MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN.3
MỤC LỤC.4
PHẦN MỞ ĐẦU.6
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI . 6
2.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. 7
2.1.Về văn bản . 7
2.2.Về các công trình nghiên cứu . 10
3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU . 14
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU . 15
4.1.Về đối tượng khảo sát . 15
4.2.Về nội dung. 15
5.KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN. 16
CHƯƠNG 1: BẮC HÀNH TẠP LỤC - TẬP THƠ ĐI SỨ CỦA NGUYỄN DU.18
1.1.THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA NGUYỄN DU. 18
1.2.THƠ ĐI SỨ. 26
1.2.1.Tình yêu thiên nhiên và tình cảm gắn bó với con người. . 27
1.2.2.Khí phách và trách nhiệm của công dân Đại Việt ở Bắc Quốc . 38
1.2.3.Tình yêu của sứ giả đối với quê hương đất nước. . 42
1.3.BẮC HÀNH TẠP LỤC - NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU. 47
1.3.1.Nguyễn Du với nhân vật văn hóa - lịch sử Trung Quốc. 48
1.3.2.Nguyễn Du với phụ nữ . 665
1.3.3.Nguyễn Du vối người nghèo. 74
CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP
BẮC HÀNH TẠP LỤC CỦA NGUYỄN DU .82
2.1.KHÁI NIỆM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT . 82
2.2.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI. 83
2.3.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP BẮC HÀNHTẠP LỤC . 87
2.3.1.Con người yêu thương . 89
2.3.2.Con người đời thường. 116
2.3.3.Con người vũ trụ.132
PHẦN KẾT LUẬN.150
PHẦN PHỤ LỤC CHÚ THÍCH .153
TÀI LIỆU THAM KHẢO .155
161 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 687 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hình tượng nghệ thuật về con người trong tập Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ các bậc đế vương. Dường như đối với người nghe lúc này thì tiếng đàn là
tuyệt vời nhất, đáng nói nhất:
"Ai này nghe nhường quên mệt mỏi,
Rỗ tiếng đàn đại nội Trung Hòa
Tây Sơn quên cả tiếng gà tan canh.
Tả lại hữu tranh giành gieo thưởng,
Tiền như bùn ước lược qua qua."
(Long Thành cầm giả ca)
Ca ngợi tài sắc của giai nhân đất Long Thành, lời thơ của Nguyễn Du còn thấm
đượm ý vị triết lý nhân sinh về vinh, nhục, thăng, trầm ở đời. Tài sắc, tài hoa từ bao đời
nay vẫn thế, lúc nào cũng đứng trước thử thách nghiệt ngã của cuộc đời. Đằng sau từng
câu từng chữ của Long Thành cầm giả ca, ta cảm nhận sâu sắc hơn chất triết lý rất đời ấy.
Lần này Nguyễn Du trở lại Thăng Long trong tâm thế khác. Là một ông chánh sứ.
Trong bữa tiệc hoa của quan Tuyên phủ sứ Hà Thành, có rất nhiều ca nhi, kỹ nữ xinh
tươi. Ấy vậy mà thật là lạ. Đôi mắt của Nguyễn Du cứ đăm đắm nhìn về phía cuối chiếu:
73
"Mé cuối tiệc một người nho nhỏ,
Tóc hoa râm mặt võ mình gầy
Bơ phờ chẳng sửa đôi mày".
Tiếng đàn ấy đã gợi cho Nguyễn Du biết bao nỗi niềm tâm sự. vẫn là tiếng đàn tài
hoa của ngày xưa, chỉ cổ điều người đàn đã tàn tạ, héo khô đi rất nhiều ... Trước sự thay
đổi lạnh lùng và nghiệt ngã ấy, nỗi đau trong ông hiện lên rất đời, rất thực...
Dưới con mắt của một người nghệ sĩ, quỉ luật tự nhiên của tạo hóa mới vô tình và
nghiệt ngã làm sao. Đối với giai nhân, thi sĩ thì cái đẹp là của cải vô giá. Nguyễn Du cũng
là một nghệ sĩ nên ông rất ý thức về điều đó, rằng những trang quốc sắc thiên hương luôn
tâm niệm "bất hứa nhân gian kiến bạch đầu". Thế mà hôm nay, ông lại gặp những người
con gái xưa, kẻ con bồng, con dắt, người xơ xác, tiều tụy héo khô ... Đứng trước bao nỗi
niềm ngổn ngang ấy, Nguyễn Du đã thốt lên những câu thơ giữa mênh mang cảm xúc.
"Phúc bồn dĩ hỉ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thuổng tại vị tuyệt ty!
Kiến thuyết giả nhân dĩ tam tử,
Khả liên do trước khứ thời y
(Ngô gia đệ cựu ca cơ)
(Chậu đổ thôi rồi khôn vớt lại,
Ngó lìa thương nỗi vướng tơ này
Lấy chồng đã có ba con nhỏ,
Áo cũ thương sao mặc đến nay!)
Sợi tơ sen vấn vương hay cõi lòng ông đang luyến lưu không muốn rời đứt với
những kỷ niệm xưa đang ồ ạt hiện về?. Tất cả những tâm sự ấy đã về cùng ông để thổi
bùng lên ngọn lửa yêu thương trong trái tim đa cảm ấy.
74
1.3.3.Nguyễn Du vối người nghèo
Thơ Đường trước Đỗ Phủ cũng như thơ Việt Nam trước Nguyễn Du hầu như chưa
có yếu tố hiện thực.
Chói sáng tên tuổi Nguyễn Du trên thi đàn không phải chỉ vì nghệ thuật tuyệt diệu
trong Truyện Kiều mà là tính hiện thực và nhân đạo rộng lớn và sâu sắc như biển cả. Câu:
"Văn chương hợp vi thời nhì trước,
Thi ca hợp vi sự nhi tác"
(Làm văn phải vì thời thế,
Làm thơ phải vì hiện thực)
của Bạch Cư Dị xưa kia đã được Nguyễn Du tuân thử khá triệt để, có phần nổi trội
hơn. Kể ra điều này cũng dễ hiểu bởi vì Nguyễn Du sống cách Bạch Cư Dị cả hàng ngàn
năm và được nuôi dưỡng bằng luồng gió mới của thời đại, khi chế độ phong kiến đã bước
vào giai đoạn suy tàn.
Tiếng thơ trong Bắc hành lồng lộng một tấm lòng cảm thương, sẻ chia với những số
phận tủi cực, khổ nhục của nhân dần lao động.
Đi sứ Trung Quốc, Nguyễn Du đã tận mắt thấy được bao cảnh đời cơ cực. Phải đâu
chỉ có người dân đất Việt mới lầm than đói rách, phải đâu chỉ có gia đình của Nguyễn Du
mới khốn khó, đói nghèo! Hiện thực trước mắt đập vào khiến ông phải ngỡ ngàng, chua
xót:
"Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão,
Trung Hoa diệc hữu như thử nhân!
(Thái Bình mại ca giả)
(Nghe nói Trung Hoa no ấm cả,
Trung Hoa cũng có cảnh này sao?)
75
Những tưởng nhân dân Trung Quốc no ấm, đủ đầy lắm, chẳng ai ngờ Trung Hoa
cũng như đất Việt. Tất cả những tiếng kêu ấy không phải là những tiếng kêu suông,
những công thức thơ mà là tâm huyết, là máu thịt phát ra từ trái tim ông dành cho dân
nghèo. Ông chợt nhận ra rằng xưa cũng như nay, Trung Quốc cũng như Việt Nam, lịch
sử xã hội phong kiến trì trệ đâu đã có gì thay đổi! Giai cấp thống trị dù là ở thời nào, dù
là ở đâu thì có khác gì nhau, chúng đều là một lũ sâu dân mọt nước. Chúng luôn sống phê
phơn, sung túc bên cạnh những cuộc đời đói khổ bơ vơ. Thi nhân chợt nhận ra rằng sự
thống khổ lầm than đang tràn mênh mông, đang bao trùm xuống và phủ chụp hết thảy
mọi kiếp người. Ta hiểu tại sao đi đến đâu, gặp cảnh đói nghèo chết chóc, Nguyễn Du
cũng đều cúi mình xuống thật thấp để nâng đỡ, xoa dịu, vỗ về và dỗ dành mà không hề
phân biệt. Ông đau lòng trước cảnh mất mùa, đói kém phải bỏ làng đi ặn xin của mấy mẹ
con người hành khất.
"Mẩu tử bất túc tuất
Phủ nhi tăng đoạn trường
Kỳ thống đại tâm đầu
Thiên nhật giai vị hoàng
(Sở kiến hành)
(Mẹ chết không đáng tiếc
Vỗ về con mà thêm đứt ruột
Trong lòng đau xót lạ lùng
Mặt trời cũng vì người mà vàng ùa)
Và
"Đại Nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang ti vi thực lê vi canh
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo
76
Hoài trung táo tử thân biện khuynh
(Trở binh hành)
(Trai lớn, gái nhỏ đói xanh mặt
Cám nấu thay cơm, cỏ nấu canh
Mắt thấy người đói bên đường chết
Hột táo trong bọc lăn bên mình)
Đó là "Những điều trông thấy" mà Nguyễn Du đã nhìn tận mắt. Một người mẹ dắt
ba đứa con, áo quần nhếch nhác, bẩn thỉu ngồi xin bên đường từ sáng sớm đến trưa mà
vẫn chưa có gì ăn; người mẹ nước mắt đầm đìa, không dám nhìn ai tận mặt. Nhưng đau
xót hơn nữa là những đứa bé hãy còn thơ dại quá, chưa hiểu nổi cái khổ đau đang giày vò
mấy mẹ con, cứ cười nói vui vẻ như thường. Dọc đường phố đầy những thây người chết
đói. Trước cảnh tượng thảm thiết ấy, mặt trời cũng xót xa đến ùa vàng, vậy mà những kẻ
có trách nhiệm với nhân dân thì "bình chân như vại" cứ thản nhiên ăn uống xa xỉ, vui
chơi thỏa thích. Thức ăn thừa mưa đến nỗi "Quan lớn không chọc đũa, kẻ tùy tùng chỉ
nếm qua" đến nỗi "con chó bên hàng xóm cũng chán thức ăn ngon". Thật không còn cách
nào làm nổi bật lên được cái bất công đến tàn nhẫn như thế hơn được nữa.
Mỗi một bài thơ là một nét bút sắc nhọn vẽ đúng hiện thực mà ông đang nhìn thấy.
Đó là nỗi thống khổ của "dân đen" như chiến tranh, mất mùa, thiên tai, đói rét, chết chóc,
cuộc sống phiêu dạt khổng nhà cửa. Và duy chỉ Nguyễn Du là người đầu tiên nhận ra sức
mạnh của đồng tiền, uy lực của nó đối với cuộc sống của con người trong thời đại của
mình. Không có tiền, họ trở thành những người đói rách, đáng thương. Họ có thể chết bất
cứ lúc nào và cũng có khi vì miếng cơm, họ đã đánh mất danh dự
"Khẩu phún bạch mạt, thủ toan xúc
Khước tọa, liềm huyền, cáo chung khúc
Đàn tận tâm lực cơ nhất canh
Sở đắc đồng tiền tận ngũ lục
77
Tiểu nhỉ dẫn đắc há thuyền lai
Do thả hồi cố đảo đa phúc"
(Thái Bình mại ca giả)
(Miệng sùi bọt, tay rã rời,
Ngồi yên, cất đàn, ngỏ lời đã đàn hát xong
Dốc hết tâm lực gần một trống canh,
Mà chỉ được năm, sáu đồng tiền.
Đứa bé dẫn được ra khỏi thuyền
Còn quay đầu lại ngỏ lời chúc "đa phúc")
Thật là chua xót khi người nghệ sĩ này phải đứng nhìn người nghệ sĩ khác lạy tạ sau
khi đã cống hiến đến sức tàn lực kiệt. Còn đâu là tiếng đàn tri âm tri kỷ?. Chỉ còn lại giữa
đời là tiếng thét lanh lảnh, tiếng kêu thảng thốt đến uất ức khi nhìn vào hiện thực.
Hẳn sẽ có người ngạc nhiên tại sao Nguyễn Du lại có mối đồng cảm sâu sắc với
người nghèo khó trong khi ông xuất thân từ một dòng dõi cao quí? Đúng là như thế.
Đúng là Nguyễn Du đã có một tuổi thơ nhung lụa, sang quí, nhưng quãng đời tươi đẹp ấy
đã chấm hết khi ông bước sang tuổi li. Những ngày kế tiếp là những tháng ngày nổi trôi,
long đong, lận đận khắp bốn bể chân ười. Suốt thời gian ở chân núi Hồng ông đã nếm trải
đủ cảnh đói nghèo, bệnh tật. Ông đã từng "ngắm hoa cục nở cho qua bữa", "Bệnh nặng
mà không có tiền uống thuốc", đã từng sống nương nhờ nhà người khác. Chính vì thế thơ
ông luôn thấm đẫm hiện thực và sức tố cáo sâu sắc.
"Quân bất kiến sứ thuyền triều cung đốn lệ
Nhất thuyền, nhất thuyền doanh nhục mễ
Hành nhân bão thực tiện khí dư
Tàn hào lãnh phạn trầm giang để"
(Thái Bình mại ca giả)
78
(Anh chẳng thấy lệ cung đốn mỗi ngày cho thuyền đi sứ
Thuyền này thuyền nọ đều đầy gạo thịt,
Người trong đoàn sứ ăn no còn thừa thì vất
Cơm nguội, thức ăn thừa đổ xuống đáy sông)
Và ở một chỗ khác
"Lộc cân tạp ngư xí
Mãn trác trần trư dương
Trưởng quan bất hạ trợ
Tiểu môn chỉ lược thường"
(Sở Kiến hành)
(Gân hươu cùng vây cá
Đầy bàn thịt lợn, thịt dê
Quan lớn chẳng đụng đũa
Tùy tùng chỉ nếm qua loa)
Đọc những câu thơ này chúng tôi tin rằng tiếng thơ của Nguyễn Du được xuất phát
từ một mối đồng cảm "từ dưới lên" với nhân dân chứ không phải là sự ban ơn của kẻ bề
trên đối với người dưới. Nguyễn Du, xét cho cùng cũng đã từng lâm vào cảnh hàn vi, khi
chạy loạn về quê vợ đến những năm nương náu dưới chân núi Hồng, nên ông dễ cảm
thông với cảnh đời cùng khổ của nhân dân, đó cũng là nguyên nhân nảy sinh tư tưởng
nhân ái trong ông. Tuy nhiên, điều này chỉ đúng một nửa. Bao nhiêu nhà nho xưa kia
cũng xuất thân từ cảnh hàn vi như Nguyễn Du, nhưìig đã có bao nhiêu người có được tấm
lòng, tình yêu thương nhân dân vô cùng sâu sắc như ông? Hay khi trở thành một lớp
người đặc quyền đặc lợi trong xã hội, đa số họ đã quên mất vai trò kẻ sĩ của mình đối với
nhân dân và nền văn hóa dân tộc; rút cục thú vui của cuộc đời họ là nhấm nháp cái thi vị
của từ chương, cú pháp, với văn chương Đường Tống.
79
Cái sĩ diện của phong kiến nhẫn tâm đến thế là cùng! Càng làm to, chúng càng tỏ ra
mình là lớn lao, sang trọng, phải ăn uống no nê đủ đầy, chán chê ở nhà chứ ở những bữa
tiệc đông người thế này thì không thèm chọc đũa. Ngay cả bọn tôi tớ cũng thế! Nhưhg
mặt khác, hình ảnh tương phản trên còn là một lời tố cáo đanh thép, sắc nhọn rằng bọn
chúng đã luôn phải ăn ngon, đến nỗi phải sợ cả thịt! Và cái xã hội cố giai cấp ác nghiệt ấy
như là những bức tường dày, vững chắc, không thể nào xuyên qua được. Trong bài "Hà
Nam đạo trung khốc thử", giữa cảnh nắng cháy tràn, gió tắt im phăng phắt, sau khi tả
những người đi đường vẫn qua lại dưới ánh nắng gay gắt của mặt trời, tả những con ngựa
mệt nhoài vì kiệt sức, đã kêu rít lên ... Nguyễn Du đã vứt hẳn cái mũ ông quan của mình
và cúi xuống thật gần người phu xe ấy:
"Hà xứ thôi xa hán
Tương khan lục lục đồng"
(Hà Nam đạo trung khóc thử)
(Anh chàng đẩy xe kia quê ở đâu nhỉ?
Nhìn nhau thấy vất vả như nhau)
Còn, còn nhiều nữa những cảnh đời cay cực, long đong và đói khổ của nhân dân mà
Nguyễn Du đã nhìn thấy. Trong ông luôn luôn đậm đặc những tình cảm xót thương cho
người nghèo, người bị đói. Vì thế lời thơ của ông nặng nề hơn, u uất hơn:
"Mã minh tư tự mạt
Dân thực bán tùy khang"
(Tín Dương tức sự)
(Ngựa kêu đòi thức ăn ngon
Dẫu ăn nửa tấm cám)
Mâu thuẫn lại lồ lộ trước mắt. Dường như bao giờ cũng thế. Thơ Nguyễn Du luôn
luôn là một bức tranh tương phản đến chặt chẽ từ lời thơ, hình ảnh đến cấu tứ. Con ngựa
này có thể là con ngựa đã kéo xe cho đoàn sứ Nguyễn Du, còn dân có thể là những người
80
mà Nguyễn Du đang ở trọ trong nhà họ. Hay cũng có thể đó là những cảnh mà Nguyễn
Du bất chợt gặp trên đường. Có thể nói chưa lúc nào Nguyễn Du thấy mình gần gũi nhân
dân như lúc này. Những vần thơ thấm đẫm chất hiện thực của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị xưa
kia lại được dịp sống dậy và tràn về tâm hồn ông, giúp ông yêu thương hơn, cảm thông
hơn với những người nghèo khó ấy.
Nhà văn Lermontop (1814 - 1841) đã có một câu nói rất cảm động: "Tôi ra đời ở
đây, nhitìig tâm hồn tôi không ở đây". Bi kịch của nhà văn Nga là ở mối mâu thuẫn giữa
thực tại với đời sống và những mong ước của người nghệ sĩ đối với thực tế. Sự dằn xé
khôn nguôi ấy đã khiến tâm hồn người nghệ sĩ không yên ổn, họ phải đi đến những nơi
xa, khát khao tìm kiếm một chân trời mà ông hi vọng có thể phù hợp với khát vọng của
mình. Còn sự ra đi của Nguyễn Du phải chăng là một sự may mắn đến bất ngờ của lịch
sử, trước một thực tại xã hội đầy biến động, thì điểm dừng của Nguyễn Du tại Trung
Quốc có ý nghĩa vô cùng to lớn. Nơi đây Nguyễn Du đã dành cho các thi nhân Trung
Quốc, cho những bậc hiền thần những món quà gan ruột: những bài thơ. Bên cạnh đó,
Nguyễn Du cũng nghiêng mình thấp xuống để cảm thông, để bênh vực, để chở che và
trân trọng với những số phận của kiếp hồng nhan, của ca nhi, kỹ nữ, của những người dân
vì đói vì rét phải bán con, phải lăn lóú nằm chờ chết bên vệ đường.
Công cuộc đi sứ đã tạo điều kiện cho Nguyễn Du trải rộng lòng mình trên mỗi
chặng đường, dành cả tâm hồn để bắt nhịp với những khúc nhạc lòng xưa và nghiêng
mình chiêm vọng. Bản nhạc lòng ấy xin cho phép chúng tôi được trình bày kỹ ở chương
2.
Cuối cùng, xin mượn lời của Giáo sư Mai Quốc Liên và Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị làm
lời kết cho phần này: "Thơ chữ Hán của Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật
trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một
ngàn năm thơ chữ Hán của ông cho ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của
Trung Quốc nữa" (Lời của Giáo sư Mai Quốc Liên)(7) và Tiến sĩ Bùi Mạnh Nhị khẳng
định thêm: "Tìm hiểu Nguyễn Du mà chỉ nhắc đến Truyện Kiều và một số tác phẩm thơ
Nôm khác thì mới chỉ nói được một nửa THIÊN TÀI MẸ ấy" (8). Và chúng tôi tin rằng
81
nó rất xứng đáng để nhiều nhà nghiên cứu tốn giấy mực hơn nữa, sẽ trỏ nên quen thuộc
như Kiều, sẽ làm mọi người say mê như hôm nay tôi đã.
82
CHƯƠNG 2: HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
TRONG TẬP BẮC HÀNH TẠP LỤC CỦA NGUYỄN DU
2.1.KHÁI NIỆM HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: "Hình tượng nghệ thuật là sản phẩm của
phương thức chiếm lĩnh, thể hiện và cải tạo hiện thực theo qui luật của nghệ thuật" (9).
Như vậy theo định nghĩa này thì chúng ta có thể hiểu rằng nhà văn khi sáng tác đã chọn
lọc, xây dựng và làm sống lại các yếu tố, hiện tượng của cuộc sống bằng hình tượng.
Hình tượng nghệ thuật, một mặt hiện thực hóa những suy nghiệm của nhà văn về cuộc
đời, mặt khác, nó có khả năng tồn tại độc lập như một khách thể đời sống thực thụ.
Điều này lý giải nguyên nhân tại sao khi xây dựng tính cách hoạt động của nhân vật,
nhà văn thường khó kiềm chế được cảm xúc của mình. Có lúc họ tưởng chừng như chính
mình là nhân vật, đang mang lấy niềm vui và nỗi buồn của nhân vật. Đối với những tác
phẩm văn học có giá trị cũng như những tác phẩm điện ảnh nổi tiếng, nhân vật sống và
tồn tại độc lập đến nỗi người ta quên tên tác giả, quên tên thật của diễn viên. Chỉ nhớ đến
nhân vật. Trong văn học thế giới, người ta nhổ đến Natasa trong "Chiến tranh và hòa
bình", Hạ Du trong "Thuốc". Trong vãn học Việt Nam là nàng Kiều trong Truyện Kiều,
chị Dậu trong Tắt Đèn...
Cũng theo từ điển thuật ngữ văn học: " về mặt cấu trúc, hình tượng nghệ thuật là
một cấu trúc thống nhất, chặt chẽ và hạt nhân của cấu trúc này là phức hợp của một quan
hệ xã hội - thẩm mỹ. Trước hết, đó là mối quan hệ giữa thế giới trong tác phẩm và thực
tại mà nó phản ánh. Thứ đến, quan hệ của tác giả đối với cuộc sống trong tác phẩm, quan
hệ giữa tác giả với người đọc, quan hệ hình tượng với ngôn ngữ của một nền văn hóa.
Cuối cùng, quan hệ giữa các yếu tố của bức tranh đời sống" (10). Hình tượng nghệ thuật
đước xây dựng do sự chọn lọc, tái tạo của nhà văn, vì thế nó phản ánh cả quan niệm,
nhận thức của nhà văn đối với cuộc sống. Tim hiểu hình. tượng nghệ thuật, thực chất
cũng chính là tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của tác giả thông qua hình tượng trong tác
phẩm.
83
Trần Đình sử còn giải thích thêm: "Quan niệm không phải là khái niệm về đối
tượng, về hiện thực, mà là khái niệm về sự cắt nghĩa đối với đối tượng và hiện thực... Do
vậy, quan niệm xét về bản chất là một khái niệm về chủ thể, khái niệm về hệ qui chiếu,
thể hiện tầm lý giải, tầm hiểu biết, tầm trí tuệ, tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm
hoạt động của chỏ thể. Quan niệm cung cấp một mặt bằng để trên đó diễn ra sự lựa chọn,
khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tượng." (11)
Trong tác phẩm, quan niệm nghệ thuật được biểu hiện bằng sự lặp lại trên nhiều
bình điện, nhiều cấp độ, thể hiện cách lý giải, cách cắt nghĩa hình tượng. Xem Bắc Hành
tạp lục, chúng tôi thật sự ngạc nhiên trước các cuộc gặp gỡ giữa ông đối với những nhân
vật lịch sử như Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch. Chưa bao giờ Nguyễn Du gặp họ thực
sự. Ông chỉ găp họ qua những vần thơ còn lại giũa cuộc đời thế mà Nguyễn Du đã hiểu
họ biết nhường nào. Chính những vần thơ của những nhà thơ Trung Quốc đã sống một
cuộc đời độc lập trong ông, và sức sống ấy lại mãnh liệt trong ông biết nhường nào bởi
Nguyễn Du là một nghệ sĩ, một nghệ sĩ chân chính như những nhà thơ xưa.
Sức sống của những Hoài Sa, Ly Tao, Tự kinh phó phụng tiên, Tỳ bà hành, Trương
Tiến Tửu đã được thai nghén và hạ sinh ra từ những tư tưởng, tình cảm của cuộc đời nhà
văn, từ những chân lý đời sống mà nhà văn đã nhọc công tìm kiếm.
Khuất Nguyên viết Ly Tao từ nỗi đau của lý tưởng không thực hiện được, Đỗ Phủ
viết bằng máu và nước mắt của cuộc đời mình, Lý Bạch viết ra từ sự khao khát tự do, còn
Nguyễn Du viết Truyện Kiều và thơ chữ Hán từ những điều trông thấy, từ hiện thực của
chính cuộc đời mình...
2.2.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI
"Con người là yếu tố đầu tiên và cũng là trung tâm trong thế giới nghệ thuật của
một bài thơ hay một dòng thơ, góp phần bộc lộ quan niệm nghệ thuật của một tác giả hay
một bộ phận tác giả văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một phạm trù rất
quan trọng của văn học." (12)
84
Văn học nghệ thuật là một sự tự ý thức về đời sống, nên nó mang tính quan niệm rất
cụ thể. Hình tượng nghệ thuật về con người một khi đã hình thành là mang tính quan
niệm. Nhà vãn không thể miêu tả đối tượng mà không có quan niệm về đối tượng. Quan
niệm là một phương tiện thiết yếu của sáng tạo nghệ thuật. Thông thường, khi nghiên cứu
tác phẩm, chúng ta chỉ quan tâm đến tính cách của nhân vật rồi kết luận nhân vật đó tốt,
xấu, cao thượng hay thấp hèn...Hiếm khi người nghiên cứu xem nhà văn ấy đã xây dựng,
chọn lọc chi tiết ấy như thế nào.
Ví dụ như trong Bắc Hành tạp lục, Nguyễn Du miêu tả con người theo những giá trị
của tinh thần cộng đồng người Việt, những tư tưởng không gì thay thế được của thời đại,
và trên hết là những cá tính rất riêng biệt của cụ Nguyễn . Bởi thế trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, ông đã tồn tại thực sự, tồn tại một cá nhân độc lập, không lạc lõng, không
hòa tan với bất cứ điều gí, với bất cứ ai. Và những tư tưởng, tinh thần của văn minh nước
mình đã từ tiềm thức của Nguyễn Du mà qua ý thức để biến thành con người trong thơ.
Nhìn một cách tổng thể thì hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học có nhiều
phương diện tạo thành một chỉnh thể, một thế giới nghệ thuật. Tuy nhiên, trong một tác
phẩm, nhất là tác phẩm văn học , hình tượng con người là nổi bật nhất. Bởi con người là
đối tượng trung tâm của văn học, là giá trị của tác phẩm văn học. Các yếu tố khác như
thời gian, không gian... đểu có quan hệ chặt chẽ với con người, hoặc thể hiện suy nghĩ,
quan niệm của con người trong tác phẩm.
Có thể dẫn ra đây bài thơ "Tùng" của Nguyễn Trãi. Đây là bài thơ tâm huyết về
cuộc đời, về sự nghiệp, về niềm tin được cống hiến trọn đời cho con người và cho đất
nước. Xét lời thơ, cách xưng hô, ta thấy bài thơ vừa là lời tự bạch của cây tùng, vừa là lời
tâm sự vỗ vệ cây tùng, nói với cây tùng, cho cây tùng. Nhà thơ và cây tùng như hòa
quyện với nhau làm một, cùng chung một tâm sự, một nỗi niềm.
Bài thơ toát lên một niềm tin mãnh liệt, không lay chuyển của nhà thơ vào phẩm
chất, giá trị, vào lý tưởng hữu dụng cao cả của mình. Và chính vì thế, cây tùng có mối
quan hệ chặt chẽ với hình tượng tác giả. Nó làm rõ hơn phẩm chất, năng lực, cảm xúc,
nghĩ suy của tác giả trước thế giới tự nhiên.
85
Hình tượng con người trong tác phẩm văn học tồn tại dưới nhiều hình thức, có thể là
cái tôi cá thể biểu hiện trực tiếp tâm sự, tình cảm của mình:
"Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc
Nợ tang bồng vay trả trả vay
Chí làm trai Nam Bắc Đông Tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể"
(Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ)
Ở đây, hình tượng người anh hùng với chí khí dọc ngang trời đất này thực chất
không trùng khớp với tác giả mà nó là một cá thể tự bày tỏ, tự bộc lộ.
Nó thể hiện sự sôi nổi nhiệt thành, niềm đàm mê mãnh liệt, có hơi "bốc lửa" của cái
tôi cá nhân về "chí làm trai", về "nợ tang bồng" về phận sự của kẻ nam nhi trong vũ trụ.
Hình tượng con người cũng có thể là cái chung đại điện cho giai cấp, cho dân tộc,
thể hiện ý chí chung của cả tập thể. ở vào vị trí đó, nó lớn bổng, kỳ vĩ:
"Hồn chúng tôi quẩn quanh càng đất nước
Như bóng dừa ôm những xóm làng yêu
Như bóng cờ bay sớm sớm chiều chiều" (13)
Hình tượng con người nghệ thuật có thể được xây dựng trực tiếp như trong truyện
ngắn, tiểu thuyết, hoặc biểu hiện gián tiếp thông qua tình cảm, cảm xúc của tác giả trước
thực tại như trong thơ trữ tình.
Trong các thể loại tự sự, hình tượng con người được xây dựng cụ thể, sống động
bằng lời nói, hành động, diễn biến tâm lý. Ở đây nhà văn đã tận dụng sự tưởng tượng
tổng hợp, sáng tạo của mình từ những mẫu hình sinh động trong đời sống.
Trong truyện của Nam Cao, con người được miếu tả trong một bình diện tồn tại sơ
đẳng nhất. ở đó, con người phải bán dần sự sống để duy trì sự sống. Đó không phải là con
người phàm tục trong cuộc sống tiểu tư sản như mọi người quan niệm. Các nhân vật mà
86
Nam Cao miêu tả đều là những người lao động, người nghèo. Nhân vật mà Nam Cao tập
trung xây dựng đều là những con người muốn vươn lên cho xứng đáng với con người
nhưng luôn bị hoàn cảnh chà đạp, dày xéo. Con người trong tác phẩm của Nam Cao luôn
ở thế chênh vênh của hai bờ vực: "Một bên là sự sống, một bên là cái chết", họ dường
như không còn con đường nào để sống. Vì thế con người luôn uất ức, phẫn nộ, luôn chửi
đời, chửi người.
Còn đối với các tác phẩm trữ tình, mỗi bài thơ là một tâm hồn của con người. Con
người trong thơ là con người tự bày tỏ, bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về cuộc sống,
về chính bản thân.
Con người trong thơ luôn gắn liền với hình tượng nhân vật trữ tình. Trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du khi ông nói:
"Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan
Tây song nhật lạc thiên tương mộ"
(Hành lạc từ II)
(Khuyên anh uống rượu rồi vui chơi
Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía Tây, trời sắp tối)
thì đó là sự ý thức về cái hữu hạn của con người. Mặt trời lặn là hình ảnh biểu tượng
cho thời gian sắp tàn, sắp vãn. Con người trong thơ kêu gọi hãy vui chơi cho thỏa thích,
hãy sống hưởng thụ kẻo chẳng còn kịp.
Dù dưới hình thức thể hiện nào, cảm xúc và tình cảm của con người trong thơ muốn
đi sâu vào tâm hồn người đọc thì đó phải là cảm xúc và tình cảm bắt nguồn từ nhịp sống
của thời đại. Tức là nó phản ánh những mong mỏi, những khao khát của biết bao thân
phận con người trong thời đại đó. Muốn vậy, con người trong thơ phải có trái tim đồng
cảm sâu xa với mọi khổ đau và hạnh phúc của con người trong xã hội. Bêlinxki đã từng
nói: "Bất cứ thi sĩ nào cũng không thể trở thành vĩ đại, nếu chỉ do ở mình, và chỉ miêu tả
mình đù là miêu tả những nỗi khổ đau của mình hay những hạnh phúc của mình. Bất cứ
87
thi sĩ vĩ đại nào, sở dĩ họ vĩ đại là bởi vì những đau khổ và hạnh phúc của họ bắt nguồn từ
khoảng sâu thẳm của lịch sử xã hội, bởi vì họ là thứ khí quan và đại biểu của xã hội, của
thời đại và của nhân loại". (14)
Đối với văn học Việt Nam, con người trong thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hương chính là những con người như vậy.
Con người trong thơ hiếm khi được xây dựng cụ thể. Nó là tổng hòa của muôn mặt
cảm xúc và muôn mặt nghĩ suy. Vì vậy, nó tác động trực tiếp đến tâm hồn, nó làm sống
dậy trong lòng người đọc những trăn trở, những xúc cảm được thanh lọc từ cuộc sống
muôn màu muôn vẻ.
Tìm hiểu và nghiên cứu hình tượng con người trong tác phẩm trữ tình tức là tiếp cận
con người trong một tác phẩm cụ thể. Cũng có thể dựa trên một hệ thống tác phẩm để
thấy được những đặc điểm chung nhất của hình tượng trong toàn bộ sáng tác của tác giả
thể hiện qua toàn bộ tình cảm, cảm xúc trong tác phẩm.
2.3.HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƯỜI TRONG TẬP BẮC
HÀNH TẠP LỤC
Trong khi phản ảnh đời sống, nghệ thuật thể hiện cái nhìn chủ quan của mình đối
với các hiện tượng, và từ đó bộc lộ ý nghĩa đời sống. Viện sĩ Nga M.B Khrapchencô xác
nhận: "Chân lý của cuộc sống có tính cá nhân đối với thế giới vốn có ở từng nghệ sĩ thực
thụ, không tồn tại bên ngoài các đặc điểm về tư duy hình tượng, bút pháp sáng tác của
nghệ sĩ. " (15)
Như vậy, để hiểu được nội dung cuộc sống trong tác phẩm tất yếu phải khám phá
cái nhìn nghệ thuật, cách tư duy, cách cảm nhận của chính nhà văn.
Trong chương này, chúng tôi xem xét hình tượng nghệ thuật về con người trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du - ở tập Bắc Hành tạp lục. Tìm hiểu hình tượng nghệ thuật trong tập
thơ Bắc Hành tạp lục cũng chính là xem xét quan niệm của tác giả thông qua hình tượng
con người, nhân vật có mặt trong tác phẩm của ông. Có thể xem xét hình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_05_09_2197032846_4952_1872301.pdf