PHẦN MỞ ĐẦU 2
PHẦN NỘI DUNG 5
Chương 1: TỘI MUA BÁN PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ HIỆN HÀNH 5
1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý đặc trưng (khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan) của tôi mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em: 5
2. Tình hình điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán phụ nữ, trẻ em giai đoạn 2005-2008 19
3. Kết luận 21
Chương 2: NHỮNG HẠN CHẾ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ TRONG VIỆC CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 24
1. Một số khó khăn vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán phụ nữ, trẻ em 24
2. Một số bất cập của các cấu thành tội phạm quy định tại các Điều 119 và Điều 120 BLHS 25
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM 29
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta nhằm đấu tranh phòng, chống tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em. 29
2. Các kinh nghiệm trên thế giới để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội buôn bán phụ nữ, trẻ em hiệu quả 32
3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em. 33
KẾT LUẬN 54
PHỤ LỤC 56
Danh mục tài liệu tham khảo .59
58 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2507 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em giai đoạn 2005 - 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
án, đi su lịch biên giới hoặc nước ngoài rồi bán; hứa hẹn kết hôn, gả chồng giàu sang hoặc kết hôn trá hình rồi đưa qua biên giới bán cho người khác… Chúng thường lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của nạn nhân, hứa giúp đỡ họ thoát khỏi nghèo đói, lấy được chồng tử tế, có cuộc sống gia đình khá giả. Có kẻ lại vờ vĩnh yêu đương, hứa hẹn cưới xin hoặc tạo ra các bất lợi khác để ép buộc, đe dọa, mua chuộc nạn nhân và gia đình họ. Thậm chí, bắt cóc trẻ em, bắt cóc các cô gái lang thang cơ nhỡ, lỡ tàu lỡ xe để bán…
Chương 2: NHỮNG HẠN CHẾ VỀ MẶT PHÁP LÝ HÌNH SỰ TRONG VIỆC CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
1. Một số khó khăn vướng mắc trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tội mua bán phụ nữ, trẻ em
Hiện nay, tình hình mua bán phụ nữ và trẻ em vẫn diễn biến phức tạp ở nhiều tỉnh thành, nhất tại các tuyến và các địa bàn trọng điểm. Số vụ mua bán phụ nữ và trẻ em chưa được phát hiện, điều tra truy tố xét xử chiếm tỷ lệ lớn. Sở dĩ có tình trạng như vậy vì một số lý do như:
Thứ nhất, phương thức, thủ đoạn của bọn “buôn người” ngày càng tinh vi, xảo quyệt, kín đáo hơn.
Phương thức, thủ đoạn của bọn tội phạm phổ biến nhất vẫn là lợi dụng phụ nữ và trẻ em ở vùng nông thôn nghèo có trình độ văn hóa thấp, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, các đối tượng hứa hẹn tìm việc làm và có thu nhập ổn định ở thành phố rồi lừa qua biên giới bán… Bọn tội phạm thường lợi dụng kẽ hở thông qua các dịch vụ tư vấn, môi giới hôn nhân với người nước ngoài, cho nhận con nuôi, du lịch, xuất khẩu lao động để lừa gạt buôn bán phụ nữ và trẻ em. Không những thế bon tội phạm “buôn người” còn thiết lập các đường dây buôn bán phụ nữ, gái gọi, du lịch tình dục xuyên quốc gia qua hệ thồng các trang web đen, qua điện thoại di động… Mặt khác, chúng còn chú ý dùng tiền của, vật chất với số lượng lớn đê mua chuộc những cán bộ làm việc tại các cửa khẩu (Công an, Bộ đội biên phòng…) để dễ dàng đưa phụ nữ trẻ em từ trong nước ra nước ngoài, đồng thời cũng nhằm tạo ra “ô dù”, “bảo kê” để bọn chúng hoạt động lâu dài mà không bị phạt hiện, xử lý.
Thứ hai, trong nhận thức của một bộ phận cán bộ cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhất là ở cơ sở về hậu quả nghiêm trọng của loại tội phạm buôn người gây ra cho xã hội, cũng như tính chất của cuộc đấu tranh còn chưa đầy đủ. Ở nhiều nơi, cấp ủy đảng, chính quyền còn xem nhẹ, thiếu quan tâm chỉ đạo các ngành, đoàn thể thực hiện các hoạt động phòng chống tội phạm. Sự phối hợp giữa các ngành, đoàn thể, nhất là các ngành chịu trách nhiệm chính trong khuôn khổ Chương trình 130/CP (Chương trình Quốc gia phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em) còn thiếu chặt chẽ, chồng chéo; chưa chú trọng công tác phòng ngừa, nhất là các biện pháp kinh tế - xã hội. Hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử nhằm trấn áp tội phạm buôn người của các cơ quan bảo vệ pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ ba,, hệ thống chính sách, pháp luật có liên quan đến nhiệm vụ phòng, chống buôn người chưa hoàn thiện, nhất là chính sách hình sự, dân sự, chăm sóc và bảo vệ trẻ em, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, xuất nhập cảnh và xuất khẩu lao động, hồi hương và tái hòa nhập cộng đồng. Nước ta chưa có văn bản luật về chống buôn người (Bộ luật Hình sự chỉ có một điều về tội buôn bán phụ nữ và trẻ em, hoặc điều luật tương tự như tội tổ chức đưa người ra nước ngoài trái phép…).
Thứ tư, hợp tác quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội phạm buôn người chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình. Trong những năm qua, Việt Nam đã tham gia nhiều công ước quốc tế về lao động, bảo vệ phụ nữ và trẻ em, phòng chống tội phạm xuyên quốc gia, hợp tác đa phương, song phương với nhiều tổ chức quốc tế và nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ, thực hiện nhiều chương trình, dự án hợp tác quốc tế về các lĩnh vực này. Những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong thời gian qua đã được quốc tế ghi nhận. Tuy nhiên, trong tình hình tội phạm buôn người qua biên giới đang trở thành vấn đề toàn cầu, đòi hỏi chúng ta phải tích cực hợp tác quốc tế nhiều hơn nữa.
2. Một số bất cập của các cấu thành tội phạm quy định tại các Điều 119 và Điều 120 BLHS
Qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam về phòng, chống các tội mua bán phụ nữ và trẻ em, ta nhận thấy một số bất cập và chưa hợp lý như:
Thứ nhất: Ở Việt Nam cho đến nay chưa có một định nghĩa chính thức nào về hành vi “mua bán phụ nữ và trẻ em” được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà nước, mặc dù thuật ngữ này đã xuất hiện trong một số sách báo pháp lý và các văn bản mang tính pháp lý. Pháp luật Việt Nam đấu tranh với hoạt động này bằng cách sử dụng một số thuật ngữ có liên quan để quy định trong các điều luật như “đưa trái phép phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài”, “bắt cóc”…Rõ ràng nội hàm được yêu cầu phòng ngừa và chống lại tệ nạn này. Yêu cầu đặt ra là phải có ngay một khái niệm về “mua bán phụ nữ và trẻ em” hoàn chỉnh, thống nhất. Bởi vì nếu không hiểu rõ và xác định được thế nào là mua bán phụ nữ và trẻ em để quy định trong các văn bản pháp luật thì không có cơ sở pháp lý vững chắc cho các cơ quan chức năng và toàn năng xã hội hướng công tác đấu tranh phòng chống và lên án tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em đạt hiệu quả.
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích các khái niệm trên và nghiên cứu các quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này, tôi đưua ra những dấu hiệu cấu thành của hành vi “mua bán phụ nữ và trẻ em” như sau:
Hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em là hành vi đưa trái phép phụ nữ và trẻ em đi nơi khác để trao đổi lấy lợi ích vật chất.
Thủ đoạn thực hiện hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em không chỉ bó hẹp ở thủ đoạn cưỡng ép mà còn bao gồm cả các thủ đoạn khác như tuyển dụng, dụ dỗ, lừa gạt, giả làm người yêu, giới thiệu việc làm…Đồng thời để mua bán.
Hình thức thực hiện hành vi mua bán bao gồm lén lút cả bí mật hợp pháp và ngang nhiên công khai bất hợp pháp.
Phạm vi địa bàn mua bán không chỉ “qua biên giới” quốc gia mà phải bao gồm cả trong nội địa một quốc gia.
Nạn nhân bị mua bán là phụ nữ và trẻ em nói chung.
Chủ thể của hành vi bao gồm cả người Việt Nam và người nước ngoài.
Từ những dấu hiện trên tôi xin đưua ra một số khái niệm về “mua bán phụ nữ và trẻ em” như sau:
“Mua bán phụ nữ và trẻ em” là hành vi cưỡng ép, ép buộc hoặc dùng các hình thức, thủ đoạn khác để đưa trái phép phụ nữ và trẻ em đi nơi khác (trong nội địa hoặc ra nước ngoài) nhằm bóc lột sức lao động, lạm dụng tình dục, phục vụ cho hoạt động phạm tội, ăn xin hoặc các hình thức phục vụ khác mang mục tiêu lợi nhuận”.
Trong định nghĩa này hành vi “cưỡng ép, ép buộc hoặc dùng các hình thức, , thủ đoạn khác” bao gồm cả việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, mua chuộc, dụ dỗ, lừa gạt, thỏa thuận, bắt cóc…đối với nạn nhân để đưa hộ đi nơi khác thực hiện mục tiêu, mục đích của kẻ mua bán.
Thứ hai: Qua nghiên cứu tội phạm mua bán phụ nữ (Điều 119) và tội phạm mua bán trẻ em (Điều 120) được quy định trong BLHS tôi thấy rằng hiện nay tình hình mua bán phụ nữ và trẻ em xảy ra tuy không chiếm tỷ lệ lớn nhưng rất nghiêm trọng, nhất là tình trạng đưa nhiều phụ nữ ra nước ngoài để bán, nhận trẻ em làm con nuôi trá hình…Có trường hợp đặc biệt nghiêm trọng như sau khi bị bán nhiều nạn nhân rơi vào cuộc sống cơ cực nơi xứ người, bị mua đi bán lại qua nhiều lân, bị đẩy vào nhà chứa, ăn xin, thực hiện tội phạm, có người do tuyệt vọng không chịu nổi sự khổ nhục đã tự sát. Bọn mua bán phụ nữ và trẻ em tổ chức thành đường dây móc nối với người nước ngoài và đưa rất nhiều phụ nữ và trẻ em ra nước ngoài nhằm thu lợi bất chính, dư luận xã hội đòi hỏi phải nghiêm trị những tên cầm đầu, chỉ huy. Nhưng mức hình phạt tối đa của tội mua bán phụ nữ và trẻ em cao nhất cũng chỉ có 20 năm tù. Mặt khác, việc bỏ tình tiết tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung tăng nặng trong tội này là không thỏa đáng, vì đây là một tội nguy hiểm và dư luận đang quan tâm, người phạm tội thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm cần phải bị xử phạt nặng hơn. Ngoài ra tôi còn thấy những trường hợp mua bán phụ nữ và trẻ em gây hậu quả nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng cũng phải coi là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt như trường hợp 17 cô gái mại dâm bị đưa về từ Trung Quốc (ngày 27/6/2000) hiện đang chữa bệnh tại Trung tâm phòng chống tệ nạn tỉnh Cao Bằng. Bên cạnh đó, khoảng cách mức hình phạt trong một khung hình phạt quá dài, việc quy định hai khung hình phạt ở các Điều 119 và Điều 120 là bất hợp lý. Vì vậy, theo tôi thì tội mua bán phụ nữ và mua bán trẻ em được quy định tại Điều 119 và Điều 120 BLHS phải được cơ cấu lại cho hợp lý.
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ NHẲM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG BUÔN BÁN PHỤ NỮ, TRẺ EM
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta nhằm đấu tranh phòng, chống tội mua bán phụ nữ và tội mua bán trẻ em.
Tội mua bán phụ nữ và trẻ em trên thế giới cũng như ở Việt Nam là một hiện tượng xã hội phức tạp và nguy hiểm. Tính chất nguy hiểm của nó được thể hiện ở chỗ: kẻ phạm tội đã coi con người nói chung, phụ nữ và trẻ em nói riêng là một thứ hàng hóa có thể mua bán được và đang thực hiện với những thủ đoạn tinh vi xảo quyệt nhằm mục đích kiếm lợi. Hơn nữa các hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em đã trực tiếp xâm phạm đến nhân phẩm, đạo đức thuần phong mỹ tục của dân tộc ta, xâm phạm đến những quyền cơ bản của con người, gây rối nền an ninh trật tự của đất nước. Chính vì vậy, từ khi giành lại chính quyền về tay nhân dân, Đảng và Nhà nước ta cùng với việc lãnh đạo nhân dân thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đã luôn quan tâm đến công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ, chăm sóc, bảo vệ trẻ em. Đặc biệt, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống các loại tội hạm xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người nói chung, của phụ nữ, trẻ em nói riêng. Riêng tội mua bán phụ nữ, trẻ em đã được xác định là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 31/7/1998.
Quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh, phòng, chống tội phạm bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội là phải huy động sức mạnh tổng hợp của lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp để chủ động phòng ngừa, chủ động tấn công ngăn chặn mọi hàng động phạm tội. Mỗi cơ quan Nhà nước, mỗi tổ chức xã hội và mọi công dân theo chức năng nhiệm vụ, nghĩa cụ của mình đều có trách nhiệm tham gia vào công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm mua bán phụ nữ nói riêng. Trong cuộc đấu tranh này, lực lượng Công an nhân dân xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ được giao phải luôn giữ vai trò là những người xung kích, nòng cốt. Điều đó được đặt ra xuất phát từ đặc điểm hoạt động của bọn tội phạm rất tinh vi xảo quyệt, có nhiều thủ đoạn để đối phó che dấu hành vi phạm tội của chúng, đòi hỏi phải có lực lượng mạnh, chuyên sâu để đối phó với chúng. Hơn nữa, lực lượng Công an nhân dân đã có hệ thống tổ chức vững chắc, qua quá trình đấu tranh đã nắm vững tình hình tội phạm và có kinh nghiệm, biện pháp đấu tranh hữu hiệu, có thể phòng chống, ngăn chặn và điều tra khám phá các hành vi phạm tội xảy ra. Vì vậy, trong chương trình quốc gia phòng chống tội phạm, Chính phủ đã giao cho Bộ công an thực hiện đề ấn về đấu tranh phòng chống tội phạm hình sự trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em.
Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng là yêu cầu khách quan, là một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta rất quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo công tác này. Chỉ thị 33/CT-TW cảu Ban bí thư Trung ương Đảng “về chỉ đạo phòng chống tệ nạ xã hội” đã khẳng định: “Phòng chống khắc phục có hiệu quả các tệ nạn xã hội…là nhiệm vụ cấp bách hiện nay mà Đảng và Nhà nước phải kiên quyết lãnh đạo thực hiện…”.
Để thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội mua bán phụ nữ và trẻ em nói riêng cần phải quán triệt các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo dưởi đây của Đảng:
Việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội của đất nước phải gắn liền với việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội, và tội phạm hình sự trong đó có tôi mua bán phụ nữ và trẻ em.
Phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và cảu toàn xã hội dưới sự chỉ đạo tập trung, thống nhất của Đảng và Nhà nước, nâng cao trách nhiệm, vai trò chủ động của các ngành, các cấp và tầng lớp nhân dân trong công tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự.
Kết hợp công tác phòng ngừa với đấu tranh trấn áp, xử lý các loại tệ nạn xã hội, tội phạm xã hội trong đó lấy phòng ngừa là chính. Đặc biệt coi trọng việc xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, không ngừng tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức pháp luật trong nhân dân, bài trừ ảnh hưởng xấu của văn hóa phẩm độc hại. Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong phòng chống tội phạm và tệ nạn xã hội, trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em.
Xây dựng và thực hiện đồng bộ có hiệu quả các biện pháp phòng chống các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, từng bước ngăn chặn, tiến tới là giảm dần loại tội phạm trong đó có tội mua bán phụ nữ và trẻ em.
Bên cạnh đó để phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em như:
Bộ luật hình sự năm 1999 được xây dựng trên cơ sở BLHS năm 1985, trong đó các điều luật được quy định theo hướng bổ sung một số tình tiết tăng nặng định khung hình phạt đối với những người phạm tội mua bán phụ nữ và trẻ em.
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2005, thay thế Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm 1991, trong đó quy định các điều khoản về bảo vệ tính mạng, sức khảo, danh dự, nhân phẩm của trẻ em.
Quyết định số 23/2001/TTg, ngày 26 tháng 02 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001-2010.
Ngoài ra, ngày 23/3/2005, Cục Cảnh sát điều tra tội phạm trật tự xã hội đã tổ chức hội nghị về “Triển khai chương trình hành động phòng, chống tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn 2004-2010”.
2. Các kinh nghiệm trên thế giới để phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử tội buôn bán phụ nữ, trẻ em hiệu quả
Hiện nay, vấn đề tình hình buôn bán phụ nữ và trẻ em không chỉ xảy ra ở nước ta mà còn xảy ra ở rất nhiều nước trên thế giới. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu, áp dụng những kinh nghiệm hay trong việc phát hiện, điều tra truy tố, xét xử của các nước là một vấn đề cần thiết.
Ở một số nước đã ban hành mới các đạo luật trong đó có quy định các hinhd phạt nghiêm khắc với những kẻ buôn bán phụ nữ và trẻ em như: Tại Campuchia, cuối năm 2007, Quốc hội nước này đã thống nhất thông qua dự luật mới về chống buôn bán người và hoạt động kinh doanh tình dục - thay thế cho bộ luật cũ được ban hành năm 1996. Dự luật mới được đánh giá là có nội dung phù hợp và đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới trong việc trấn áp các hoạt động buôn bán phụ nữ, trẻ em và hoạt động kinh doanh tình dục khá phổ biến ở Campuchia. Dự luật không chỉ giúp bảo vệ phụ nữ và trẻ em mà còn đề cao vị thế, bình đẳng giới cho phụ nữ Campuchia.
Hiện nay, nước ta đã hợp tác với Dự án Phòng ngừa Buôn bán Phụ nữ và Trẻ em tại Tiểu vùng Mê Kông của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) kể từ năm 2001 (Giai đoạn I). Năm 2005, Chính phủ Việt Nam đã ký 2 Văn bản Thỏa thuận cho phép mở rộng Dự án Phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em giai đoạn II ở các tỉnh phía Bắc và phía Nam. Hoạt động tại các khu vực dự án mới này (bao gồm cả Tp Hồ Chí Minh) tập trung vào lĩnh vực phòng ngừa, thông qua nâng cao nhận thức cho các nhóm mục tiêu, đồng thời xác định các yếu tố nguy cơ đối với người di cư lao động ở tại cộng đồng nơi đi và cộng đồng nơi đến thông qua mối quan hệ đối tác với Bộ LĐTBXH, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và các đối tác ở các cấp khác. Dự án Phòng ngừa buôn bán phụ nữ và trẻ em của ILO cũng hợp tác với Quĩ Cứu trợ Nhi đồng Anh, Dự án Liên minh các Tổ chức LiênHợp Quốc (UNIAP), Tổ chức Di dân Quốc tế (IOM) và các tổ chức quốc tế khác vận động cho sự tham gia tư vấn của trẻ em đối với các quyết định chính sách về phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em.
3. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống buôn bán phụ nữ, trẻ em.
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước với công tác đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội nói chung và tội phạm mau bán phụ nữ và trẻ em nói riêng, căn cứ vào những quy định của pháp luật Việt Nam và trên những cơ sở nghiên cứu về tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em có hiệu quả, chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị sau:
Về mặt kinh tế - xã hội
Có thể nói, trong các giải pháp phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em, giải pháp về kinh tế xã hội được coi là quan trọng nhất. Nó không những làm cơ sở cho việc thực hiện các biện pháp khác mà còn xóa bỏ tận gốc nguyên nhân và điều kiện cơ bản của tội phạm buôn bán phụ nữ và trẻ em. Nguyên tắc của biện pháp này là dùng sức mạnh của kinh tế thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện làm cho tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em phát sinh, tồn tại, bởi vì một trong những nguyên nhân làm phát sinh tội phạm này là do kinh tế, do nghèo khổ, do không có việc làm… Do vậy, Nhà nước cần có chính sách phát triển kinh tế xã hội phù hợp, đặc biệt cần có những chính sách riêng quan tâm đến những nạn nhân của tội phạm này.
Cụ thể:
Phát triển hơn nữa chương trình dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo, chú ý ưu tiên vùng sâu vùng xa, các tỉnh biên giới và các tỉnh đang có loại tội phạm này phát triển mạnh.
Xúc tiến nhanh công cuộc hiện đại hóa, công nghiệp hóa nông thôn, giuyps chị em phụ nữ ổn định cuộc sống, phát triển sản xuất.
Phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí, vận động các gia đình cho con em đến trường, xóa mù chữ và ngăn chặn tái mù chữ cho nhân dân, đặc biệt cho phụ nữ trong độ tuổi từ 15-35. Từng bước cải thiện sinh hoạt văn hóa tinh thần trong nhân dân, nhất là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Cần ban hành ngày các chính sách, các quy định, các quy chế về tuyển dụng lao động và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị Nhà nước, công ty liên quan, tư nhân… trong việc quản lý và sử dụng lao động, đặc biệt là lao động nữ trong mội ngành nghề, dịch vụ như nhân viên khách sạn nhà hang, tiếp viên, vũ nữ. Vì chính những kẽ hở trong vấn đề này mà trong thời gian vừa qua, là một nguyên nhân không nhỏ làm gia tăng tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
Các tổ chức xã hội, các ngành, các cơ quan chức năng tạp điều kiện cho các nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng, giúp họ đoạn tuyệt với quá khứ, xóa bỏ mặc cảm giữa họ và gia đình, xã hội, tránh bị lừa bán trở lại, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho họ như: trợ giúp vốn ban đầu, công cụ, phương tiện lao động, cây trồng, vật nuôi, giúp kỹ thuật công nghệ, giúp tiêu thụ sản phẩm… để họ tạo dựng lại cuộc sống bình thường. Việc tạo điều kiện cho các nạn nhân tái hòa nhập cộng đồng chính là góp phần làm tăng cái đẹp, giảm bớt cái xấu để xây dựng cuộc sống ngày càng tươi đẹp.
Song song với các biện pháp kinh tế ở cấp độ xã hội, thì giải pháp kinh tế ở cấp độ gia đình cũng hết sức quan trọng và cần thiết. Nó tác động trực tiếp vào việc hạn chế nguy cơ trở thành nạn nhân của hoạt động mua bán phụ nữ và trẻ em, và hạn chế sự gia tăng đối tượng phạm tội của tệ nạn này. Vì thế, một giải pháp cơ bản để đẩy lùi tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em là cần vận hành tốt chức năng kinh tế của gia đình, nhưng đồng thời không được chạy theo nó một cách cực đoan, chỉ biết làm giàu, lấy làm giàu là mục tiêu cao nhất. Bởi vì, nếu coi trọng như vậy, họ sẽ tập trung tất cả thời gian cho việc kiếm tiền và rồi sao nhãng các chức năng khác như: chức năng giáo dục, chăm sóc con cái… và rất có thể chính con cái họ sẽ trở thành nạn nhân của nạn mua bán trẻ em. Và càng nguy hiểm hơn nữa khi các thành viên trong gia dình cũng bị định hướng theo giá trị làm giầu bằng mọi cách, mọi thủ đoạn kể cả bất hợp pháp. Họ sẽ không quan tâm đến đời sống văn hóa, làm cho con cái họ không có điều kiện học hành. Chính vì vậy, không được coi trọng kinh tế gia đình một cách quá mức mà phải có sự kết hợp hài hòa cũng với các chức năng khác của gia đình.
Các biện pháp kinh tế là quan trọng, nhưng chú ý đến vấn đề này thôi thì chưa đủ. Vì kinh tế không phải là nguyên nhân duy nhất của tội phạm và càng không phải là giải pháp duy nhất để giải quyết loại tội phạm này. Điều này được lý giải tại sao có rất nhiều gia đình giàu có mà không hạnh phúc, có nhiều nước kinh tế phát triển nhưng tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em vẫn chưa được xóa bỏ từ đó cho thấy, các giải pháp xã hội, trong đó có xây dựng môi trường xã hội lành mạnh cũng không kém phần quan trọng, thiết yếu như các giải pháp kinh tế. Vấn đề này, chúng ta sẽ thấy rõ ở các phần sau.
Về mặt tuyên truyền, văn hóa- giáo dục
Đây là một giải pháp rộng, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, trong phạm vi đề tài, chúng tôi nhấn mạnh đến các nội dung sau:
- Thứ nhất, đối với công tác tuyên truyền:
Công tác tuyên truyền giáo dục là một mặt trận quan trọng trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Nó tạo ra sự chuyển biến về mặt nhận thức, nâng cao ý thức trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân phòng ngừa và tham gia phòng chống tội mua bán phụ nữ và trẻ em. Cho nên, thực hiện tốt công tác này, nó sẽ là giải pháp cơ bản để phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trả em. Muốn vậy, chúng ta phải làm tốt một số vấn đề sau:
Cần phải tăng cường công tác truyền thong, giáo dục rộng rãi nhằm nâng cao nhận thức của nhân dân về tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em và hậu quả tác hại của nó, với nội dung phong phú, thống nhất phù hợp với từng lứa tuổi, trình độ, từng vùng đặc biệt tập trung vào những vùng có nhiều khả năng bọn buôn người hoạt động. Đồng thời, phát huy tổng lực các phương tiện tuyên truyền như: đài truyền hình, đài tiếng nói, báo chí… vào việc tuyên truyền này.
Không ngừng đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục trong các tầng lớp dân cư về hoạt động mua bán phụ nữ và trẻ em, về các thủ đoạn lôi kéo, dụ dỗ lừa gạt dưới mọi hình thức và hậu quả của việc mua bán phụ nữ và trẻ em gây ra. Qua đó nêu cao ý thức cảnh giác, đề phòng và tích cực phát hiện, kịp thời tố giác các trường hợp mua bán phụ nữ và trẻ em. Nhưng cũng phải có các biện pháp bảo vệ an toàn cho người phát hiện, tố giác. Có như vậy, chúng ta mới phát huy được vai trò chủ động, tích cực của nhân dân trong công tác này.
Hơn nữa, cần phải sử dụng nhiều cách tuyên truyền, giáo dục khác nhau, để khơi dậy sự lên án mạnh mẽ của dư luận xã hội và của đạo đức xã hội về hành vi mua bán phụ nữ và trẻ em. Tức là phải làm thế nào để việc đấu tranh phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em trở thành công việc chung của toàn xã hội. Phải biến nỗi lo lắng về thực trạng mua bán phụ nữ và trẻ em đã và đang diễn ra không chỉ là nỗi lo lắng riêng của những nạn nhân, của Chính phủ, của các cơ quan pháp luật mà còn là nỗi lo chung của mọi người trong xã hội.Cần thấy rằng trừng trị những tên “buôn người” bất kể lý do gì, không chỉ bằng hình phạt mà bằng cả sức mạnh của đạo đức xã hội và của dư luận xã hội. Muốn vậy, phải thực hiện nhiều biện pháp cụ thể, trong đó cần tuyên truyền, giáo dục đạo đức làm người và tôn trọng con người, biết chia sẻ những nỗi đau của những người làm cha, làm mẹ bị mất con; thấu hiểu nỗi khốn cùng của phụ nữ, trẻ em khi trở thành nạn nhân của việc mua bán phi nhân tính. Ngoài ra, chúng ta cần phải lưu tâm đến việc tiếp tục đấu tranh loại bỏ những tàn dư của tư tưởng phong kiến “trọng nam, khinh nữ”… Chỉ có sức mạnh của lương tri con người, của đông đảo các tầng lớp dân cư sau khi đã được trang bị, nâng cao ý thức mới trở thành cơ sở vững chắc nhất của việc phòng ngừa, cảnh giác, phát hiện và đấu tranh kiên quyết chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
Mặt khác, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục pháp luật về quyền con người, về quyền công dân, phổ biến các quy định của pháp luật Quốc gia về quyền con người và quyền công dân, các công ước quốc tế, các tuyền bố của Liên hợp quốc về quyền con người, về phụ nữ và trẻ em, các quy định của tư pháp Quốc tế giữa các quốc gia… Sự hiểu biết pháp luật trong quần chúng nhân dân sẽ nâng cao được ý thức tôn trọng pháp luật, tôn trọng các quyền chính đáng của con người, nâng cao tinh thần cảnh giác, phòng chống tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em.
Cùng với tuyên truyền giáo dục các quy định pháp luật, việc phát hiện kịp thời xử lý nghiêm khắc các tên tội phạm mua bán phụ nữ và trẻ em, và các hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp tay cho bọn “buôn người”. Kết quả xét xử các vụ án mau bán phụ nữ và trẻ em cần được tuyên truyền và phổ biến rộng rãi để trừng trị kẻ phạm tội, “răn đe” những người có ý định phạm tội và là một hình thức rất tốt nhằm nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân.
- Thứ hai,đối với công tác văn hóa- giáo dục:
Có thể nói, văn hóa và giáo dục là hai lĩnh vực tác động trực tiếp và thường xuyên vào các chuẩn mực đạo đức, những giá trị tốt đẹp của nhân loại, là yếu tố xây dựng nên môi trường xã hội làn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện pháp luật hình sự nhằm tăng cường hiệu quả phòng chống buôn bán phụ nữ trẻ em giai đoạn 2005 - 2008.doc