Luận văn Huyện chợ mới, châu thành và tri Tôn Trong tỉnh An Giang

CẢM TẠ i

TÓM LƯỢC ii

MỤC LỤC iii

DANH SÁCH BẢNG v

DANH SÁCH HÌNH vi

Chương 1 GIỚI THIỆU 1

1.1. Đặt vấn đề 1

1.2. Mục tiêu đề tài 2

Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3

2.1. Điều kiện tự nhiên ở An Giang 3

2.1.1. Vị trí địa lý 3

2.1.2. Địa hình 4

2.1.3. Khí hậu 4

2.1.3.1. Nhiệt độ 4

2.1.3.2. Mưa 4

2.1.3.3. Lượng bốc hơi và độ ẩm không khí 5

2.1.3.4. Nắng 5

2.1.3.5. Thuỷ văn 5

2.2. Tình hình chăn nuôi thú y ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và

Tri Tôn trong tỉnh An Giang

6

2.2.1. Tình hình chăn nuôi 6

2.2.2. Tình hình quản lý thú y 7

2.3. Đặc điểm sán lá gan 8

2.3.1. Hình thái

pdf43 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1169 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Huyện chợ mới, châu thành và tri Tôn Trong tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện tốt việc tiêm phòng định kỳ, thực hiện công tác kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, xây dựng phương án phòng và chống dịch bệnh cho gia súc, quản lý và cung ứng đầy đủ các loại thuốc thú y, vaccin cho tất cả các địa bàn huyện, xã trong tỉnh. Trung tâm khuyến nông có vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi, thường xuyên mở các cuộc họp, hội thảo và tập huấn để cung cấp thông tin về kỹ thuật mới cho các hộ chăn nuôi. Hệ thống tổ chức thú y ở An Giang - Sở NN & PTNT *: Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Về tình hình dịch bệnh: Do tổ chức tốt mạng lưới thú y ở cơ sở nên ngành Thú y đã nắm và quản lý tốt tình hình dịch bệnh tại địa phương, tuy nhiên dịch bệnh còn xảy ra do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, kinh tế xã hội, Cụ thể những năm gần đây các bệnh truyền nhiễm lẻ tẻ xảy ra như bệnh lở mồm long móng, bệnh tụ huyết trùng, Các cán bộ thú y và người chăn nuôi đang có biện pháp tích cực trong phòng trị các bệnh này. Bên cạnh đó, những bệnh ký sinh trùng gây ra cho gia súc cũng đang diễn ra, nhưng hầu như chưa được các cán bộ thú y và người chăn nuôi quan tâm phòng trị đúng mức về các bệnh này. 2.3. Đặc điểm sán lá gan Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) cho biết sán lá gan có các đặc điểm sau : Sán lá gan thuộc lớp sán lá Trematoda, họ Fasciolidae, giống Fasciola gây ra. Chúng thường ký sinh ở ống dẫn mật, gan, túi mật của trâu, bò, dê, cừu và cả ở người. Gây viêm gan hoại tử, thời kỳ di hành còn thấy ở phổi, tim, hạch lâm ba và tuyến tuỵ. Ký sinh ở bò thường do hai loài Fasciola gigantica và Fasciola hepatica. Hội khuyến nông xãThú y xã Trạm Thú y huyện Chi cục Thú y Trung tâm khuyến nông huyện Trung tâm khuyến nông tỉnh Sở NN & PTNT * Ngoài ra còn có một số loài ký sinh ở tuyến tuỵ, ống dẫn mật, túi mật của gia súc nhai lại: Paramphystomum explanatum và Dicrocolium hopeslooss ký sinh ở ống dẫn mật, gan của bò, dê, cừu. 2.3.1. Hình thái Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan có hệ sinh dục lưỡng tính (có cả bộ phận sinh dục đực và cái trên cùng một cá thể). Sán lá có hai giác bám, giác miệng ở phía đầu sán, giác bụng tròn và ở gần giác miệng. Sán lá gan không có hệ tuần hoàn và hô hấp. Hệ bài tiết gồm nhiều ống nhỏ, phân nhánh và thông với hai ống chính. Hai ống này hợp lại với nhau ở cuối thân rồi thông ra ngoài qua lỗ bài tiết. Bảng 1: So sánh đặc điểm của Fasciola gigantica và Fasciola hepatica Đặc điểm Fasciola gigantica Fasciola hepatica Dài thân Rộng Phía trước Phía đuôi Hai rìa mép Giác bụng Nhánh ruột 25 – 75 mm 5 - 12 mm Không tạo vai Tù Gần song song Có Có nhiều và thấy rõ 20 - 30 mm 3 - 13 mm Tạo vai Nhọn Không song song Có Ít hơn 2.3.2. Trứng Trứng có hình bầu dục, hai đầu nhọn đều, đầu hơi nhỏ hơn, có nắp, màu vàng nhạt, bên trong chứa tế bào phôi xếp kín vỏ trứng. Kích thước trứng 0,111 - 0,115 mm * 0,063 - 0,078 mm. Mỗi ngày, một sán lá gan có thể đẻ 120.000 trứng. Sán có thể sống 3 - 11 năm trong cơ thể ký chủ cuối cùng. Do đó mỗi súc vật nhiễm sán, mỗi năm thải một số lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ, bãi chăn. Trứng sán rất nhạy cảm với khô hanh và chịu tác động trực tiếp của ánh sáng mặt trời. Nên những nơi khô ráo, không có nước và ký chủ trung gian sống thì trứng sán lá gan sẽ không tồn tại và phát triển theo các giai đoạn phát dục được. 2.3.3. Vị trí ký sinh và vật chủ trung gian Vị trí ký sinh: Túi mật, ống dẫn mật và gan. Vật chủ: Trâu, bò, dê, cừu. Ngoài ra còn có ở heo, ngựa, chó, thỏ, động vật hoang dã và kể cả người. Vật chủ trung gian: Là loài ốc nước ngọt thuộc các loài Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei, L. truncatula, L. modicella, L. viatrix, L. auricularia,. và 29 loài ốc khác. Trong đó Lymnaea truncatula là quan trọng nhất trong lan truyền Fasciola gigantica. Nơi phát hiện: Fasciola gigantica được phát hiện khắp đất nước Việt Nam, nhưng phân bố nhiều ở vùng ẩm thấp và có nguồn nước mạch phong phú. 2.3.4. Chu trình phát triển Fasciola trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật, túi mật của gan trâu, bò, dê, cừu,. Sau khi thụ tinh mỗi sán đẻ hàng chục vạn trứng. Trứng cùng dịch mật vào ruột, sau đó tiếp tục theo phân ra ngoài. Nếu gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ 150C - 300C, pH = 5 - 7,7, có ánh sáng, nước) sau 10 - 15 ngày trứng hình thành Miracidium (mao ấu). Miracidium ra ánh sáng bật nắp trứng chui ra ngoài, bơi lội tự do trong nước. Nếu gặp vật chủ trung gian là những loài ốc Lymnaea (L. viridis, L. swinhoei, L. truncatula, L.Galba,), nó chui vào trong cơ thể ốc, di chuyển vào gan, ruột rồi phát triển thành Sporocyst (bào ấu). Sporocyst chứa nhiều tế bào phôi, nó to dần sau 15 - 30 ngày phát triển thành Redia (lôi ấu). Redia hình suốt chỉ, ít hoạt động chứa nhiều tế bào mầm. Khi Sporocyst có những Redia chứa bên trong tăng đến mức độ nhất định, Redia sẽ phá vỡ Sporocyst chui ra nội tạng của ốc. Mỗi Sporocyst có thể sinh ra 10 - 15 Redia. Mỗi Redia có thể sinh ra nhiều Redia con bằng lối sinh sản vô tính như trên. Sau khoảng 35 - 49 ngày, khi dài tới 1 mm, mỗi Redia có thể sinh ra 15 - 20 Cercaria (vĩ ấu). Việc sinh sản theo lôi ấu trùng sinh sản đã làm cho số lượng Redia trong ký chủ trung gian tăng lên và tăng số lượng vĩ ấu (Cercaria) chui ra khỏi ốc, vĩ ấu giống như con nòng nọc, đuôi dài, kích thước nhỏ hơn. Thời gian từ lúc Miracidium chui vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần khoảng 50 - 80 ngày. Sau khi đã thành thục Cercaria qua miệng ốc ra môi trường ngoài, bơi lội tự do trong nước. Sau vài giờ (khoảng 10 - 24 giờ), nó rụng đuôi, tiết ra nhiều chất nhờn tạo thành vỏ bọc chắc chắn (kén) gọi là nang ấu (Adolescaria). Adolescaria thường bám vào cây cỏ thuỷ sinh hoặc ở những vũng nước trên đồng cỏ, quanh vùng lầy lội. Vật nuôi nhai lại ăn phải kén này, vào ống tiêu hoá, vỏ ngoài kén bị phân huỷ, ấu trùng được giải phóng phát triển thành sán ở ống dẫn mật. Nếu trâu bò ăn phải kén gây nhiễm, ấu trùng di hành về gan theo hai cách: - Chui qua màng ruột đi vào xoang bụng về mặt gan, sau đó chui qua tế bào gan vào ống dẫn mật. - Đi theo mạch máu về tĩnh mạch cửa của gan, chui qua tĩnh mạch về ống dẫn mật và túi mật. Chu trình phát triển của sán lá gan được xác định với các khoảng thời gian như sau: - Ở trong môi trường nước (ao, hồ, rãnh, ): trứng sán lá gan nở thành mao ấu sau 14 – 16 ngày. - Ở trong ký chủ trung gian: + Mao ấu phát triển thành bào ấu trong 7 ngày. + Bào ấu thành lôi ấu trong 8 – 21 ngày. + Lôi ấu thành vĩ ấu non trong 7 – 14 ngày. + Vĩ ấu non thành vĩ ấu già trong 13 – 14 ngày. - Ở trong nước (ao, hồ, rãnh,): vĩ ấu rụng đuôi thành kén gây bệnh sau 2 – 24 giờ. - Ở trong vật chủ trung gian cuối cùng: thời gian sán phát triển trưởng thành là 79 – 88 ngày. Hình 2: Vòng đời phát triển của sán lá gan (Clive Bennett, 1999) 2.3.5. Bệnh lý Triệu chứng: Gia súc mắc bệnh có biểu hiện chậm lớn, lông xù, khô, xơ xác, gầy và niêm mạc nhợt nhạt. - Thể cấp tính: ít xảy ra, con vật thường chết đột ngột, thiếu máu, đôi khi có triệu chứng thần kinh, con vật uể oải, kiệt sức, thường chết sau vài ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng. - Thể mãn tính: thường xảy ra, con vật gầy yếu, da khô, lông xù, phù thủng dưới cổ và dưới ngực và phân lúc lỏng lúc đặc. Bệnh tích: - Gan bị viêm, sưng to, màu nâu sẫm, trên bề mặt gan có nhiều sợi fibrin và những điểm thoái hoá, hoại tử màu trắng do tổ chức liên kết giữa thuỳ gan tăng sinh lan vào các thuỳ gan gây tiêu biến tổ chức. - Ống dẫn mật bị viêm, sưng to, thành ống dẫn mật tăng sinh dầy lên làm nghẽn lòng ống. Có trường hợp lòng ống bị sán đục khoét xâm nhập vào nhu mô gan tạo thành những cái hang hốc, vách ống mật tích tụ calci, lòng ống mật đôi khi có lẫn máu và mũ. 2.3.6. Phòng và trị bệnh Phòng: - Thường xuyên kiểm tra đàn để sớm phát hiện những gia súc bị nhiễm sán, phải có kế hoạch tẩy sán theo định kỳ ít nhất là 2 lần/ năm. Những nơi bị nhiễm nặng thì phải tẩy sán cho gia súc một năm đến 3 – 4 lần. Ở những trang trại chăn nuôi phải có kế hoạch chăn thả luân phiên đồng cỏ. Gia súc trước khi nhập đàn phải kiểm tra để tránh tình trạng thải mầm bệnh ra ngoài. - Xử lý các cơ quan nhiễm sán: nếu gan nhiễm sán lá gan nhiều phải giữ lại, nấu chín để nuôi heo hoặc súc vật khác. - Diệt ký chủ trung gian: tháo cạn nước trên đồng cỏ, bãi chăn. Chăn nuôi thêm súc vật ăn ký chủ trung gian như vịt, ngan, ngỗng, cá trắm cỏ,. để ăn ốc. Sử dụng hoá chất để diệt ốc ký chủ trung gian như vôi bột, CuSO4, Sulphate kali. - Vệ sinh thức ăn nước uống: cỏ cắt về phải đem phơi khô ráo, cho uống nước sạch. - Phân và chất độn chuồng phải được thu dọn sạch sẽ và đem ủ sinh học trước khi đem bón cho cây trồng. Trị: Hiện nay có rất nhiều loại thuốc điều trị có hiệu quả cao như: - Fasciozanila: dùng liều 12 mg/kg P, trộn thức ăn hoặc hoà nước cho uống. - Dertyl B: dùng liều 6 mg/ kg P, cho uống. - Dovenix: dùng liều 10 mg/ kg P, tiêm dưới da. - Oximysol: dùng liều 1 g/ kg P, trộn thức ăn hoặc hoà tan cho uống. - Albendazole: liều dùng 7,5 mg /kg P cho ăn hoặc uống.  Ghi chú: bò đang cho bú và vắt sữa, nếu sử dụng thuốc sau 3 ngày mới lấy sữa lại, bò thịt sau 1 tháng mới giết thịt. 2.4. Tóm lược một số công trình nghiên cứu bệnh sán lá gan trên bò Sán lá gan và bệnh do sán lá gan luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, bác sĩ thú y. Sơ lược một số công trình nghiên cứu sán lá gan: Sán lá gan được phát hiện và mô tả đầu tiên vào năm 1370 ở Jean De Brie. Năm 1752, Swammerdam phát hiện những vĩ ấu (Cercaria) của sán này ở một con ốc Gasteropoda. 130 năm sau (1882), Thomas và Lenkrat gần như cùng một lúc tạo được chu trình sinh học hoàn chỉnh của sán lá gan. Hiện nay thường có hai loài là Fasciola hepatica và Fasciola gigantica Ở Thái Nguyên, qua kiểm tra 1.043 trâu bò tại lò mổ Thái Nguyên thì có 57% trâu bò bị nhiễm sán lá gan (Phan Địch Lân, Nguyễn Công Phúc và Trần Tuấn Sa, 1963). Tỉnh Lào Cai là vùng cao có bò bị nhiễm sán lá gan với tỷ lệ nhiễm là 20,8 – 26,6%, thấp hơn đồng bằng, và phát hiện thấy có ốc ký chủ trung gian của sán lá gan có tên là Lymnaea viridis, chúng phân bố rất rộng và chúng nhiễm ấu trùng sán lá gan với tỷ lệ cao. Ở Nam Hà, trâu bò cũng bị nhiễm sán lá gan chiếm 51 – 57% (Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng, 1974). Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) thì kết quả của việc thu nhận tất cả các loài ký sinh trùng lấy ở lò mổ thịt Chánh Hưng (Sài Gòn) với tổng số là 4.638 con bò. Những súc vật này được đưa đến từ 28 tỉnh miền Nam Việt Nam có tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 60%. Tại tỉnh Phú Khánh là vùng chăn nuôi bò tương đối nhiều cũng không tránh khỏi việc nhiễm bệnh sán lá gan, kết quả nghiên cứu cho thấy bò nơi đây nhiễm sán lá gan là 21,92 – 30% (Vũ Sỹ Nhân và Đỗ Trọng Minh, 1989). Trần Hữu Danh (1995) nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan ở An Giang thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò già là 33,33%, bò tơ là 15,38%. Lương Văn Huấn và cộng tác viên (1996) cho rằng bò nuôi tại các tỉnh thành ở phía nam nhiễm sán lá gan nặng nhẹ tuỳ vùng nhưng dao động từ 20 – 50%. Đặc biệt một số loài sán lá gan cũng truyền lây sang người, có 14 loài giun sán gây bệnh trên bò có thể truyền lây sang người trong đó có sán lá gan lớn. Bò ở đồng bằng có tỷ lệ nhiễm cao hơn vùng miền núi, cụ thể là: Đồng bằng nhiễm Fasciola gigantica là 60,23%, miền núi nhiễm Fasciola gigantica là 29,33%. Và có tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò tăng dần theo tuổi. Vùng đồng bằng: Bò dưới 4 tuổi nhiễm sán lá gan là 37,14%, bò từ 4 – 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 55,31%, bò trên 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 72,58%. Vùng miền núi: Bò dưới 4 tuổi nhiễm sán lá gan là 6,89%, bò từ 4 – 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 27,74%, bò trên 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 37,06% (Trần Văn Quang, 1998). Tại huyện Vĩnh Hưng tỉnh Long An thì có tỷ lệ nhiễm sán lá gan loài Fasciola gigantica là 3,33%, Paramphystomum explanatum là 23,33% (Huỳnh Văn Quang, 2001). Tạ Ngọc Liên (2002) khảo sát 60 con trâu và 40 con bò tại lò mổ Trung Tâm Củ Chi bằng phương pháp mổ khám từng phần của viện sĩ Skrjabin, thì có tỷ lệ nhiễm sán lá gan thuộc loài Fasciola gigantica là 53%. Qua khảo sát bằng phương pháp mổ khám 60 con bò ở Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan loài Fasciola gigantica 30 %, tỷ lệ nhiễm tăng dần theo độ tuổi (Huỳnh Ân Giao, 2002). Trần Anh Nhân (2004) cho biết kết quả của việc mổ khám 150 con bò tại lò mổ tập trung ở thị trấn Dĩ An – Bình Dương, nguồn bò được ghi nhận từ 3 tỉnh: Bình Dương - Đồng Tháp – Phú Yên, trên mỗi bò hạ thịt, kiểm tra và thu nhặt mẫu vật ở cơ quan như dạ múi khế, dạ cỏ, gan, xoang bụng. Kết quả đã phát hiện được 99 con bò nhiễm giun sán, trong đó có 37 con bò nhiễm sán lá gan, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 1 – 2 năm tuổi là 16,66%, bò từ 3 – 4 năm tuổi là 23,43%, bò từ 5 – 6 năm tuổi là 25%. Riêng loài Fasciola gigantica 21,33%. 2.5. Tác hại của bệnh sán lá gan Bệnh sán lá gan còn gây thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi bò, sán lá gan có thể làm cho bò chậm tăng trưởng và giảm sinh sản, giảm phẩm chất thịt, sữa, da, lông. Bò sữa bị nhiễm sán lá gan có con giảm sản lượng sữa tới 40%. Khi mắc bệnh này bò sẽ dễ mẫn cảm với các mầm bệnh truyền nhiễm khác do giảm sức đề kháng (Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1978). Hồ Thị Thuận (1984) cho biết ở Hà Lan, hàng năm bệnh sán lá gan gây thiệt hại cho ngành kinh doanh sữa là 135 triệu Phơ – răng. Ở lò sát sinh Anh, hàng năm phải loại thải 120 tấn gan tươi trị giá 2,8 triệu Phơ – răng. Trần Hữu Danh (1995) cho biết tác động sán lá gan đối với ký chủ bò phụ thuộc vào độc lực của chúng, sức chống đỡ của ký chủ, giai đoạn phát dục của sán lá gan, ảnh hưởng của vật môi giới. Tác động của sán lá gan đối với cơ thể ký chủ bò ở nhiều mặt: tác động cơ giới, tác động chiếm đoạt, tác động đầu độc và tác động truyền bệnh. Đáng chú ý nhất là bệnh sán lá gan vừa gây bệnh cho vật nuôi vừa gây bệnh cho người. Ở nước ta có hai trường hợp bệnh trên người, trong đó một trường hợp gây tử vong với số sán là 700 con (Nguyễn Thị Kim Thành và Nguyễn Văn Ban, 1999). Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Vật liệu Vật liệu dùng để lấy mẫu: găng tay nhựa, bọc nylon, dây thun, viết lông dầu. Vật liệu dùng để bảo quản mẫu khi vận chuyển: thùng trữ lạnh. Vật liệu dùng gạn rửa phân: cốc đông 500 ml, vợt lưới, thau, xô. Vật liệu dùng để quan sát tìm trứng sán: đĩa petri và kính hiển vi. 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu ngẫu nhiên mẫu phân/ bò tại nông hộ chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn đại diện cho ba vùng sinh thái trong tỉnh với số mẫu là 50 bò/ huyện. 3.2.2. Phương pháp tiến hành Để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò, chúng tôi tiến hành thu mẫu ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn: 50 mẫu phân/ 50 bò/ huyện, mỗi lần thu mẫu là 25 mẫu phân/ 25 bò/ huyện và phỏng vấn người chăn nuôi về điều kiện môi trường chăn nuôi bò. 3.2.2.1. Kiểm tra sự hiện diện của sán lá gan Cách lấy mẫu: - Thu thập số liệu hộ chăn nuôi bò ở từng địa bàn trong huyện từ trạm thú y của huyện. - Lập danh sách hộ chăn nuôi bò được chọn để đến lấy mẫu. - Lấy mẫu ngẫu nhiên: lấy mẫu phân bò bằng cách đến từng hộ chăn nuôi bò đã chọn ngẫu nhiên của mỗi huyện, tiến hành lấy mẫu phân mà bò vừa mới thải ra ngoài môi trường tự nhiên hoặc phân tươi lấy trực tiếp từ hậu môn của bò, số lượng khoảng 10 - 20 gam cho vào túi nylon. Ghi số tai (hoặc ký hiệu của con vật), ngày lấy mẫu bằng viết dầu lên túi nylon, và bảo quản trong thùng trữ lạnh để vận chuyển về phòng thí nghiệm. Bên cạnh đó phỏng vấn chủ nuôi về những vấn đề có liên quan đến bò (theo phiếu phỏng vấn đã soạn sẵn). Phương pháp kiểm tra: - Dùng phương pháp gạn rửa sa lắng của Benedek để kiểm tra trứng sán lá gan có trong phân. Cách tiến hành: Mỗi mẫu phân được đưa vào cốc có dung tích 500 ml, đổ nước lã vào khoảng 4/5 cốc. Sau đó quậy đều cho tan phân rồi đưa lên rây để lọc lấy phần xác bỏ đi. Phần nước này để yên một thời gian khoảng 5 - 10 phút, sẽ đổ bỏ lớp nước trong bên trên đi. Tiếp tục cho nước vào khoảng 4/5 cốc và quậy đều lên, cũng để yên 5 - 10 phút rồi đổ lớp nước bên trên và cứ tiếp tục như các bước trên thực hiện 3 - 4 lần. Cuối cùng lấy cặn đổ vào đĩa petri, rồi xem chúng dưới kính hiển vi với độ phóng đại 100 lần (10 * 10) để tìm trứng sán lá gan. 3.2.2.2. Điều tra bằng phiếu phỏng vấn về điều kiện môi trường chăn nuôi bò và xử lý số liệu - Thiết kế phiếu phỏng vấn. - Điều tra thử để có thể sửa lại phiếu phỏng vấn cho hợp lý hơn (nếu cần). - Điều tra. - Nhập số liệu. - Phân tích số liệu. 3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên từng huyện (đại diện cho ba vùng sinh thái). Từ đó có thể so sánh: - Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng. - Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi của bò ở một số huyện. - Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo giới tính của bò. - Điều kiện môi trường chăn nuôi của từng huyện ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm sán lá gan. 3.3. Phân tích thống kê Sử dụng Microsoft excel để phân tích số liệu (bao gồm nhập số liệu, tính tỷ lệ phần trăm và vẽ đồ thị theo tỷ lệ phần trăm). + Tỷ lệ nhiễm % ═ (Số con nhiễm * 100)/ Số con kiểm tra. Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Qua thời gian thực hiện đề tài điều tra tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại ba huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang thu được kết quả như sau: 4.1. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò Kết quả phỏng vấn người chăn nuôi và quan sát về điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn . 4.1.1. Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Chợ Mới Bảng 2: Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Chợ Mới Yếu tố Nguyên vật liệu/ Tình trạng Tỷ lệ (%) Chuồng nuôi Xi măng 50,0 Gỗ 37,5 Đất 12,5 Khô ráo 40,0 Ẩm ướt 60,0 Điều kiện môi trường xung quanh Ao tù nước đọng 35,0 Ruộng lúa 33,3 Hình thức khác 31,7 Hình thức chăn nuôi Nuôi nhốt 50,0 Nuôi thả 20,0 Nuôi nhốt kết hợp thả 30,0 Thức ăn Bắp 40,0 Cỏ thu hoạch trên khô 40,0 Cỏ thu hoạch dưới nước 20,0 Tiêm phòng vaccin và tẩy sán lá gan Bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng 80,0 Bệnh sán lá gan 00,0 Bảng 2 cho thấy điều kiện cơ sở vật chất xây dựng chuồng nuôi ở huyện Chợ Mới bằng xi măng chiếm đa số, xi măng làm nền một cách tạm bợ, hầu như các chuồng làm bằng xi măng dùng cho việc chăn nuôi bò là những chuồng được sử dụng lại từ chuồng nuôi heo trước kia và một số chuồng được xây dựng hoàn toàn mới. Người chăn nuôi còn sử dụng các loại gỗ như dừa, tràm, tre,... để làm nền sàn nuôi bò, họ làm nền chuồng nuôi cao hơn mặt đất khoảng 30 cm trở lên. Tuy nhiên, người chăn nuôi thường có thói quen dội rửa cho phân xuống phía dưới nền chuồng nuôi hoặc phía sau chuồng nuôi. Chính vì thế mà phân tồn đọng ở đó rất lâu kết hợp nguồn nước dội rửa chuồng làm cho mặt dưới của nền chuồng và xung quanh chuồng luôn ẩm ướt, ngoài ra phân bò bám trên mặt gỗ hay ở các kẻ hở giữa các tấm gỗ, Đây là điều kiện để trứng sán lá gan gặp điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển. Ngoài ra, họ dùng phân bò để bón cho ruộng lúa hoặc đồng cỏ, ... Nếu những nơi này thường xuyên ẩm ướt và có ký chủ trung gian thì trứng sán phát triển và tiếp tục gieo rắc mầm bệnh cho những con vật khác. Bên cạnh chuồng còn có nhiều ao tù nước đọng xung quanh và ruộng lúa, mà người dân nơi đây thường không mấy quan tâm về vấn đề này, vì họ cho rằng ao tù nước đọng và ruộng lúa xung quanh chuồng cũng không làm ảnh hưởng đến quá trình chăn nuôi bò cũng như chúng không phải là nơi trung gian chứa mầm bệnh và vật chủ trung gian của nhiều loại mầm bệnh kể cả bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng và đặc biệt là bệnh sán lá gan. Các yếu tố như thức ăn cho bò chủ yếu là bắp và cỏ thu hoạch trên khô, và trong những năm nay Chợ Mới đã được bao đê chống lũ, ở một số vùng mực nước ở các kênh, rạch, sông, ao, hồ, là rất thấp kể cả trong mùa lũ và mùa khô dẫn đến các loài ốc nước ngọt sinh sống bị hạn chế, ... Chính các yếu tố này đã làm giảm sự tồn tại và phát triển của mầm bệnh sán lá gan. Việc tiêm phòng vaccin bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng được các hộ chăn nuôi thực hiện nhưng việc tẩy sán lá gan hầu như họ chưa thực hiện. 4.1.2. Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Châu Thành Bảng 3: Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Châu thành Yếu tố Nguyên vật liệu/ Tình trạng Tỷ lệ (%) Chuồng nuôi Xi măng 50,0 Gỗ 30,0 Đất 12,0 Khô ráo 45,0 Ẩm ướt 55,0 Điều kiện môi trường xung quanh Ao tù nước đọng 40,0 Ruộng lúa 30,0 Hình thức khác 30,0 Hình thức chăn nuôi Nuôi nhốt 47,5 Nuôi thả 30,0 Nuôi nhốt kết hợp thả 22,5 Thức ăn Bắp 16,0 Cỏ thu hoạch trên khô 26,8 Cỏ thu hoạch dưới nước 50,0 Tiêm phòng vaccin và tẩy sán lá gan Bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng 85,0 Bệnh sán lá gan 10,0 Bảng 3 cho thấy: Công tác vệ sinh về thức ăn, nước uống, chuồng trại, và điều kiện môi trường xung quanh chuồng nuôi ở huyện Châu Thành vẫn chưa thực hiện tốt. Chuồng được làm bằng xi măng là chủ yếu. Nhưng việc vệ sinh chuồng chưa sạch và thường xuyên, chuồng nuôi ẩm ướt chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều ao tù nước đọng hôi thối gây nên tình trạng ô nhiễm, do người chăn nuôi không xử lý nước bằng biện pháp sinh học như trồng rau hay xử lý bằng hóa chất trước khi cho thoát ra ngoài, nguồn nước dội rửa phân bò tồn đọng lại những nơi trũng thấp gần chuồng. Thức ăn chủ yếu là cỏ thu hoạch dưới nước không được phơi cho héo hay rửa sạch trước khi đem cho bò ăn tạo điều kiện nhiễm bệnh sán lá gan. Phần lớn các hộ chăn nuôi bò chưa thực hiện tiêm phòng bệnh sán lá gan, nếu có thì thời gian dùng thuốc tẩy trong thời gian trước đây đã quá lâu (gần một năm) mà họ chưa tiêm phòng lại, cho nên bò sẽ bị tái nhiễm trở lại. Tuy nhiên, Châu Thành là vùng thực hiện tiêm phòng bệnh sán lá gan cho bò tốt hơn huyện Chợ Mới. Vì nơi đây có một số trang trại chăn nuôi bò vừa và nhỏ, trang trại chăn nuôi với qui mô lớn như Trại bò Châu Thành của Công Ty Afiex và một số hộ chăn nuôi bò sữa tư nhân đều thực hiện tiêm phòng bệnh sán lá gan theo định kỳ. 4.1.3. Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Tri Tôn Bảng 4: Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Tri Tôn Yếu tố Nguyên vật liệu / Tình trạng Tỷ lệ(%) Chuồng nuôi Xi măng 5 Gỗ 10 Đất 85 Khô ráo 75 Ẩm ướt 25 Điều kiện môi trường xung quanh Ao tù nước đọng 14 Ruộng lúa 60 Hình thức khác 26 Hình thức chăn nuôi Nuôi nhốt 48 Nuôi thả 20 Nuôi nhốt kết hợp thả 32 Thức ăn Bắp 7 Cỏ thu hoạch trên khô 60 Cỏ thu hoạch dưới nước 33 Tiêm phòng vaccin và tẩy sán lá gan Bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng 78 Bệnh sán lá gan 0 Bảng 4 cho thấy: Tri Tôn là vùng đồi núi có những vùng đất cao hơn so với đồng bằng và cù lao. Vì vậy chuồng nuôi nơi đây khô ráo kể cả chuồng nền đất, điều kiện xung quanh chuồng ít ao tù nước đọng. Mặt khác, người dân sống nhờ vào trồng lúa là chủ yếu, đặc biệt là vùng đồi núi có nhiều đồng cỏ hoang. Các hộ chăn nuôi bò có thể tận dụng nguồn thức ăn từ rơm lúa và các loại cỏ mọc trên khô đem cho bò ăn, cũng có một số hộ sử dụng các loài cỏ mọc dưới nước ở các khe suối, ao, hồ, sông, Nhưng việc sử dụng các loại thức ăn này với tỷ lệ thấp. Chính vì thế đã hạn chế cơ hội tiếp xúc mầm bệnh sán lá gan và ký chủ bò. Kết quả ở bảng 2, bảng 3 và bảng 4 chứng tỏ mầm bệnh sán lá gan đang lưu hành và tồn tại trong nhiều địa phương. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò hiện nay thuận lợi cho sự phát triển của mầm bệnh sán lá gan. Môi trường sống của bò đang tồn tại nhiều vật chủ trung gian. Trong một thời gian dài, công tác phòng trị bệnh chưa được quan tâm đúng mức, người chăn nuôi chưa thật sự quan tâm đến tình hình nhiễm bệnh sán lá gan của gia súc, để cho gia súc mang bệnh trong một thời gian dài. Hơn nữa, ngày nay trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, giao thông thuận lợi thì việc mua bán và trao đổi gia súc từ nơi này đến nơi khác không còn khó khăn như trước, điều đó cũng góp phần làm cho mầm bệnh sán lá gan lây lan rộng hơn. 4.2. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng Qua quá trình kiểm tra 150 mẫu phân bò tương ứng 150 con bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang, mỗi huyện lấy với số mẫu là 50 mẫu phân/ 50 con bò. Kết quả được tính ở bảng 5 và hình 3. Bảng 5: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng Địa điểm Số kiểm tra(con) Số nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (% ) Chợ Mới Châu Thành Tri Tôn 50 50 50 12 11 7 24 22 14 Tổng 150 30 20 24 22 14 0 5 10 15 20 25 Tỷ lệ nhiễm (%) Chợ Mới Châu Thành Tri Tôn Huyện Hình 3: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng Bảng 5 và hình 3 cho thấy ở 3 huyện có 30 con bò bị nhiễm sán lá gan, chiếm tỷ lệ 20%. Trong đó: + Huyện Chợ Mới có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan là 24%. + Huyện Châu Thành có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan là 22%. + Huyện Tri Tôn có tỷ lệ bò nhiễm sán lá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1196.pdf