cần được hiểu cả theo nghĩa rộng, nghĩa bóng. Đó là
tấm lòng không đổi, trách nhiệm với làng quê không đổi... Tâm tư khắc khoải, không
biết quê hương có còn nhớ mình chăng?
Gặp gỡ trẻ thơ, niềm vui khôn xiết (nhi đồng tương kiến), nhưng trẻ thơ lại
chẳng biết ông (bất tương thức)! Đột ngột, ngỡ ngàng và hụt hẫng biết bao! Không
thể trách chúng được. Ngày ra đi, chúng và ngay cả cha mẹ chúng cũng chưa ra đời,
chúng không biết và thực ra nhà thơ cũng không biết đó là con cái nhà ai. Mạch thơ
đến đây bỗng chững lại.
“Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai?”
Câu này tách ra, đối lập với ba câu trên. Tâm trạng ông lão thì náo nức... đầy
vẻ vồ vập, mà bọn trẻ lại xa lạ. Thái độ xa lạ với câu hỏi càng xa lạ hơn của bọn trẻ
đối lập hoàn toàn với tâm trạng của nhà thơ. Trước câu hỏi vô tư, thái độ ngoan
ngoãn thân thiện của trẻ thơ, ẩn dấu nỗi buồn thấm thía của tác giả. Còn gì buồn hơn
khi trở về nhà mình, quê mình lại trở thành khách lạ. Vì sao bài thơ không nhắc đến
những người lớn trong làng? Đó mới là chỗ trống đáng suy nghĩ trong thơ văn. Nhà
thơ chỉ mượn trẻ con để trách người lớn thờ ơ lãnh đạm với ông mà thôi. Người làng
quê thường biết ơn những người trực tiếp đem lợi ích cho làng, ai biết đâu cái ông
quan ở triều đình đến già mới về!
Không hề nói về tình cảm mà tình cứ hiện ra phập phồng xốn xang trên từng
câu, từng chữ. Trở về nơi chôn nhau cắt rốn mà được xem là khách, sự hớn hở vui
mừng đón khách của trẻ bao nhiêu thì nỗi lòng của nhà thơ càng tan nát bấy nhiêu.
Tình huống bất ngờ ấy đã tạo nên màu sắc đặc biệt của ý thơ, giọng thơ bi hài thấp
thoáng ẩn hiện sau lời tường thuật khách quan trầm tĩnh. Sinh động, chân thật biết
bao!
3.2.2. Vọng Lư Sơn bộc bố, Tĩnh dạ tư, Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng (Lí Bạch)
● Lí Bạch
Lí Bạch sinh năm 701 mất năm 762, tự Thái Bạch, hiệu Thanh Liên cư sĩ, sinh
ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê
ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thủy - tức Lũng Tây ngày xưa). Lí Bạch xuất thân
trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm. Lớn lên thích
giang hồ ngao du sơn thủy, năm 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, cùng năm người bạn
lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục
dật (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được tiến cử với Đường Minh Hoàng,
ông về kinh đô Tràng An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân
ngự dụng” nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thủy. Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết
làm bạn “vong niên” (bạn “quên tuổi tác”, không coi trọng tuổi tác - Đỗ Phủ nhỏ hơn
Lí Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, săn bắn được
nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương Nam. Những năm
cuối đời ông ẩn cư ở Lô Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông
Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm
trăng mà chết. Người đời gọi ông là “Thi tiên” (ông tiên trong làng thơ), “Tửu trung
tiên” (ông tiên trong làng rượu). Thơ Lí Bạch hiện nay còn khoảng 1.800 bài.
Qua thơ ca ông, có thể thấy quan niệm làm thơ của ông là theo phương châm
“kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân”, ông ra sức học tập Hán nhạc phủ. Vì
quán triệt phương châm kế thừa có phê phán, phục cổ để cách tân nên ông đạt được
những cống hiến trong thực tiễn sáng tác.
Tư tưởng Nho gia và Đạo gia đều tác động vào ông, nhưng tư tưởng Đạo gia
sâu sắc hơn nhiều. Ngay cả tư tưởng du hiệp cũng đóng góp phần hình thành phong
cách đặc biệt của ông.
Sáng tác của Lý Bạch là sự kết hợp hài hòa giữa tính lãng mạn và tính hiện
thực, trong đó tính lãng mạn chiếm phần thượng phong. Tuy nhiên, thơ ca phản ánh
hiện thực, tố cáo giai cấp thống trị và cảm thông với nhân dân lao động thì Lí Bạch
còn thua xa về chất lượng cũng như số lượng so với Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Ông chỉ
vượt hai người này về thơ ca lãng mạn có nội dung tích cực. Thơ của ông bay bổng
như muốn thoát ly khỏi đời thường, xem thường vinh hoa phú, tìm chén rượu tiêu
sầu, cầu tiên phỏng đạo và ngao du sơn thủy. Từ đó ông truyền cho thơ ca một hơi
thở mới, một nội dung tân kỳ ít thấy trong văn học cổ điển. Ông gửi gắm tâm hồn của
mình vào thiên nhiên. Thiên nhiên như một người bạn tri âm tri đắc, hiểu rõ nỗi lòng
ông, an ủi, giúp đỡ ông xua tan những cái xấu xa, đưa lại những điều tốt đẹp. Ngôn
ngữ thơ ông sinh động, hoa mỹ nhưng trong sáng, giản dị, tự nhiên, không hề có dấu
vết chạm trổ tỉ mỉ công phu. Thơ thất ngôn tuyệt cú của ông – cùng với Vương
Xương Linh – là thất ngôn tuyệt cú bậc nhất đời Đường, được xưng tặng là “tay
thánh tuyệt cú”. Đỗ Phủ cũng phải thán phục ông: “Bạch dã thi vô địch”. Vô địch ở
số lượng hơn hai mươi nghìn bài, vô địch ở chất lượng như lời Bì Nhật Hưu thời vãn
Đường nhận xét: “Từ khi nhà Đường dựng nghiệp đến nay, ngữ ngôn ra ngoài trời
đất, tư tưởng vượt xa quỷ thần, đọc xong thì thần ruổi tám cực, lường rồi thì long ôm
bốn bể, lỗi lạc dị thường, không phải là lời của thế gian, thì có thơ Lí Bạch”.[Dẫn
theo 17, tr. 23]
● Vọng Lư sơn bộc bố
Nếu như thơ Đỗ Phủ là những trang hiện thực của bao nỗi cơ cực buồn thương
thì thơ Lí Bạch là tiếng lòng lãng mạn trữ tình lành mạnh. Ta dễ bắt gặp ở thơ ông sự
liên tưởng độc đáo, mạnh mẽ của trí tưởng tượng phong phú, sự rung động sâu xa của
tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước nồng nàn mà bài thơ Vọng Lư Sơn bộc bố là một
điển hình.
Phiên âm:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên,
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên,
Phi lực trực há tam yên xích,
Nghi thị Ngân Hà lạc cửu thiên.
Dịch nghĩa:
Mặt trời chiếu núi Hương Lô, sinh làn khói tía,
Xa nhìn dòng thác trên dòng sông phía trước,
Thác đổ như bay ba ngàn thước,
Ngỡ là sông Ngân Hà rơi xuống tự chín tầng mây.
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay,
Xa trông dòng thác trước sông này,
Nước bay thẳng xuống ba ngàn thước,
Tưởng dải Ngân Hà tuột khỏi mây.
(Tương Như dịch)
Núi Lư (một quả núi ở tỉnh Giang Tây) có đỉnh Hương Lư (Hương Lô). Ngắm
nhìn thác núi Lư đổ nước xuống trắng xóa, xúc cảm trước cảnh đẹp thiên nhiên hùng
vĩ, Lí Bạch sáng tác bài thơ “Vọng lư sơn bộc bố”. Cá tính mãnh liệt, hào phóng của
ông thể hiện rõ trong bài thơ này.
Bài thơ theo thể thất ngôn tứ tuyệt, với hai mươi tám chữ mà nhà thơ đã dựng
lên trước mắt người đọc một bức tranh toàn cảnh thác núi Lư.
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên”
Câu đầu tiên tả khung cảnh và thế đứng uy nghi của núi Lư, lấy làn mây vẽ nên
cái nền rực rỡ của ngọn thác, mặt trời chiếu vào đỉnh núi sinh khói tía. Trong một câu
thơ Lí Bạch đã tả thế núi, ánh nắng mặt trời và màu khói tía bốc lên. Tất cả các hình
ảnh ấy được sắp xếp bằng những từ ngữ dễ hiểu, tự nhiên thể hiện óc quan sát, cách
miêu tả độc đáo, gây ấn tượng. Câu hai và ba miêu tả ngọn thác từ chính diện:
“Dao khan bộc bố quải tiền xuyên,
Phi lưu trực há tam thiên xích”
Từ xa nhìn, ngọn thác như từ trong mây tía tuôn ra. “Chữ quải” là lấy tĩnh tả
động, dòng chảy liên tục kết thành một dải rất hợp với “phi lưu” ở câu dưới. Ba câu
thơ đầu vừa truyền thần vừa truyền tình cảm.
“Nghi thị Ngân Hà tuột khỏi mây”
Thác núi Lư trắng xóa, lấp lánh, nhà thơ ngỡ ngàng tưởng như giải Ngân Hà
với những triệu vì sao tinh tú lấp lánh, rực rỡ, kéo dài rực sáng bỏ bầu trời để rơi
xuống mặt đất. Sự so sánh hợp lí, thú vị đã tạo nên một chi tiết vừa hư vừa thực phù
hợp với phong cách lãng mạn của nhà thơ.
Bức tranh thiên nhiên về thác núi Lư được miêu tả thật tinh tế. Tả thác nước
mà có núi sông, ánh nắng mặt trời, giải ngân hà... Hình ảnh con người không thấy
xuất hiện ở đây nhưng người đọc vẫn hình dung được, thấy con người nhỏ bé bị bao
trùm bởi khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Dưới ngòi bút của Lí Bạch, hình ảnh thác
sống động, mãnh liệt và dữ dội. Thác núi Lư là tác phẩm của thiên nhiên, kì quan của
thiên nhiên, còn Vọng Lư sơn bộc bố là kì quan nghệ thuật của “Thi tiên” Lí Bạch.
● Tĩnh dạ tư
“Vọng nguyệt hoài hương” là đề tài khá quen thuộc trong thơ Đường. Hình
ảnh vầng trăng tròn là biểu tượng của sự đoàn viên. Khi xa quê, trăng sáng, tròn bao
nhiêu thì càng gợi nhớ về quê cũ bấy nhiêu. Đêm yên tĩnh trên đường lữ thứ, tình quê
hương ngổn ngang trăm mối, tức cảnh sinh tình, nhà thơ viết lên một bài thơ tuyệt
diệu. Đề tài về trăng trong bài “Tĩnh dạ tư” đã mang lại cho người đọc biết bao rung
động và sự đồng cảm sâu xa.
Phiên âm:
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa:
Ánh trăng sáng đầu giường,
Ngỡ là sương trên mặt đất.
Ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng,
Cúi đầu nhớ quê cũ.
Dịch thơ:
Đầu giường ánh trăng rọi,
Ngỡ mặt đất phủ sương.
Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,
Cúi đầu nhớ cố hương.
(Tương Như dịch)
Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên thanh tĩnh. Nếu thời gian trong bài “Vọng
Lư sơn bộc bố” là ban ngày có ánh nắng mặt trời chiếu rọi thì thời gian trong “Tĩnh
dạ tư” là ban đêm, ánh trăng sáng bàng bạc, là nỗi suy tư trong đêm trăng sáng.
Ba câu thơ đầu ngắn gọn hàm súc, miêu tả cảnh đêm thanh tĩnh. Ánh trăng
chan hòa, dịu hiền chiếu sáng trên bầu trời, mặt đất, vào tận phòng cho biết đêm sâu,
thanh bình yên tĩnh nên gió trăng mặc sức đến chơi. Nhận thấy ánh trăng rọi sáng đầu
giường, rõ ràng là người không ngủ. Trước ánh sáng lung linh vằng vặc ngỡ rằng
“mặt đất phủ sương”, sự liên tưởng phong phú đã tạo nên một hình ảnh thơ tuyệt đẹp.
Một tâm hồn đa cảm dạt dào cảm xúc như Lí Bạch làm sao có thể không rung động
trước vẻ lộng lẫy hấp dẫn của chị Hằng? Động tác “cử đầu” chỉ trong khoảnh khắc
cho thấy trăng ở đây còn là biểu tượng của một mảnh hồn cô đơn mơ tìm tâm hồn tri
âm tri kỷ, thấy trăng như thấy “cố tri”, thấy trăng mà sinh ra nỗi nhớ, nỗi nhớ luôn
tiềm ẩn trong tâm thức. Đó là tâm tình hết sức tự nhiên.
Hai câu thơ cuối đối nhau rất chỉnh cả ý và từ (cử - đê; vọng – tư; minh nguyệt
– cố hương). Trăng viên mãn mà người xa cách, xúc cảnh sinh tình, nỗi nhớ quê từ đó
mà dấy lên, ánh trăng làm xót xa lòng người lữ thứ “tư cố hương”, câu thơ cuối là câu
thơ khép, điểm gút của bài thơ, là đỉnh cao cảm xúc của tác giả dồn nén lại.
Tình yêu quê hương đậm đà, như hơi thở, như máu trong tim của tác giả. Cả
bài thơ là vần bằng êm ả, nhẹ nhàng. “Ý tại ngôn ngoại”, chỉ với hai mươi chữ đơn
giản mà tình yêu thiên nhiên thơ mộng tuyệt vời, tình thương nỗi nhớ quê hương bao
la của Lí Bạch được hiện lên qua từng câu từng chữ trong bài “ngũ ngôn tứ tuyệt”
tuyệt diệu này.
● Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Phiên âm:
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cô phàm viễn ảnh bích không tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu”.
Dịch nghĩa:
Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía tây,
Xuôi về Dương Châu giữa tháng ba, mùa hoa khói.
Bóng cánh buồm lẻ loi xa dần, mất hút vào khoảng không
xanh biếc,
Chỉ thấy sông Trường Giang chảy vào cõi trời.
Dịch thơ:
Bạn từ lầu Hạc lên đường,
Giữa mùa hoa khói, Châu Dương xuôi dòng.
Bóng buồm đã khuất bầu không,
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
(Ngô Tất Tố dịch)
Chúng ta biết rằng, đề tài trong thơ của Lí bạch rất đa dạng và phong phú, viết
về tình bạn cũng là một trong những phương diện sáng tác thành công của ông. Có
thể nói rằng, Lí bạch là nhà thơ của tình bạn. Cuộc sống tha hương đây đó giúp ông
tiếp xúc với nhiều lớp người, kết giao với đủ hạng người. Tình bạn trong thơ Lí Bạch
không phân biệt tuổi tác, địa vị sang hèn, ông đặc biệt trân trọng những người bạn
văn chương, đó là những người bạn tri âm tri kỷ như Mạnh Hạo Nhiên, Đỗ Phủ…
Những người bạn ấy đã để lại dấu ấn khó phai mờ trong thơ ông.
“Chia li, tống biệt” cũng là đề tài quen thuộc trong thơ Đường. “Hoàng Hạc
lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng” là sự kết hợp giữa hai đề tài: tống biệt và
hữu nhân.
Bài thơ thuộc thể loại “thất ngôn truyệt cú” (còn gọi là thất ngôn tứ tuyệt). Kết
cấu của một bài thơ tuyệt cú có hai phần. Hai câu đầu tả cảnh mà trong cảnh có tình,
hai câu sau thể hiện tình cảm trên nền phong ảnh đã tạo trước đó và khi cái tình đã
được thoát ra thì bài thơ cũng chấm dứt. Bản dịch trong sách giáo khoa hiện hành
trích từ “Thơ Đường, tập 2, Nxb Văn học Hà Nội, 1987) do Ngô Tất Tố dịch bằng thể
thơ lục bát. Đây là thể thơ truyền thống của dân tộc Việt Nam, dễ thuộc dễ nhớ cũng
như ở phương diện biểu đạt tâm tình.
Trong thơ Lí Bạch, chúng ta thường thấy xuất hiện hình ảnh người phụ nữ,
người hiệp khách, người lao động và đặc biệt là hình tượng nhân vật trữ tình – tác giả
thì ở đề tài nào cũng có. Trong Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng
Lăng, vừa khai bút, tác giả đã nói đến cố nhân, một tình bạn sâu nặng gắn bó không
thể xa rời nhưng cảnh tống biệt vẫn cứ diễn ra. Nhà thơ đã mượn cảnh ngụ tình, lấy
cái ra đi để nói cái ở lại. Lấy cái động để nói cái tĩnh, lấy thiên nhiên để nói lòng
mình.
Cả bài thơ ngoài một tên người (Mạnh Hạo Nhiên) và bốn địa danh (Hoàng
Hạc lâu, Quảng Lăng, Dương Châu, Trường Giang), về nghĩa của từ trong bài thơ
cũng không khó hiểu, nhưng ẩn ý sâu xa của bài thơ lại vô cùng.
“Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu”,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”.
Trong cuốn “Đường thi tam bách thủ” do Lưu Đại Trường chú giải đã hiểu câu
này như sau: “Bạn cũ đi về hướng Đông, từ biệt tại bên lầu Hoàng Hạc này”. Còn
Trần Trọng Kim thì lại dịch: “Bạn cũ dời khỏi lầu Hoàng Hạc, ở phía tây”. Ngô Tất
Tố cũng đã hiểu câu này như sau: “Bạn cũ giã từ lầu Hoàng Hạc, ở phía Tây”.
Như vậy, Mạnh Hạo Nhiên đi từ phía Tây (tức là từ lầu Hoàng Hạc) đi xuống
phía Đông (tức là Dương Châu). Hay nói cách khác, Dương Châu ở hướng đối diện
với lầu Hoàng Hạc. Chỉ trong một câu thơ rất đơn giản mà nhà thơ đã gợi lên bao
nhiêu ý nghĩa. Ở đây không những là nhân vật mà còn là không gian, phương
hướng, vị trí, hành trình của người ra đi.
- “Yên hoa” là “hoa khói”, và có thể hiểu là hoa lồng khói, đồng thời từ “yên
hoa” còn gợi lên nét phồn hoa đô hội nơi mà bạn cũ sẽ đến (Dương Châu). Trong thơ
Đường ta thường bắt gặp chữ yên, mà yên lại thường đi với giang, với thủy “Yên ba
giang thượng sử nhân sầu” (Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu). Từ đó có thể thấy được
tính liên kết chặt chẽ gần như tuyệt đối của thơ Đường.
Ở câu thứ nhất, tả nơi bạn chia tay còn mở ra cái hướng mà bạn mình sẽ đi.
Đến câu thứ hai, không chỉ tả thời gian lúc chia tay mà còn gợi lên được cái nơi bạn
mình sắp đến. Địa danh Dương Châu ấy bắt đầu hiện lên trong tấm lòng người ở lại.
Khoảng cách giữa người đi kẻ ở là một dòng sông li biệt, thế cho nên tâm hồn của thi
nhân cứ dõi theo một cánh buồm của Mạnh Hạo Nhiên
“Cô phàm viễn ảnh bích không tận”
Không gian tống biệt là cả bầu trời, mặt nước, một màu bích không tận. Chữ
yên thường đi liền với hình ảnh sông nước, nhưng ở đây chưa đề cập đến sông nước
cụ thể mà đã thấy xuất hiện “Cô phàm” (cánh buồm lẻ loi). Câu trên liên ý với câu
dưới. Thuyền đã đi xa nên người mới trông theo cánh buồm cho đến khi cánh buồm
mất hút, lúc đầu còn rõ (cô phàm), rồi mờ dần, thấp thoáng, như thực, như hư (viễn
ảnh), cho đến khi cánh buồm cũng mất hút, chỉ còn thấy dòng Trường Giang mênh
mông sông nước. Cánh buồm tự bản thân nó không hề mang tâm trạng gì, song ở đây
nó lại đang trong một hoàn cảnh gợi nên sự hoang vắng, cô đơn làm cho con người
nghĩ đến sự cô lẻ: sông Trường Giang dài và rộng. Một cánh buồm so sánh với con
sông dài thì quả là bao la rộng lớn. Nhưng con sông dù dài rộng bao nhiêu thì vẫn
làm sao có thể sánh bằng với khoảng không gian xanh biếc vô tận trên đầu. Đó chính
là vũ trụ, vũ trụ bao la rộng lớn mà con người không bao giờ có thể thấy hay đo được
ranh giới của nó. Không gian mênh mông vô tận ấy thể hiện khát vọng vươn tới
của con người trước vũ trụ bao la và nỗi xót thương trước cảnh ly biệt, chia lìa.
Một cánh buồm lẻ loi đơn độc cứ xa dần, xa dần rồi mất hút vào khoảng xanh
vô tận, người đứng dõi theo chỉ còn thấy dòng sông dài chảy từ miệt trời xuống “Duy
kiến Trường Giang thiên tế lưu”. Sông Trường Giang đâu phải chảy từ cõi trời xuống
mặt đất, vậy tại sao Lí Bạch lại có sự nhầm lẫn đó? Chắc chắn là không, ông không
hề nhầm lẫn, sở dĩ ông viết như thế vì bây giờ, trước mắt ông: cánh buồm cô đơn, con
sông dài và khoảng trời xanh vô tận nó đã hòa làm một không còn phân biệt được
nữa. Những hình ảnh tương phản: cánh buồm, dòng sông là hữu hạn; khoảng không
gian xanh biếc là vô hạn. Cái hữu hạn và vô hạn khi đã hòa làm một thành một chỉnh
thể thống nhất đã không còn đối lập nhau mà chỉ bổ sung cho nhau. Cánh buồm càng
lẻ loi đơn độc, thì dòng sông càng dài càng rộng và sông càng rộng càng dài làm cho
bầu trời xanh đã bao la mênh mông càng thêm bất tận.
Dưới ngòi bút trữ tình đậm đà của ông, tứ thơ hiện lên giản dị mà trau chuốt,
nói ít gợi nhiều. Các yếu tố thanh nhịp vần đối và câu thơ đều được tài thơ lão luyện,
khéo léo đưa vào dụng ý biểu đạt tâm hồn thơ và tình điệu của bài thơ. Tất cả hòa
quyện trong một chỉnh thể nghệ thuật vừa đẹp vừa tinh luyện. Bài thơ chỉ có hai mươi
tám chữ, Lí Bạch không hề dùng một chữ buồn, chữ bi, chữ luyến. Không nói tình mà
thấy tình, không nói buồn mà cảm giác được cả một nỗi buồn man mác mênh mông.
Diễn tả cảm giác chia ly, người ta đâu nhất thiết phải dùng chữ sầu, chữ thương chữ
khổ. Cái hay cái tài là thế, đấy chính là cái tuyệt diệu của thơ Đường nói chung và thơ
Lí bạch nói riêng: lời ít ý nhiều “ý ngoài lời” (Ý tại ngôn ngoại).
Ta đã từng biết một Lí Bạch yêu tự do, phóng khoáng, mãnh liệt, ngang tàng
và kiêu hãnh… Với những bài thơ về tình bạn, ta lại biết thêm một Lí Bạch đằm thắm
ân tình. Tình bạn chân thành, chung thủy, muôn đời vẫn là tình cảm đẹp của con
người.
3.2.3. Mao ốc vị thu phong sở phá ca, Thu hứng (Đỗ Phủ)
● Đỗ Phủ sinh năm 712 mất năm 770, tự Tử Mĩ, người ở huyện Củng, tỉnh Hà
Nam, xuất thân trong một gia đình Nho học, làm quan suốt mấy đời, nhưng đến đời
ông thì sa sút nghiêm trọng. Ông lại sống trọn vẹn trong hoàn cảnh loạn ly (loạn An
Sử), ngược xuôi chạy loạn, gia đình ly tán, con chết đói... và rồi ông cũng chết thảm
thương vì đói và bệnh tật trong một chiếc thuyền rách nát trên sông Tương nơi đất
khách quê người.
Thơ của Đỗ Phủ thấm máu và nước mắt của nhân dân trong thời buổi loạn ly.
Nếu trong thơ Lí Bạch có dòng sông hát ca, chim muông ríu rít, vầng trăng duyên
dáng thì trong thơ Đỗ Phủ dòng sông nức nở, vầng trăng thổn thức và chim muông,
cỏ cây câm lặng, úa vàng.
Người đời gọi thơ ông là một tập Thi sử (một bộ sử viết bằng thơ). Men theo
năm tháng của các bài thơ ra đời, chúng ta có thể thấy được những nét chính của đời
sống chính trị, xã hội đời Đường trước và sau loạn An - Sử. Gọi thơ ông là Thi sử bởi
vì cái ấn tượng binh đao khói lửa nội chiến mà thơ ông gieo vào lòng người còn sâu
sắc gấp trăm lần các bộ sách viết về thời này. Nhưng Đỗ Phủ không hề “viết sử” một
cách khách quan. Ông đã đứng hẳn về phía “dân đen”, coi nỗi đau của họ như nỗi đau
của chính mình, ước mong san sẻ gánh nặng cơm áo và dằn vặt tâm linh với họ. Tư
tưởng nhân đạo của Đỗ Phủ là đỉnh cao của chủ nghĩa nhân đạo dưới thời phong kiến.
Một nhà nho suốt đời long đong lận đận nhưng luôn quan tâm đến vận nước, mà quan
tâm đến vận nước cốt để giảm nhẹ gánh nặng cơm áo và sự dằn vặt tâm linh của
người dân bình thường. Bài “Mao ốc vi thu phong sở phá ca” (Túp lều tranh bị gió
cuốn sập) thể hiện rõ nhân cách của ông.
Ông viết về mọi đề tài nhưng hầu như không có đề tài nào thoát ly thời cuộc.
Ảnh hưởng của Đỗ Phủ đến đời sau rất sâu sắc. Đó là ảnh hưởng về nhân cách, luôn
luôn đồng cam cộng khổ với nhân dân, lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ. Đó còn là
tài năng thơ ca, một tài năng siêu việt được Nguyễn Du tôn làm bậc thầy của văn
chương muôn thuở. Đỗ Phủ để lại cho đời hơn 1.400 bài thơ, phân thành hai loại lớn:
cổ thể thi và cận thể thi.
Với nhân cách cao thượng, tài năng trác việt, Đỗ Phủ được người dân Trung
Quốc gọi là “Thi Thánh”, xứng đáng với danh hiệu “Danh nhân văn hoá thế giới”.
Bút pháp hiện thực cũng như tinh thần nhân đạo cao cả của thơ ông đã ảnh hưởng
rộng đến thơ ca Trung Quốc đời sau.
● Mao ốc vị thu phong sở phá ca
Sau bao nhiêu năm vất vả, lận đận, cơm không đủ no áo không đủ ấm. Năm
760, được bạn bè và người thân giúp đỡ, Đỗ Phủ dựng được một căn nhà tranh bên
cạnh khe Cán Hoa phía tây Thành Đô. Vừa được mấy tháng thì căn nhà đã bị gió phá
nát, không còn nơi nương tựa. Xót xa trước cảnh này, ông đã làm bài thơ “Mao ốc vị
thu phong sở phá ca”.
Phiên âm:
Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao,
Cao giả quải quyển trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiêu khẩu táo hô bất đắc,
Quy lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định, vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết,
Kiêu nhi ác ngoạ đạp lí liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên,
Trường dạ triêm thấp hà do triệt!
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động, an như sơn.
Ô hô! Hà thì nhãn tiền đột ngột hiện thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc!
Dịch nghĩa:
Tháng tám , đang mùa giữa thu, gió gào dữ dội,
Cuốn phăng cả mấy lớp nhà tranh trên mái nhà ta.
Tranh bay qua sông, rải rác khắp cả vùng ven sông,
Cái bay cao thì mắc trên ngọn cây rứng,
Cái bay thấp thì quay lộn rồi rơi xuống vùng chuôm ao
chìm nghỉm.
Lũ trẻ xóm Nam khinh ta già yếu,
Trước mắt ta dám làm k
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVVHPPDH002.pdf