Luận văn Hoàn thiện công tác quản trị nguồn nhân lực ở cục dự trữ nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh

LỜI CAM ĐOAN .

LỜI CẢM ƠN .

TÓM LƯỢC LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ .

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT .

DANH MỤC CÁC BẢNG.

DANH MỤC CÁC HÌNH. v

MỤC LỤC.

MỞ ĐẦU.

1. Tính cấp thiết của đề tài .1

2. Mục tiêu nghiên cứu.2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.2

4. Phương pháp nghiên cứu.3

5. Kết cấu luận văn.5

Chương 1: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ HOÀN THIỆN QUẢN TRỊ NGUỒN NHÂN

LỰC CỦA TỔ CHỨC .6

1.1. Lý luận về quản trị nguồn nhân lực .6

1.1.1. Các khái niệm.6

1.1.2. Mục tiêu của công tác quản trị nguồn nhân lực .12

1.1.3. Tầm quan trọng của công tác quản trị nguồn nhân lực.13

1.2. Chức năng của quản trị nguồn nhân lực.14

1.2.1. Nhóm chức năng thu hút nguồn nhân lực .15

1.2.2. Nhóm chức năng đào tạo - phát triển nguồn nhân lực .15

1.2.3. Nhóm chức năng duy trì nguồn nhân lực.16

1.3. Nội dung của công tác quản trị nguồn nhân lực .16

1.3.1 Công tác tuyển dụng lao động.16

1.3.2. Công tác bố trí và sử dụng lao động .19

 

pdf137 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện công tác quản trị nguồn nhân lực ở cục dự trữ nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sử dụng công chức. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 43 - Cơ quan sử dụng công chức có trách nhiệm xác định, mô tả vị trí việc làm, báo cáo cơ quan quản lý công chức phê duyệt để làm căn cứ tuyển dụng công chức. - Hàng năm, cơ quan sử dụng công chức xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức, báo cáo cơ quan quản lý công chức để phê duyệt và tổ chức tuyển dụng theo quy định. Việc tuyển dụng công chức tại đơn vị được tiến hành theo trình tự như trên. Các bước trong tuyển dụng công chức tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh tuân thủ theo quy định của Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ về quy chế tuyển dụng và sử dụng công chức. Các bước tuyển dụng công chức đơn vị thực hiện hằng năm khi có nhu cầu tuyển dụng là: - Thông báo tuyển dụng và tiếp nhận hồ sơ dự tuyển: Việc thông báo thông tin tuyển dụng về số lượng cần tuyển, thời gian và địa điểm nhận hồ sơ của người dự tuyển được đơn vị thực hiện công khai trên các phương tiện truyền thông đại chúng, các số báo địa phương trên địa bàn đơn vị đứng chân, thông báo này cũng được gửi đến các trường Đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, là nơi có nhiều sinh viên sắp sửa ra trường và có thể đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của đơn vị. Việc niêm yết và nêu rõ thời gian đăng ký dự tuyển từ ngày nào đến ngày nào giúp cho thí sinh dự tuyển có cơ hội chuẩn bị tốt hồ sơ và yên tâm hơn trong việc tính thời hiệu hết hạn nộp hồ sơ. Sau khi nhận các hồ sơ có đủ điều kiện dự thi và đáp ứng yêu cầu ban đầu, đơn vị tiến hành niêm yết công khai danh sách những người đủ điều kiện dự tuyển công khai tại trụ sở nơi làm việc. -Tổ chức tuyển dụng: Khi hết thời hạn nhận hồ sơ của người đăng ký dự tuyển, người đứng đầu Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh quyết định việc thành lập Hội đồng tuyển dụng công chức để tổ chức tuyển dụng. Việc tổ chức thi tuyển hoặc xét tuyển công chức tại đơn vị thực hiện theo quy định của cơ quan cấp trên và các hướng dẫn của Bộ Nội vụ. -Thông báo kết quả tuyển dụng: ĐA ̣I H ỌC KIN H T Ế H UÊ ́ 44 Việc tổ chức thi tuyển hoặc xét tuyển tại đơn vị được thực hiện trình tự các bước theo quy định của Bộ Nội vụ, sau khi có được báo cáo kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển của Hội đồng tuyển dụng, đơn vị tổ chức niêm yết công khai kết quả thi tuyển, xét tuyển, danh sách dự kiến người trúng tuyển tại trụ sở làm việc và trên các trang thông tin điện tử của Tổng Cục Dự trữ Nhà nước, đồng thời tiến hành gửi thông báo kết quả tới người dự tuyển. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày niêm yết công khai kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển, người dự tuyển có quyền gửi đơn đề nghị phúc khảo kết quả thi tuyển hoặc xét tuyển. Người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức có trách nhiệm tổ chức chấm phúc khảo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nhận đơn phúc khảo. Sau khi thực hiện các bước theo quy định nêu trên, người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền tuyển dụng công chức báo cáo cơ quan quản lý công chức phê duyệt kết quả tuyển dụng công chức; gửi thông báo công nhận kết quả trúng tuyển bằng văn bản tới người dự tuyển theo địa chỉ mà người dự tuyển đã đăng ký, nội dung thông báo phải ghi rõ thời gian người trúng tuyển đến nhận quyết định tuyển dụng. - Ra quyết định tuyển dụng và nhận việc Sau khi hoàn thành các bước nêu trên, căn cứ vào thông báo công nhận kết quả trúng tuyển, người đứng đầu Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh ra quyết định tuyển dụng công chức. Trong thời hạn chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tuyển dụng, người được tuyển dụng vào công chức phải đến Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh nhận việc, trừ trường hợp quyết định tuyển dụng quy định thời hạn khác. Trường hợp người được tuyển dụng vào công chức có lý do chính đáng mà không thể đến nhận việc thì phải làm đơn xin gia hạn trước khi kết thúc thời hạn nêu trên gửi Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh. Thời gian xin gia hạn không quá 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn nhận việc theo quy định nêu trên. Trường hợp người được tuyển dụng vào công chức không đến nhận việc sau thời hạn quy định nêu trên thì Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh, đơn vị có thẩm quyền tuyển dụng công chức ra quyết định huỷ bỏ quyết định tuyển dụng. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 45 Bảng 2.2 Kết quả tuyển dụng công chức hàng năm tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh TT Vị trí cần tuyển Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Số người cần tuyển Số ứng viên Số người được tuyển Số người cần tuyển Số ứng viên Số người được tuyển Số người cần tuyển Số ứng viên Số người được tuyển Số người cần tuyển Số ứng viên Số người được tuyển Số người cần tuyển Số ứng viên Số người được tuyển 1 Chuyên viên KH &QLHDT 1 3 0 1 1 2 Chuyên viên Quản lý ĐTXD 1 1 1 1 1 1 1 1 3 Chuyên viên TCCB 3 4 2 4 Chuyên viên Tin học 1 4 1 1 2 0 1 1 5 Kế toán viên 5 12 4 2 2 6 Kỹ thuật viên bảo quản 2 2 0 6 6 7 Kế toán viên trung cấp 3 14 3 2 5 1 2 8 2 8 Cán sự hành chính 1 1 1 1 9 Kỹ thuật viên bảo quản TC 2 2 1 5 0 0 6 6 2 10 Thủ kho bảo quản 4 5 4 6 1 1 9 8 6 6 6 Tổng cộng 20 45 16 17 10 4 18 24 10 18 18 Nguồn: Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ TĩnhĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 46 Việc tuyển dụng công chức, viên chức ngoài mục đích nhằm lựa chọn được nguồn nhân lực đáp ứng điều kiện công việc được giao còn thể hiện được tính công khai, minh bạch và tạo cơ hội, sân chơi bình đẳng cho các ứng viên đủ điều kiện có thể tham gia. Ngoài ra, đơn vị còn xây dựng các chính sách, kế hoạch trong việc thu hút những cán bộ công chức có chuyên môn nghiệp vụ cao, đào tạo bài bản, chính quy bố trí làm việc tại các đơn vị trực thuộc với chế độ đãi ngộ xứng đáng theo các quy định của pháp luật. 2.2.2. Công tác đào tạo, bồi dưỡng Để góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tại đơn vị thì công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực là một yêu cầu thường xuyên tại bất cứ một tổ chức, doanh nghiệp nào. Tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh, công tác đào tạo, bồi dưỡng được tiến hành thường xuyên, có lộ trình, kế hoạch và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ được giao. Việc đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên nguồn nhân lực cán bộ công chức chuyên môn góp phần trang bị những kiến thức, kỹ năng, phong cách làm việc chuyên nghiệp cho người được đào tạo, từ đó giúp cho đội ngũ nguồn nhân lực luôn được trau dồi kỹ năng, bắt nhịp với sự phát triển của khoa học, công nghệ và sự đòi hỏi ngày càng cao của công việc chuyên môn. Bảng 2.3: Kết quả thực hiện đào tạo, bồi dưỡng tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh Đơn vị tính: Người Nội dung đào tạo Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 Năm 2013 Năm 2014 Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện Kế hoạch Thực hiện 1. Đào tạo chuyên môn nghiệp vụ - Dài hạn 24 21 21 20 19 11 14 17 10 9 - Ngắn hạn 149 125 162 83 59 116 91 69 67 65 2. Đào tạo chính trị - Cao cấp 0 1 1 2 1 2 3 2 1 2 - Trung cấp 4 5 5 5 3 8 8 5 5 1 - Sơ cấp 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Nguồn: Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 47 Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức được thực hiện nhằm mục đích trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ được giao; góp phần xây dựng đội ngũ công chức, viên chức chuyên nghiệp, có đủ năng lực xây dựng ngành hiện đại. Chế độ đào tạo, bồi dưỡng đối với công chức, viên chức cũng được chia theo nhiều thang bậc như: công chức, viên chức trong thời gian tập sự cần thiết được đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức kỹ năng để phù hợp với công việc được giao trong tương lai; công chức, viên chức đang giữ ngạch được đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực, cập nhật kiến thức, kỹ năng cho phù hợp với vị trí việc làm; các chế độ đào tạo, bồi dưỡng dành riêng cho các chức vụ lãnh đạo, quản lý; ngoài ra, để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, mỗi công chức, viên chức cần được bồi dưỡng lý luận chính trị, kiến thức, kỹ năng chuyên ngành, được tập huấn thường xuyên, hàng năm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công chức cần thiết phải chú trọng tính thực tế, tránh lý thuyết, rườm rà, mất thời gian và lãng phí nguồn nhân lực. Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh thường xuyên tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng hàng năm dựa trên nguyên tắc: - Đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào vị trí việc làm; tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển nguồn nhân lực của các tổ chức, đơn vị phục vụ cho việc thực hiện nhiệm vụ được giao. - Đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất, kết hợp với cơ chế phân cấp để phát huy tính tự chủ của các đơn vị sử dụng công chức, viên chức trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng. - Đề cao vai trò, trách nhiệm và quyền của công chức, viên chức trong việc đào tạo, bồi dưỡng. - Đảm bảo tính công khai, minh bạch, hiệu quả. Việc cử cán bộ, công chức tham dự các khóa bồi dưỡng hàng năm, bồi dưỡng thường xuyên và bồi dưỡng bắt buộc là một chế độ đãi ngộ và đào tạo nguồn ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 48 nhân lực chung của ngành Tài chính và riêng tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh. Nâng cao kỹ năng, cập nhật các kiến thức thường xuyên và phù hợp với thực tế vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của công chức trong việc thực thi công vụ được giao. Hằng năm, tổ chức được giao trong công tác nhân sự tại đơn vị xây dựng và thực hiện các kế hoạch trong việc cử công chức, viên chức tham dự các khóa học cập nhật kiến thức kỹ năng, hội thảo, tập huấn thường xuyên do Tổng cục Dự trữ Nhà nước, Bộ Tài chính tổ chức. Ngoài những phương án đã nêu, nếu xét thấy cần thiết, đơn vị cũng mạnh dạn đề xuất các phương án đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực để phù hợp với thực tế tại đơn vị. 2.2.3. Công tác bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm Nguồn nhân lực dù có chất lượng cao tới đâu, có đáp ứng được yêu cầu của đơn vị nhiều như thế nào nhưng nếu thiếu đi công tác bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm phù hợp sẽ làm giảm chất lượng nguồn nhân lực, lãng phí tài nguyên con người của đơn vị đó. Bởi vậy, yêu cầu luôn đặt ra cho công tác tổ chức cán bộ tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh đó là công tác tham mưu lãnh đạo trong việc bố trí, bổ nhiệm, miễn nhiệm, luân chuyển, điều động cán bộ công chức phù hợp với năng lực, trình độ.. Công tác bố trí, luân chuyên, bổ nhiệm cán bộ, công chức phải đạt được mục tiêu đảm bảo đúng số lượng, đúng người, đúng nơi, đúng chỗ và đúng thời hạn. Cần phải coi trọng công tác luân chuyển cán bộ công chức là điều kiện, cơ hội cho người được luân chuyển được bồi dưỡng, thử thách tại vị trí việc làm mới, phù hợp với khả năng của cán bộ công chức. Tránh việc bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ công chức mà không làm cho người bổ nhiệm thông suốt trong tư tưởng [9] để thấy được những cơ hội phát triển, cơ hội được rèn luyện toàn diện trong thực tiễn, gây ra sự đối kháng, thù nghịch với một chính sách, một kế hoạch có tầm vĩ mô mà Bộ Chính trị đã đưa ra. Tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh đã và đang xây dựng các đề án chi tiết cụ thể trong công tác bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ công chức giữ ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 49 chức vụ lãnh đạo, quản lý sang các vị trí thích hợp, phù hợp với năng lực, được thử thách với nhiều vị trí việc làm khác nhau, góp phần làm giàu kinh nghiệm bản thân, bồi đắp kiến thức thực tế cho tầng lớp lãnh đạo, quản lý, nhất là những người được giao giữ chức vụ có tuổi đời trẻ, nhiều tiềm năng. 2.2.4. Đánh giá thực trạng quản trị nguồn nhân lực ggggg 2.2.5. Tạo động lực trong lao động 2.2.5.1. Chế độ khuyến khích vật chất Công tác nhân lực và quản lý nguồn nhân lực ngoài làm tốt các công việc: quy hoạch, bồi dưỡng, đào tạo, thu hút, bố trí, luân chuyển, bổ nhiệm phù hợp còn cần đến các chế độ khuyến khích về vật chất nhằm tạo cơ hội cho đội ngũ nguồn nhân lực tại đơn vị có tư tưởng vững vàng, yên tâm công tác, thường xuyên tự học tập, bồi dưỡng bản thân để cống hiến cho cơ quan, đơn vị trong công tác chính trị và công tác chuyên môn . Chế độ khuyến khích về vật chất có nhiều hình thức như tăng cường về lương, thưởng, phúc lợi xã hội. 2.2.5.1.1. Khuyến khích về lương Tiền lương từ lâu nay vẫn là đề tài nóng hổi của tất cả người lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất, ai cũng biết tiền lương chính là mồ hôi, nước mắt, công sức của bản thân người lao động cố gắng hằng ngày, hàng giờ để cuối buổi hoặc cuối tháng có thể lĩnh được những khoản tiền lương xứng đáng. Theo Bộ luật Lao động (sửa đổi) năm 2012 tại điều 90 có ghi rõ "Tiền lương là khoản tiền mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Tiền lương bao gồm mức lương theo công việc hoặc chức danh, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác". Tiền lương luôn là mối quan tâm của người lao động làm công ăn lương, đó vừa là động lực nhưng cũng chính là nguồn thu nhập chính của người lao động. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 50 Tầng lớp cán bộ, công chức làm việc tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh có nhiều chức danh, chức vụ và công việc khác nhau, việc trả lương theo đó cũng không giống nhau. Là một đơn vị hành chính thụ hưởng từ nguồn cung của ngân sách nhà nước nên nguồn lực lao động tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh cũng được điều chỉnh hưởng các mức lương cơ sở đối với công chức, viên chức, người lao động theo quy định chung của Chính phủ. Việc trả lương tại đơn vị được thực hiện theo chế độ quy định chung của Chính phủ, đó là: - Mức lương tối thiểu (chung, vùng, ngành, doanh nghiệp, tùy từng quốc gia quy định). - Chế độ lương ngạch, bậc, cấp bậc, chức vụ (hoặc lương cơ bản, lương chính) gồm: thang lương, bảng lương, mức lương, phụ thuộc vào các yếu tố thường xuyên do yêu cầu của công việc, chức vụ quyết định (mức độ phức tạp của công việc, chức vụ; hao phí lao động; điều kiện lao động; trách nhiệm của công việc, chức vụ; chính sách ưu đãi, khuyến khích theo ngành, nghề,...). - Chế độ phụ cấp lương, nhằm bổ sung các yếu tố không thường xuyên mà lương ngạch, bậc, cấp bậc, chức vụ chưa tính hết được, hoặc vì tính hiệu quả của việc quy định chế độ lương ngạch, bậc, cấp bậc, chức vụ. - Chế độ nâng bậc, ngạch lương và tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật, hoặc tiêu chuẩn chức danh chuyên môn, nghiệp vụ, hoặc chức danh, tiêu chuẩn công chức, viên chức nhà nước. - Chế độ tiền lương làm thêm giờ. - Chế độ tiền lương làm việc ban đêm. - Chế độ tiền lương ngừng việc. - Chế độ tiền lương ngày nghỉ hằng năm (nghỉ phép), nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ được hưởng lương (nghỉ việc riêng: cưới, tang lễ),... - Chế độ tiền lương được cử đi học tập, bồi dưỡng tay nghề, chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ. ĐA ̣I H ỌC KIN H T Ế H UÊ ́ 51 - Chế độ tiền lương bị tạm giam, tạm giữ. - Chế độ tiền thưởng từ quỹ tiền lương (áp dụng cho hình thức trả lương thời gian có thưởng, đơn giá sản phẩm có thưởng, thưởng chuyên cần, an toàn,...). - Chế độ tạm ứng tiền lương. Đơn vị thực hiện chế độ trả lương theo thứ tự ngạch bậc của công chức, viên chức, người lao động. Theo đó, người lao động tùy theo ngạch, bậc khác nhau mà thời gian giữ bậc là bao lâu. Ví dụ: ngạch chuyên viên, thời gian được nâng lương theo chế độ thường là 3 năm nếu công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ, không bị các hình thức kỷ luật, trong khi đó, với ngạch cán sự, thời gian giữ ngạch là 2 năm một bậc. Do vậy, để thực hiện các chính sách khuyến khích về lương đối với người lao động, người đứng đầu tổ chức cũng đòi hỏi ở người lao động sự đóng góp không nhỏ. Ví dụ như: Một ngạch chuyên viên thời gian giữ ngạch là 3 năm, nhưng nếu cá nhân đó có thành tích xuất sắc, được các cấp khen thưởng (bằng văn bản) theo quy định có thể được nâng lương sớm, trước hạn như nâng trước thời hạn 6 tháng và nhiều nhất là trước 12 tháng, tùy theo thành tích mà người lao động đạt được. Việc khuyến khích về lương đòi hỏi có sự tương tác giữa người lao động - nguồn nhân lực và tổ chức sử dụng lao động phải có sự giao thoa, đó là khi cá nhân có thành tích cao, xứng đáng được tưởng thưởng thì tổ chức phải đồng thời tiến hành việc ghi nhận sự đóng góp của cá nhân đó vào sự phát triển của tập thể. Để có được việc khuyến khích về lương, thưởng, các chính sách phúc lợi khác cho người lao động đòi hỏi người quản lý và sử dụng lao động cần phải biết và đối xử công bằng với mọi nhân viên trong tập thể để không những quản lý tốt người lao động mà còn thúc đẩy mạnh mẽ động lực của mỗi người lao động trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình cũng như của tổ chức mà mình đang phục vụ. Chính sự cân bằng giữa việc đóng góp của cá nhân người lao động vào sự phát triển của tổ chức và những hành động tưởng thưởng xứng đáng của tổ chức đối với đóng góp của người lao động giúp cho mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và nguồn nhân lực có được tiếng nói chung trong cùng một đích đến là làm cho tổ chức ngày càng phát triển vững mạnh. ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 52 Có thể nói trong hệ thống các chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức, chính sách khuyến khích về vật chất được coi là quan trọng nhất. Khuyến khích về lương cũng là một trong những nhân tố đầu trong mối quan tâm của cả nguồn lực lao động và người sử dụng lao động. Tầm quan trọng của các chính sách đãi ngộ, khuyến khích vật chất về lương cũng được Đảng và Nhà nước ta thường xuyên trăn trở. Trong các năm từ năm 2009 đến 2014, Chính phủ đã có 4 lượt điều chỉnh mức lương cơ sở cho bộ phận cán bộ, công chức. Việc điều chỉnh mức lương cơ sở của Chính phủ là những quyết sách quan trọng hàng đầu đối với đời sống của cán bộ, công chức, từng bước theo lộ trình, khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước phấn đấu trong con đường phát triển bản thân, đóng góp năng lực thực sự vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, cũng phải thẳng thắn thừa nhận một điều rằng, mặc dù có sự điều chỉnh về mức lương nhưng nhìn chung, thu nhập của cán bộ, công chức trang trải cho sinh hoạt đời sống chưa thực sự phù hợp, dưới mức trung bình của xã hội. Thu nhập không đủ sống là một nỗi lo cho hiện thực một bộ phận cán bộ, công chức bỏ việc nhà nước để ra ngoài làm cho các tổ chức tư nhân với chính sách đãi ngộ xứng đáng. Việc tính lương trong khối Nhà nước hiện nay so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh là chưa có được sự so sánh tương đối. Việc tính lương đang gắn với bình quân, làm nhiều ít gì cũng hưởng như nhau, chưa thực sự đánh giá được năng suất lao động và hiệu quả công việc. Tiền lương của cán bộ công chức chưa thể hiện đúng trên giá trị lao động, khó có khả năng kích thích được sự cống hiến của một bộ phận công chức trẻ, có nhiệt huyết, tài năng bởi tiền lương không đủ trang trải chi phí sinh hoạt. Bên cạnh đó, việc tính lương trong khối hành chính hiện nay còn có sự chia cắt giữa vùng, miền, khu vực, chưa tạo điều kiện bình đẳng trong phát triển nguồn nhân lực lao động trong khối hành chính nhà nước Vì vậy, theo lộ trình và kế hoạch đã định, Nhà nước và Chính phủ cần khẩn trương có các chính sách cải cách hành chính phù hợp với thực tế, đặc biệt là các cải ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 53 cách về tiền lương. Làm được điều này sẽ khiến cho bộ phận công chức thêm yêu ngành, yêu nghề, cảm thấy được đãi ngộ xứng đáng với năng lực, từ đó hình thành và bồi đắp lòng trung thành, tận tụy với công việc, không còn tình trạng công chức phải nhảy việc từ khu vực nhà nước qua khu vực tư nhân. Với Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh việc đối xử công bằng với người lao động trong các chế độ khuyến khích và ghi nhận của tổ chức đối với đóng góp của người lao động ngoài công việc của đơn vị tổ chức – hành chính còn có sự tham gia của các tổ chức đoàn thể: Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở, Ban Nữ công, Đoàn Thanh niên, Đảng ủy đơn vịtrong việc ghi nhận những cống hiến của bản thân người lao động. Do đó việc ghi nhận sự đóng góp của cá nhân người lao động được nhiều tổ chức thay mặt lãnh đạo đơn vị ghi nhận, đề xuất và tham mưu lãnh đạo, người đứng đầu đơn vị kịp thời có những hành động khen thưởng xứng đáng. Bảng 2.4: Thu nhập bình quân hàng năm của người lao động ĐVT: VNĐ STT Năm Tiền lương bình quân hàng năm của CBCC và người lao động hợp đồng Ghi chú 1 2010 43,039,814 2 2011 47,271,614 3 2012 68,613,398 4 2013 78,642,284 5 2014 96,707,769 Nguồn: Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh Cùng chung lộ trình cải cách hành chính công, vừa qua, Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2013/NĐ-CP ngày 21/8/2013 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Dự trữ quốc gia trong đó có mở rộng chính sách đãi ngộ đối với công chức thuộc các ngạch chuyên ngành dự trữ quốc gia được hưởng phụ cấp nghề là 25%; đối với công chức thuộc các ngạch khác trực tiếp làm nhiệm vụ dự trữ là 15%, ngoài ra, còn có một vài điều dành riêng cho việc ghi nhận ngành dự trữ được tính thâm niên công tác theo tỷ lệ phần trăm, và phần này được hưởng theo lương, được tính đóng ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 54 BHXH là một niềm vui đối với mỗi một cán bộ công chức làm công tác dự trữ. Việc động viên, khuyến khích bằng các chế độ vật chất như nâng lương, thưởng, tăng phúc lợi xã hội, tính phụ cấp thâm niên nghề giúp cho người lao động cảm thấy yên lòng công tác, gắn bó hơn với tổ chức, làm việc hiệu quả hơn. 2.2.5.1.2 Khuyến khích bằng hình thức thưởng Ngoài công tác khuyến khích vật chất bằng hình thức tăng lương, đơn vị còn tổ chức đãi ngộ người lao động bằng các phương pháp kích thích động viên khen thưởng kịp thời bằng vật chất (thưởng). Dù khuyến khích về lương hay thưởng bằng cách ghi nhận đóng góp của người lao động đối với sự phát triển của tổ chức đều là những động thái tốt giúp động viên người lao động làm việc hiệu quả hơn, có động lực phấn đấu phát triển lành mạnh, không tham ô, lãng phí của công của nhà nước. 2.2.5.1.3. Khuyến khích bằng các phúc lợi xã hội Phúc lợi xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản thể hiện chính sách nhân đạo trong đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước ta vào mục tiêu phát triển con người, thúc đẩy công bằng và tiến bộ, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Trong các khu vực nhà nước và khu vực tư nhân thì thường các tầng lớp công chức và người dân nghèo được nhà nước quan tâm và thực hiện các chính sách phúc lợi xã hội nhiều hơn. Đó là các chính sách về nhà ở, chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, nhà ở công vụ giúp nâng cao đời sống của tầng lớp người nghèo và tầng lớp có mức thu nhập thấp. Với mức sống hiện nay dựa trên mức lương cơ sở, tầng lớp công chức cũng được xếp vào diện cần các trợ cấp về phúc lợi xã hội. Trong mối quan hệ giữa người sử dụng lao động và nguồn nhân lực cần có các chính sách khuyến khích phù hợp để tạo tâm lý ổn định, yên tâm công tác cho người lao động. Ngoài các hình thức khuyến khích vật chất qua việc cải cách tiền lương, việc thưởng công xứng đáng, người sử dụng lao động còn có thể sử dụng chế ĐA ̣I H ỌC KI NH TÊ ́ HU Ế 55 độ động viên nguồn nhân lực của mình bằng hình thức tăng phúc lợi xã hội. Đó là việc tạo môi trường làm việc tốt cho người lao động, có chế độ chăm sóc sức khỏe hợp lý, tạo môi trường sống cho người lao động thông qua việc bố trí nhà ở công vụ cho những người có nơi sinh sống xa so với nơi công tác. Những hoạt động này giúp cho người lao động cảm thấy nhận được sự đãi ngộ xứng đáng, quá đó tăng niềm yêu nghề nghiệp, yên tâm công tác với tổ chức. Tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh áp dụng các chính sách khuyến khích về phúc lợi xã hội cho lực lượng cán bộ công chức đó là các chính sách: mỗi năm 02 lần tổ chức khám định kỳ cho tất cả cán bộ công chức trong toàn đơn vị, tạo môi trường làm việc lành mạnh cho người lao động khi bố trí việc làm phù hợp, tuy chưa nhiều nhưng đã bố trí được một số nhà ở công vụ cho những công chức có hoàn cảnh khó khăn, nhà xa địa bàn công tác. Tất cả những hoạt động đó của đơn vị nhằm thể hiện sự quan tâm, chăm lo một phần đời sống vật chất của cán bộ công chức, qua đó giúp cho cán bộ, công chức thêm yêu ngành, yêu nghề, yên tâm công tác và cống hiến cho sự phát triển của cơ quan, đơn vị. 2.2.5.2. Chế độ khuyến khích tinh thần Căn cứ vào việc tìm hiểu tâm lý của nguồn nhân lực tại đơn vị, người lãnh đạo quản lý tổ chức cần làm tốt công tác tìm hiểu các động lực về nhu cầu phát triển bản thân của mỗi cá nhân người lao động, từ đó đưa ra các chính sách, chế độ khuyến khích về tinh thần thực sự hợp lý. Tại Cục Dự trữ Nhà nước khu vực Nghệ Tĩnh đã tiến hành các chế độ khuyến khích phù hợp thông qua việc tìm hiểu các động lực phát triển của cá nhân. Khi nguồn lao động tại đơn vị đã thỏa mãn các nhu cầu cơ bản (basic needs) về vật chất thì lực lượng này sẽ chuyển sang những nhu cầu cao hơn nhu cầu căn bản, đó là các nhu cầu bậc cao (metal needs). Lúc này, nguồn nhân lực của đơn vị sẽ bỏ qua các đòi hỏi về vật chất như đã đề cập ở phần trên để quan tâm nhiều hơn đến các nhu cầu về tinh thần. Theo học thuyết Tháp nhu cầu của Maslow thì lúc này nhu cầu của ngu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfhoan_thien_cong_tac_quan_tri_nguon_nhan_luc_o_cuc_du_tru_nha_nuoc_khu_vuc_nghe_tinh_1408_1912022.pdf
Tài liệu liên quan