Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM CỦA
ĐOÀN ĐẠI BIỀU QUỐC HỘI TỈNH .
12
1.1. Khái quát về hoạt động giám của Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh . 12
1.1.1. Khái niệm giám sát của Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh . 12
1.1.2. Vai trò giám sát của Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh . 14
1.1.3. Nguyên tắc giám sát của Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh . 17
1.1.4. Thẩm quyền giám sát của Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh . 20
1.2. Nội dung, phương thức giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh . 23
1.2.1. Nội dung giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh . 23
1.2.1.1. Xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát . 23
1.2.1.2. Tổ chức thực hiện giám sát . 24
1.2.1.3. Tổng hợp, báo cáo kết quả giám sát . 25
1.2.2. Phương thức giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh . 26
1.2.2.1. Tổ chức giám sát chuyên đề . 27
1.2.2.2. Giám sát thông qua nghe báo cáo . 29
1.2.2.3. Xử lý đơn thư, theo dõi, đôn đốc, giám sát việc giải quyết . 30
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc
hội tỉnh . .
35
1.3.1. Vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng . 35
1.3.2. Yếu tố thuộc về hệ thống pháp luật chi phối hoạt động giám sát củ
121 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 378 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Hoạt động giám sát của đoàn đại biểu quốc hội tỉnh – Từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoạt động giám sát.
Tuy nhiên, trong thực tế, việc xây dựng chương trình, kế hoạch giám
sát thường là chương trình, kế hoạch giám sát chung nên còn nhiều hạn chế.
Nội dung và phương thức tiến hành giám sát chưa rõ ràng, ôm đồm nhiều lĩnh
vực, chưa kịp thời đối với những vấn đề xã hội mà cử tri bức xúc... nên khó
khăn trong hoạt động giám sát, đồng thời cũng gây khó khăn trong việc theo
dõi kiến nghị sau giám sát, làm cho hoạt động giám sát của đoàn đại biểu
Quốc hội kém hiệu quả.
2.2.1.2. Về tổ chức thực hiện giám sát
a. Tổ chức giám sát chuyên đề
48
Hàng năm, căn cứ vào chương trình giám sát và yêu cầu của Quốc hội,
Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và theo tình hình thực tế tại địa
phương, Đoàn đại hiểu Quốc hội tỉnh đã tổ chức các cuộc giám sát chuyên đề;
xây dựng Kế hoạch giám sát đối với từng chuyên đề cụ thể, trong đó xác định
rõ mục đích, nội dung giám sát, những yêu cầu đối với đối tượng giám sát và
thời gian tiến hành cụ thể; ban hành quyết định thành lập Đoàn giám sát do
một đại biểu trong Đoàn làm Trưởng Đoàn giám sát; chủ động phối hợp chặt
chẽ với Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân tỉnh,
Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh và các sở, ban,
ngành, đoàn thể liên quan để thực hiện giám sát.
Tùy theo nội dung giám sát, Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện các hình
thức giám sát, như: Yêu cầu các đối tượng giám sát báo cáo tình hình theo đề
cương do Đoàn giám sát xây dựng; tổ chức Đoàn giám sát đi thực tế trên cơ
sở báo cáo tình hình của đối tượng giám sát nhằm đánh giá mức độ trung
thực, chính xác của báo cáo, đồng thời phát hiện những bất cập về cơ chế,
chính sách để yêu cầu địa phương, ngành liên quan khắc phục hạn chế, khuyết
điểm và kiến nghị Trung ương bổ sung, sửa đổi về cơ chế, chính sách cho phù
hợp thực tế; tổ chức các buổi làm việc với các sở, ban ngành, đơn vị, chính
quyền địa phương liên quan để thu thập thông tin, làm cơ sở cho những đánh
giá, nhận xét và kiến nghị sau giám sát.
Trong nhiệm kỳ khóa XIII và từ đầu nhiệm kỳ khóa XIV đến nay, Đoàn
đại biểu Quốc hội tỉnh đã tổ chức thực hiện giám sát 13 chuyên đề, gồm:
Giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật về: Người có công với cách
mạng; về giải quyết khiếu naị, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành
chính về đất đai; về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường;
việc thi hành Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong sử dụng nguồn
vốn trái phiếu Chính phủ cho đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006 -2012; về
49
bảo đảm chất lượng và chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông; về
công tác tuyển dụng, đào tạo, bổ nhiệm đối với đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức; về Bảo hiểm y tế; tình hình thực hiện Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội về kết quả giám sát chính sách người có công với cách mạng; tình
hình oan, sai trong việc áp dụng pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự và việc
bồi thường thiệt hại cho người bị oan sai trong hoạt động tố tụng hình sự theo
quy định của pháp luật..... Các chuyên đề giám sát đều phù hợp với yêu cầu
thực tiễn, tập trung vào các lĩnh vực bức xúc của xã hội, sự quan tâm của cử
tri.
Một số chuyên đề giám sát tiêu biểu do Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Quảng Ngãi thực hiện trong nhiệm kỳ XIII và từ đầu nhiệm kỳ khóa XIV đến
nay như sau:
Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm
trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011-2016
Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã tiến hành làm việc
với các sở: Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Công thương và Sở Y
tế; khảo sát thực tế tại 06 địa điểm, cơ sở sản xuất, chế biến, kinh doanh, tiêu
thụ thực phẩm trên địa bàn tỉnh. Trên cơ sở xem xét báo cáo của Ủy ban nhân
dân tỉnh (đã báo cáo Đoàn giám sát của Quốc hội qua Văn phòng Quốc hội);
báo cáo của các sở liên quan; báo cáo tình hình giám sát của Đoàn giám sát và
qua theo dõi tình hình thực tế ở địa phương, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh
Quảng Ngãi báo cáo Đoàn giám sát của Quốc hội về kết quả giám sát “Việc
thực hiện chính sách, pháp luật về an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi, giai đoạn 2011-2016”.
Qua nghiên cứu báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chức
năng, làm việc với các cơ quan quản lý chuyên ngành liên quan, khảo sát thực
tế tại một số cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ thực phẩm,
50
theo dõi tình hình thực tế tại địa phương và đối chiếu với các quy định pháp
luật hiện hành, Đoàn đại biểu tỉnh Quảng Ngãi đã nhận định được những kết
quả đạt được như sau [10]:
- Công tác quản lý an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh được sự quan
tâm chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy: Thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Ngãi đã kịp thời ban hành Công văn số 676-
CV/TU ngày 16/11/2011 về việc thực hiện Chỉ thị của Ban Bí thư về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với vấn đề an toàn thực phẩm trong tình hình
mới. Đồng thời, ngày 30/12/2016, Ban Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Công
văn số 1437-CV/TU về việc tập trung thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp
đẩy mạnh cơ cấu lại ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới, đã
đề ra 5 nhóm giải pháp: Rà soát, điều chỉnh quy hoạch sản xuất nông nghiệp;
đẩy mạnh tích tụ ruộng đất tạo điều kiện cho nhân dân và doanh nghiệp đầu
tư; đổi mới mạnh mẽ phương thức sản xuất trong nông nghiệp; rà soát, bổ
sung cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp; đẩy
mạnh sản xuất nông sản sạch, nông sản hữu cơ và nông sản công nghệ cao.
- Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời cụ thể hóa các quy định pháp luật và
ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành công tác lý an toàn thực phẩm ở địa
phương: Ủy ban nhân dân tỉnh, các cơ quan chuyên môn đã tham mưu ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về lý an toàn thực phẩm được thực hiện
theo đúng thẩm quyền, toàn diện (như: thành lập và kiện toàn Ban chỉ đạo các
cấp; phân công công tác quản lý an toàn thực phẩm giữa các cấp và cơ quan
chuyên môn; phê duyệt và triển khai Kế hoạch thực hiện Chiến lược Quốc gia
an toàn thực phẩm giai đoạn 2012-2020 và tầm nhìn đến năm 2030; Kế hoạch
đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016-
2020; công tác phối hợp trong thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; công tác
tuyên truyền, Chính sách khuyến khách doanh nghiệp đầu tư vào nông
51
nghiệp) và đã đáp ứng kịp thời công tác quản lý và thực thi pháp luật về an
toàn thực phẩm. Các cơ quan chức năng đã kịp thời tham mưu, triển khai thực
hiện các quy định của pháp luật về an toàn thực phẩm; chủ động tham mưu
giải quyết những vướng mắc trong công tác quản lý; tăng cường công tác phối
hợp liên ngành về an toàn thực phẩm.
- Bộ máy quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm dần được kiện toàn
và nâng cao công tác phối hợp: Ban chỉ đạo liên ngành về vệ sinh an toàn
thực phẩm được kiện toàn từ tuyến tỉnh đến tuyến xã, với các thành viên là
người đứng đầu các cơ cơ quan. Công tác phối hợp liên ngành trong thực hiện
các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về an toàn thực phẩm được
tổ chức chặt chẽ và thường xuyên giữa các sở, ban, ngành, đoàn thể trong
tỉnh. Hệ thống tổ chức quản lý an toàn thực phẩm bước đầu đã được hình
thành từ tỉnh đến huyện, xã. Ủy ban nhân dân tỉnh, 03 sở chuyên trách, Ủy
ban nhân dân cấp huyện, xã đã có, bố trí cơ quan, cán bộ chuyên trách và
kiêm nhiệm để tham mưu về công tác quản lý an toàn thực phẩm.
- Công tác thanh tra, kiểm tra được triển khai thường xuyên: Các cơ
quan chức năng theo nhiệm vụ đã tổ chức thanh tra chuyên ngành và phối hợp
thanh tra liên ngành gia tăng cả về số lượng và chất lượng, đồng thời có sự
vào cuộc của chính quyền các cấp, các ngành chức năng liên quan như: Y tế,
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công thương, Công an, chính quyền,
hội đoàn thể... đã kịp thời phát hiện, xử lý những hành vi vi phạm pháp luật
góp phần hạn chế đến mức thấp nhất ảnh hưởng xấu đến người tiêu dùng.
- Hoạt động cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm
đã từng bước đi vào nền nếp: Các cơ quan chức năng theo thẩm quyền và lĩnh
vực quản lý theo ngành đã tổ chức rà soát, thống kê số lượng các cơ sở sản
xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn, tổ chức kiểm tra, đánh giá phân loại,
cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm, lập Bản cam kết
52
đảm bảo an toàn thực phẩm, xác nhận kiến thức an toàn thực phẩm, lập Bản
cam kết đảm bảo an toàn thực phẩm; cấp Giấy tiếp nhận bản công bố hợp quy
và Giấy xác nhận công bố phù hợp quy định an toàn thực phẩm theo phân
công và phân cấp quản lý đã từng bước đi vào nền nếp.
- Hệ thống kiểm nghiệm được quan tâm, từng bước đầu tư: Hiện tỉnh có
03 trung tâm, đơn vị kiểm nghiệm về thực phẩm đều phù hợp với tiêu chuẩn
ISO/IEC 17025:2005, gồm: Khoa Xét nghiệm thuộc Trung tâm Y tế dự phòng
tỉnh; Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm thuộc Sở Y tế;
Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, với chỉ tiêu ban đầu
công nhận là 08 chỉ tiêu (hóa học và 04 chỉ tiêu vi sinh); kiểm nghiệm hóa
học, vi sinh học và an toàn sinh học; kiểm nghiệm các mẫu thực phẩm, nước
sinh hoạt, nước ăn uống, nước uống đóng chai là 21 chỉ tiêu... bước đầu đã
đáp ứng được một số hoạt động kiểm nghiệm phục vụ công tác quản lý an
toàn thực phẩm trên địa bàn.
- Công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về an toàn thực phẩm đã
góp phần nâng cao ý thức về an toàn thực phẩm đối với người quản lý, sản
xuất và tiêu dùng: Công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật về an toàn
thực phẩm được các ngành, các cấp, địa phương chú trọng, tổ chức đa dạng
dưới nhiều hình thức, phong phú về nội dung, phù hợp với đối tượng. Công
tác tuyên truyền giáo dục về an toàn thực phẩm đã nâng cao ý thức, thực hành
của người quản lý, sản xuất, kinh doanh thực phẩm, người tiêu dùng trong
việc sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng thực phẩm an toàn.
- Tình hình ngộ độc thực phẩm và các bệnh truyền qua thực phẩm đã
được kiểm soát tốt: Tình hình ngộ độc thực phẩm, các bệnh truyền qua thực
phẩm được các cơ quan kiểm soát chặt chẽ, có số liệu chi tiết hằng năm về số
vụ, số ca mắc, xác định nguyên nhân cụ thể; số ca ngộ độc trong các vụ ngộ
độc thực phẩm được báo cáo hàng năm, với số ca mắc ngô ̣đôc̣ thưc̣ phẩm đều
53
dưới chỉ tiêu quy định <7/100.000 dân (theo Chương trình mục tiêu quốc gia
về Y tế). Đặc biệt, từ năm 2012 đến nay, trên địa bàn tỉnh chưa có ca tử vong
nào do ngộ độc thực phẩm.
Bên cạnh những kết quả đạt được, đoàn giám sát của Đại biểu Quốc hội
cũng chỉ ra những tồn tại những hạn chế trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật về an toàn thực phẩm . Cụ thể như sau:
- Đối với hệ thống văn bản trong quản lý an toàn toàn thực phẩm thiếu
tính đồng bộ trong việc xây dựng và ban hành, việc ban hành các văn bản
hướng dẫn chưa được kịp thời nên dẫn đến việc xảy ra sự chồng chéo trong
quản lý.
- Công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện của chính quyền địa
phương chưa quan tâm đúng mức, chỉ đạo thiếu quyết liệt của chính quyền
trong việc thi hành các chính sách, quy định pháp luật về an toàn thực phẩm.
- Nhận thức và ý thức chấp hành các quy định của pháp luật về an toàn
thực phẩm của một số cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm chưa cao, chưa
thực hiện nghiêm các quy định.
- Sự phối hợp giữa các sở, ngành liên quan trong một số trường hợp vẫn
còn chưa chủ động, tích cực thực hiện; Ủy ban nhân dân tỉnh chưa xây dựng,
quy hoạch được các vùng sản xuất rau, củ, quả; khu giết mổ gia súc, gia cầm
an toàn.
- Công tác tham mưu hỗ trợ các mô hình sản xuất áp dụng thực hành
quy trình sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP, GLoBalGAP), quy trình kiểm
soát chất lượng theo tiêu chuẩn của Ngành (HACCP, GAP, GMP, GHP, ISO)
chưa được thực hiện trên diện rộng.
- Công tác thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại và xử lý vi phạm
pháp luật về an toàn thực phẩm đã được đẩy mạnh nhưng chưa kịp thời phát
hiện và ngăn chặn những hành vi vi phạm về an toàn thực phẩm.
54
- Công tác tuyên truyền về an toàn thực phẩm, đặc biệt là tuyên truyền
cho đối tượng trực tiếp sản xuất, chế biến, kinh doanh thực phẩm còn hạn chế,
có thực hiện nhưng chưa được thường xuyên, chủ yếu tập trung vào một số
đợt cao điểm do kinh phí bố trí cho hoạt động này thấp.
- Một bộ phận người dân chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về an toàn
thực phẩm, còn sử dụng thực phẩm không rõ nguồn gốc xuất xứ; tình trạng
mua bán, sử dụng các chất phụ gia, chất bảo quản, chất hỗ trợ chế biến thực
phẩm không rõ nguồn gốc, nằm ngoài danh mục cho phép còn sử dụng ở
nhiều cơ sở sản xuất nhỏ lẻ, chế biến thủ công.
Giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011-2016
Qua nghiên cứu báo cáo của các cơ quan; làm việc với một số địa
phương, sở, ngành liên quan, theo dõi tình hình thực tế và đối chiếu với các
quy định pháp luật hiện hành, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Quảng Ngãi nhận
thấy việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành
chính nhà nước trên địa bàn tỉnh, giai đoạn 2011-2016 đạt được những kết
quả như sau [9]:
- Công tác cải cách hành chính trên địa bàn tỉnh được Tỉnh ủy tập trung
chỉ đạo sâu sát: Tỉnh ủy ban hành nhiều nghị quyết liên quan đến việc cải
cách hành chính, nhất là cải cách bộ máy, cải cách thủ tục hành chính; đồng
thời, quy định về việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đặc biệt, để tiếp
tục chỉ đạo trong giai đoạn mới, Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-
NQ/TU ngày 05/12/2016 về cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành
chính tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2016-2020.
- Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời cụ thể hóa các
quy định pháp luật và ban hành văn bản chỉ đạo, điều hành công tác cải cách
bộ máy hành chính nhà nước ở địa phương: Trên cơ sở các nghị quyết của
55
Hội đông nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về cải cách bộ máy hành chính nhà nước theo đúng thẩm
quyền, toàn diện để triển khai, thực hiện như: Quyết định số 39/QĐ-UBND
ngày 26/3/2012 ban hành Kế hoạch cải cách hành chính tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2012-2015; Quyết định số 539/QĐ-UBND ngày 15/4/2013 về
việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước đối với công tác cải cách
hành chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi và Quyết định số 172/QĐ-UBND
ngày 04/4/2016 ban hành Kế hoạch cải cách hành chính tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn 2016 – 2020.
- Cải cách bộ máy hành chính nhà nước được triển khai thực hiện
xuyên suốt từ tỉnh đến cơ sở, tạo sự chuyển biến tích cực: Công tác cải cách
tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đã được quán triệt, triển khai thực hiện
kịp thời và đồng bộ trong toàn hệ thống cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp
công lập. Nội dung cải cách đi vào chiều sâu thực hiện kịp thời; đúng với quy
định của pháp luật và chủ trương, chính sách của Đảng; nhận thức về cải cách
hành chính nhà nước nói chung và cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà
nước nói riêng chuyển biến khá mạnh.
- Nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu và đẩy mạnh việc phân cấp
trong công tác cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước ở các cấp: Tỉnh
đã phân cấp cho các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, cấp huyện và
cấp xã một số nội dung, lĩnh vực cụ thể, đảm bảo tính nguyên tắc, đúng quy
định nhưng tăng cường sự chủ động, kịp thời xử lý công việc ở các cấp theo
thẩm quyền. Tăng cường phân cấp công tác quản lý cán bộ; đảm bảo thống
nhất quản lý cán bộ, công chức nhưng có sự phân công, phân cấp về trách
nhiệm, quyền hạn quản lý cho các ngành, các cấp; đảm bảo nguyên tắc tập
trung dân chủ, thực hiện đầy đủ trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, tránh sự
chồng chéo giữa các cơ quan trong việc thực hiện nhiệm vụ. Đặc biệt, Ủy ban
56
nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 539/QĐ-UBND ngày 15/4/2013 về
việc phân công trách nhiệm quản lý nhà nước đối với công tác cải cách hành
chính trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đồng thời, phân cấp quản lý đối với các
đơn vị sự nghiệp công lập nên đã phát huy tính chủ động cho các cơ quan,
đơn vị, giảm các đầu mối để việc thực hiện nhiệm vụ đạt hiệu quả cao.
- Kết quả cải cách, sắp xếp bộ máy bước đầu đạt những kết quả tích
cực: Tỉnh đã cải cách số lượng đầu mối tổ chức bộ máy các cơ quan, đơn vị;
chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước và chế độ làm việc của Ủy ban nhân
dân các cấp được cụ thể hóa, qua đó giảm được đầu mối, không hình thành
cấp trung gian. Sau khi sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan chuyên môn, Ủy ban
nhân dân tỉnh , Ủy ban nhân dân cấp huyện, các cơ quan đã quy định lại chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn
theo đúng quy định. Về cơ bản, hiện nay, các cơ quan chuyên môn hoạt động
ổn định, hiệu quả góp phần tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước trên các lĩnh vực, phát huy
tính chủ động, giảm bớt các đầu mối, giúp người dân, doanh nghiệp giải quyết
nhanh các thủ tục hành chính.
- Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo sớm xây dựng hoàn thành và triển
khai thực hiện Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức của các cơ
quan hành chính ngay sau khi được cơ quan thẩm quyền phê duyệt: Trên cơ
sở Quyết định số 2035/QĐ-BNV ngày 31/12/2015 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ
phê duyệt danh mục vị trí việc làm trong các cơ quan, tổ chức hành chính của
tỉnh Quảng Ngãi, đến ngày 31/01/2017, Ủy ban nhân dân tỉnh đã quyết định
phê duyệt Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức cho 21/22 sở, ban,
ngành và 14 huyện, thành phố. Đồng thời, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức hành
chính của tỉnh triển khai thực hiện Đề án của cơ quan mình, thực hiện công
tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức theo vị trí việc làm và tiêu
57
chuẩn ngạch công chức tối thiểu tương ứng đã được phê duyệt.
- Ủy ban nhân dân tỉnh đã chủ động xây dựng, hoàn thiện Đề án vị trí
việc làm và số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập:
Trên cơ sở Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ quy
định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập, tỉnh đã sớm
chỉ đạo xây dựng Đề án vị trí việc làm và số lượng người làm việc trong các
đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh, đã trình Bộ Nội vụ để phê duyệt
(đến nay Bộ Nội vụ chưa có quyết định phê duyệt). Đồng thời, có những đề
xuất, sáng kiến (vận dụng) ngoài quy định chung như thành lập thêm hoặc sáp
nhập, hợp nhất, giải thể một số tổ chức, đơn vị theo thẩm quyền (theo dự thảo
Đề án sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự
nghiệp công lập trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2016-2025, đang hoàn thiện),
nhằm tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu quả hoạt động. Đặc biệt, tỉnh đang
xây dựng Đề án thành lập Trung tâm dịch vụ hành chính công, trực thuộc Văn
phòng Ủy ban nhân dân tỉnh để tăng cường khả năng cung cấp dịch vụ hành
chính công trên địa bàn tỉnh.
- Công tác cải cách bộ máy hành chính nhà nước thực hiện đồng bộ với
chủ trương tinh giản biên chế: Biên chế công chức của tỉnh giữ ổn định, từ
năm 2015, thực hiện theo Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17/4/2015 của Bộ
Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên
chức và Nghị định số 108/2014/NĐ-CP ngày 20/11/2014 của Chính phủ về
chính sách tinh giản biên chế. Trong năm 2015 và 2016, tỉnh đã thực hiện chính
sách tinh giản biên chế tương đối nhiều so với các địa phương trong cả nước (đã
tinh giản 693 đối tượng). Ủy ban nhân dân tỉnh đã hoàn thành việc phê duyệt
Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức của các cơ quan hành chính,
trong đó quy định cụ thể số lượng biên chế công chức được giao cho từng cơ
quan, tổ chức đảm bảo đúng theo quy định và phù hợp tình hình thực tiễn,
58
theo đó mỗi năm giảm 1.5 -2.0% để đảm bảo đến năm 2021 giảm 10% trên
tổng số biên chế được giao.
- Cơ sở vật chất, trang thiết bị, điều kiện làm việc dần được đầu tư cải
thiện: Ủy ban nhân dân tỉnh đã quan tâm đầu tư cải thiện đáng kể trụ sở, trang
thiết bị, phương tiện làm việc; ứng dụng công nghệ thông tin, điện tử phục vụ
hoạt động quản lý nhà nước. Đẩy mạnh cải cách về thể chế kinh tế; đổi mới
quy trình quản lý văn bản; quy trình xử lý công việc; thực hiện cơ chế “một
cửa”, “một cửa liên thông”; thống kê, rà soát và công khai thủ tục hành chính
giải quyết công việc của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, giảm tối đa các khâu
trung gian, tạo điều kiện cho tổ chức và công dân tiếp cận, giải quyết các thủ
tục hành chính được thuận lợi.
Mặc dù đã đạt được rất nhiều thành quả đáng khích lệ nhưng qua quá
trình giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, giai đoạn 2011-2016
Đoàn đại biểu Quốc hội đã chỉ ra nhiều hạn chế trong công tác này. Cụ thể
như sau:
- Một số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện được tổ chức theo nguyên tắc quản lý đa ngành, đa lĩnh vực nên trong
quá trình tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ chưa bao quát đầy đủ các
lĩnh vực quản lý dẫn đến hiệu quả quản lý nhà nước còn hạn chế. Qua sắp xếp,
đã thu gọn đầu mối các cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, theo
quy định, hướng dẫn của các bộ, ngành, phát sinh một số tổ chức hành chính
và sự nghiệp có chức năng, nhiệm vụ còn chồng chéo, như: Chi Cục Dân số -
Kế hoạch hóa gia đình; Chi cục An toàn vệ sinh thực phẩm thuộc Sở Y tế;
Trung tâm Dân số - Kế hoạch hóa gia đình cấp huyện thuộc Chi Cục Dân số -
Kế hoạch hóa gia đình; Chi cục Bảo vệ Môi trường thuộc Sở Tài nguyên và
môi trường..., dẫn đến nhiều tầng nấc trung gian, ảnh hưởng đến hiệu quả
59
quản lý nhà nước.
- Quá trình sắp xếp tổ chức bộ máy đơn vị sự nghiệp công lập còn
những tồn tại, hạn chế, như: Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập còn nhiều,
quy mô nhỏ, khả năng tự chủ thấp; chức năng phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà
nước, cung cấp dịch vụ công của một số đơn vị sự nghiệp không còn phù hợp
với điều kiện thực tiễn của tỉnh; có sự tương đồng, trùng lắp về chức năng,
nhiệm vụ giữa các đơn vị, chưa tận dụng được tối đa cơ sở vật chất, nguồn lực
hoạt động. Việc rà soát, sắp xếp tổ chức bộ máy, tài chính các đơn vị chưa
được người đứng đầu quan tâm đúng mức. Việc bố trí viên chức vào vị trí
việc làm có nơi thực hiện chưa đảm bảo theo tiêu chuẩn chức danh nghề
nghiệp.
- Còn nhiều cơ quan, tổ chức hành chính của tỉnh đang sử dụng biên
chế sự nghiệp (538 biên chế sự nghiệp) cho các cơ quan, tổ chức hành chính
của tỉnh thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước. Do Bộ Nội vụ phân bổ biên
chế công chức hành chính cho tỉnh trong những năm qua chưa đáp ứng được
nhu cầu công việc, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính ở địa phương.
- Hiện nay, các Bộ, ngành mới ban hành Thông tư hướng dẫn chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chuyên môn (trong đó
phát sinh thêm nhiều nhiệm vụ mới); đồng thời đối với lĩnh vực giáo dục quy
định giao chỉ tiêu biên chế trên quy mô trường, lớp; lĩnh vực y tế quy định giao
chỉ tiêu biên chế trên số lượng giường bệnh (hệ điều trị) và quy mô dân số (y tế
dự phòng); trong khi đó, chủ trương của nhà nước bắt buộc phải tinh giản biên
chế theo Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị định số
108/2014/NĐ-CP của Chính phủ, theo lộ trình, trong giai đoạn 07 năm (2015-
2021) tinh giản biên chế giảm 10% hiện có hàng năm là việc khó khăn đối với
địa phương và ngành nói riêng.
- Một số đơn vị chưa thực hiện đồng bộ 3 yêu cầu là phải rà soát chức
60
năng, nhiệm vụ; sắp xếp tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế. Nhiều đơn vị chỉ
tập trung vào giải quyết vấn đề biên chế mà chưa quan tâm đúng mức đến việc rà
soát chức năng, nhiệm vụ, xây dựng quy chế làm việc, quy chế phối hợp hoạt
động với các cơ quan liên quan. Một số cơ quan, đơn vị tổ chức thực hiện chưa
kiên quyết tinh giản số cán bộ, công chức, viên chức không đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ, chỉ giảm những đối tượng sức khoẻ yếu, đối tượng không còn tâm
huyết công tác tự nguyện nghỉ hưu.
- Việc tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức, viên chức còn một số
hạn chế. Cán bộ lãnh đạo trẻ chưa nhiều. Công tác đào tạo, bồi dưỡng còn
dàn trãi, chất lượng chưa cao, một bộ phận chưa qua bồi dưỡng về quản lý
nhà nước, lý luận chính trị, các kỹ năng trong quản lý và giao tiếp; việc bố
trí, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức còn bất cập. Một số cán bộ, công
chức được điều động, luân chuyển chưa chủ động, tích cực trong thực hiện
chức trách, nhiệm vụ tại địa phương, đơn vị chuyển đến. Số cán bộ, công
chức, viên chức có trình độ cao còn ít; trình độ tin học, ngoại ngữ của phần
lớn công chức, viên chức còn hạn chế. Nguồn nhân lực chất lượng cao, đội
ngũ cán bộ khoa học, lao động kỹ thuật cao chiếm tỷ lệ chưa cao, công chức
nữ, trẻ trong cấp ủy, chính quyền có tỷ lệ thấp. Thiếu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_hoat_dong_giam_sat_cua_doan_dai_bieu_quoc_hoi_tinh.pdf