Luận văn Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam

Trang phụ bìa

Lời cam đoan

Mục lục

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: NHữ NG VẤ N ĐỀ CHUNG VỀ KHÁ NG NGHI ̣TÁ I

THẨ M TRONG TỐ TUṆ G HÌNH Sự VIÊṬ NAM. 7

1.1. Khái niệm, đăc̣ điểm và ý nghiã củ a tái thẩm . 7

1.1.1. Khái niệm tái thẩm . 7

1.1.2. Đặc điểm của tái thẩm. 9

1.1.3. Ý nghĩa của tái thẩm. 13

1.2. Khái niệm và các yêu cầu của kháng nghị tái thẩm. 14

1.2.1. Khái niệm kháng nghị tái thẩm . 14

1.2.2. Các yêu cầu của kháng nghị tái thẩm. 15

1.3. Quy điṇ h củ a phá p luâṭ tố tuṇ g hiǹ h sự Viêṭ Nam về khá ng

nghị tái thẩm từ năm 1945 đến năm 2003. 17

KẾT LUẬN CHưƠNG 1. 27

Chương 2: QUY ĐIṆ H CỦ A BỘ LUÂṬ TỐ TUṆ G HÌNH Sự NĂ2003 M

VỀ KHÁ NG NGHI ̣TÁ I THẨ M VÀ THưC̣ TIỄN THI HHA. ̀ N 28

2.1. Quy điṇ h củ a Bô ̣luâṭ Tố tuṇ g hiǹ h sự năm 2003 về kháng

nghị tái thẩm. 28

2.1.1. Những căn cứ để kháng nghị theo thủ tục tái thẩm . 28

2.1.2. Thông báo và xác minh những tình tiết mới được phát hiện . 38

2.1.3. Chủ thể kháng nghị theo thủ tục tái thẩm . 40

2.1.4. Thờ i haṇ kháng nghi ̣theo thủ tục tái thẩm . 44

pdf36 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 632 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm trong luật tố tụng hình sự Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác phẩm: Giám đốc thẩm , tái thẩm về hình sự - những vấn đề lý luận và thực tiễn của mình , theo đó : Tái thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, nhƣng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà tòa không biết đƣợc khi ra bản án hoặc quyết định đó [17, tr. 102]. Nhƣ vâỵ quan điểm trên của tác giả Đinh Văn Quế về cơ bản đa ̃thể hiện đƣợc khái niệm tái thẩm theo tinh thần của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003. Tuy nhiên, đƣ́ng trên góc đô ̣khoa hoc̣ pháp lý thì quan điểm này chƣa đƣơc̣ cu ̣thể khi mới chỉ nêu đƣơc̣ tính chất của tái thẩm mà 9 chƣa nêu đƣợc các vấn đề khác nhƣ : chủ thể của quyền kháng nghị (nhƣ̃ng ngƣời có quyền kháng nghi ̣ tái thẩm theo quy điṇh của pháp luâṭ ) hay muc̣ đích của tái thẩm. Môṭ quan điểm khác có thể kể đến đó là quan điểm nêu trong Giáo trình Luật tố tụng hình sự của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội: Thủ tục tái thẩm là một giai đoạn của tố tụng hình sự, trong đó Tòa án xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị vì có những tình tiết mới đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án hoặc quyết định đó [35, tr. 473]. Theo đó , tác giả không đƣa ra khái niệm “tái thẩm” mà đƣa ra khái niêṃ “thủ tuc̣ tái thẩm” , nhƣ vâỵ có thể hiểu tác giả tiếp câṇ khái niêṃ trên với phƣơng diêṇ là môṭ giai đoaṇ của tố tuṇg hình sƣ.̣ Có thể nói những quan điểm trên đã phần nào thể hiện đƣợc khái niệm của tái thẩm một cách cơ bản trong khoa học pháp lý hình sự . Tiếp thu nhƣ̃ng măṭ tích cƣc̣ đồng thời khắc phuc̣ nhƣ̃ng haṇ chế của các hoc̣ giả trên , bản thân tác giả đƣa ra quan điểm về khái niêṃ tái thẩm nhƣ sau: “Tái thẩm là thủ tục tố tụng, trong đó Tòa án có thẩm quyền xét laị bản án hoăc̣ quyết điṇh đã có hiêụ lưc̣ pháp luâṭ nhưng bi ̣kháng nghi ̣bởi các chủ thể có thẩm quyền theo quy điṇh của pháp luâṭ khi có những tình tiết mới đươc̣ phát hiêṇ có thể làm thay đổi cơ bản nôị dung của bản án hoăc̣ quyế t điṇh mà Tòa án không biết đươc̣ khi ra bản án hoăc̣ quyết điṇh đó, nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án chính xác , khách quan , khắc phuc̣ những sai sót trước đó”. 1.1.2. Đặc điểm của tái thẩm - Đối tƣợng của tái thẩm: Nếu nhƣ đối tƣơṇg ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm là nhƣ̃ng vu ̣án thì đối 10 tƣơṇg của tái thẩm cũng giống nhƣ đối tƣơṇg của giám đốc thẩm , đó là các bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật . Tuy nhiên, nếu nhƣ giám đốc thẩm bản án, quyết định bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án thì ở tái thẩm đối tƣơṇg là nhƣ̃ng bản án, quyết điṇh bị kháng nghị vì phát hiện ra những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nôị dung của bản án, quyết điṇh đó. Các bản án, quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ pháp luâṭ tƣ́c là các bản án , quyết định sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm; các bản án đã đƣợc xét xử qua 2 cấp sơ thẩm, phúc thẩm; các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 và BLTTHS năm 2003 (nay là các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014). Đây có thể coi là đặc điểm giúp phân biệt rõ ràng tái thẩm và giám đốc thẩm . BLTTHS năm 2003 chỉ đƣa ra một điều kiện hạn chế đối tƣợng kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đó là những quyết định của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Ngoài hạn chế đó, tất cả các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực đều có thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm nếu có căn cứ. Tuy nhiên, đối tƣợng của kháng nghị không phải là tất cả các quyết định mà Tòa án ban hành mà chỉ là các quyết định giải quyết thực chất vụ án. - Mục đích của tái thẩm: Măc̣ dù pháp luâṭ tố tuṇg hình sƣ ̣nƣớc ta quy điṇh nguyên tắc hai cấp xét xử sơ thẩm và phúc thẩm , nhằm khắc phuc̣ nhƣ̃ng thiếu sót , sai lầm của cấp xét xƣ̉ thƣ́ nhất , đảm bảo vu ̣án đƣơc̣ giải quyết môṭ cách khách quan , chính xác, minh bac̣h. Tuy nhiên, trên thƣc̣ tế không phải lúc nào cấp xét xƣ̉ phúc thẩm cũng hoàn toàn chính xác và đạt đƣợc những kết quả nhƣ mong muốn vì những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan. Do vâỵ, tái thẩm với 11 tƣ cách là thủ tục tố tuṇg xem xét lại tính có căn cứ của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mà bị kháng nghị khi phát hiêṇ ra các tình tiết mới, với muc̣ đích cũng nhƣ giám đốc thẩm đó chính là nhằm khắc phuc̣ nhƣ̃ng sai sót trong các bản án , quyết điṇh trƣớc đó , đảm bảo bản án , quyết định đƣa ra đƣợc đúng đắn , khách quan, đúng ngƣời, đúng tội; thể hiêṇ chính sách pháp luật của Nhà nƣớc pháp quyền. - Thẩm quyền tái thẩm: Tòa án là cơ quan nhà nƣớc duy nhất có thẩm quyền xét xử , do vậy quyền tái thẩm đƣợc xác định là Tòa án cấp trên có thẩm quyền tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp dƣới. Theo quy định của BLTTHS năm 2003 thì thẩm quyền tái thẩm gồm 3 cấp tái thẩm: Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp quân khu; Tòa hình sự TANDTC và Tòa án quân sự trung ƣơng; Hội đồng Thẩm phán TANDTC. - Bản chất pháp lý của tái thẩm: Tái thẩm xem xét tình tiết mới đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị . Nhƣ vậy có các điều kiện cần thiết đối với tình tiết mới nhƣ sau : Thứ nhất , tình tiết mới phải là tình tiết tồn tại khách quan trƣớc khi Tòa án ra bản án hoăc̣ quyết điṇh của mình, chƣ́ không phải là tình tiết sau khi xét xƣ̉ và ra bản án thì mới xuất hiện tình tiết mới đó . Sau khi đáp ƣ́ng yêu cầu tình tiết tồn taị trƣớc khi Tòa ra bản án hoặc quyết định , thì yêu cầu thứ hai , tình tiết đó phải đƣợc phát hiện sau khi bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật , tƣ́c là sau khi bản án , quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ thi hành thì tình tiết này mới đƣơc̣ phát hiêṇ bởi bất kỳ ngƣời nào (ngƣời bi ̣ kết án , cơ quan tổ chƣ́c hay moị công dân). Yêu cầu cuối cùng của tình tiết mới đó là Tòa án không biết đƣợc tình tiết đó khi ra bản án , quyết định . Nhƣ vâỵ , nếu Tòa án đa ̃biết tình tiết đó 12 trƣớc khi ra bản án , quyết điṇh của mình thì vấn đề tái thẩm se ̃không đƣơc̣ đăṭ ra. Chỉ khi thỏa mãn đồng thời các điều kiện trên thì mới đƣợc coi là tình tiết mới. Tuy nhiên, không phải bất cƣ́ tình tiết nào khi đƣơc̣ công nhâṇ là tình tiết mới đều đăṭ ra vấn đề tái thẩm mà tái thẩm còn xem xét ý nghĩa của tình tiết mới đối với vụ án , tƣ́c là một tình tiết mới chỉ khi nó có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật thì mới là căn cứ để có thể làm phát sinh tái thẩm . Nhƣ vâỵ, tình tiết mới đó phải mang một ý nghĩa quan trọng đó là khi áp dụng tình tiết đó thì nội dung cơ bản của bản án, quyết điṇh đó có thể bi ̣ thay đổi , còn những tình tiết mới nhƣng không có ý nghĩa thay đổi hoặc thay đổi không đáng kể nội dung của bản án, quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ của Tòa thì tình tiết đó cũng không thể coi là tình tiết làm phát sinh kháng nghi ̣ tái thẩm. - Cơ sở phát sinh tái thẩm: Cơ sở làm phát sinh tái thẩm đó chính là có kháng nghị . Theo quy định của pháp luật hiện hành thì khi có kháng nghị của ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền sẽ là cơ sở để phát sinh tái thẩm. Viêc̣ phát hiêṇ nhƣ̃ng tình tiết phát sinh kháng nghị có thể do ngƣời bị kết án , cơ quan, tổ chƣ́c và moị công dân , song không phải ai cũng có quyền kháng nghi ̣ tái thẩm . Các cá nhân khi phát hiêṇ ra tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nôị dung của bản án, quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ pháp luâṭ của Tòa thì cần báo cho Viêṇ kiểm sát hoăc̣ Tòa án, theo đó, Viêṇ trƣởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm ra quyết định xác minh những tình tiết đó. Nhƣ vậy chỉ khi có kháng nghị của ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền bằng văn bản thì mới có thể phát sinh tái thẩm. Điểm khác biệt giữa giám đốc thẩm và tái thẩm đó là trong khi giám đốc thẩm sẽ phát sinh khi có kháng nghị của Chánh án hoặc Viện trƣởng có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thì ở tái thẩm chỉ ghi nhận quyền kháng nghị tái thẩm thuộc Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) có thẩm quyền. 13 1.1.3. Ý nghĩa của tái thẩm Có thể khẳng định rằng tái thẩm mang ý nghĩa lớn lao không chỉ trong khoa học pháp lý hình sƣ ̣mà còn mang ý nghĩa chính trị , xã hội , thực tiễn . Trong công tác đấu tranh phòng , chống, ngăn chặn tội phạm , viêc̣ phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan ngƣời vô tội là vô cùng quan trọng . Các quy định của pháp luật tố tụng về tái thẩm thể hiện cơ chế đảm bảo nâng cao trách nhiệm của Nhà nƣớc đối với công dân, đảm bảo thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, công bằng, bảo vệ triệt để các quyền cơ bản của công dân . Ngoài ra, chế định tái thẩm còn góp phần bảo đảm hiệu quả hoạt động và tính độc lập của các cơ quan tƣ pháp, qua đó bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. Tái thẩm góp phần đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghiã, thống nhất của pháp luật, làm cho pháp luật đƣợc thực thi một cách nghiêm minh, đảm bảo quyền công bằng cho ngƣời dân trƣớc pháp luật, đảm bảo pháp luật ngày càng đóng vai trò tối thƣợng trong đời sống Nhà nƣớc cũng nhƣ đời sống xã hội. Về măṭ xa ̃hôị , thủ tục tái thẩm cũng mang ý nghĩa quan trọng . Nhà nƣớc ta với chủ trƣơng, chính sách pháp luật đảm bảo việc xét xử khách quan, công bằng , bản án đƣa ra đúng ngƣời , đúng tôị, không bỏ loṭ tôị phaṃ cũn g nhƣ không làm oan ngƣời vô tôị . Tuy nhiên, trong thực tiễn điều tra , truy tố, xét xử vụ án hình sự thì vì nhiều lý do khác nhau nên vẫn còn có nhiều trƣờng hợp án oan, sai, để lọt tội phạm, khi ấy pháp luật sẽ không thực hiện đƣợc đầy đủ nhiệm vụ của mình khi không bảo vệ đƣợc lợi ích của xã hội , quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Do đó, thủ tục tái thẩm với chƣ́c năng xem xét lại các bản án , quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhƣng có kháng nghị do phát hiện ra các tình tiết mới sẽ tránh đƣợc tình trạng oan, sai, giúp xử lý đúng ngƣời , đúng tội , góp phần vào công tác đấu tranh phòng chống tội 14 phạm, đảm bảo ổn định trật tự xã hội , đảm bảo công bằng xã hội, củng cố lòng tin của ngƣời dân vào hoạt động của Tòa án, nâng cao uy tín của cả hệ thống pháp luật và của Nhà nƣớc Ngoài ra , tái thẩm còn mang ý nghĩa pháp lý đặc biệt trong tố tụng hình sự . Tái thẩm chính là cơ sở pháp lý để khẳng định tính đúng đắn của bản án , quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ pháp l uâṭ, hoặc là cơ sở để hủy bỏ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật từ đó chấm dứt tố tụng đối với vụ án hoặc khôi phục lại trình tự tố tụng đối với vụ án nhằm xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án, giúp vụ án đƣợc giải quyết một cách đúng đắn, công bằng , nghiêm minh. 1.2. Khái niệm và các yêu cầu của kháng nghị tái thẩm 1.2.1. Khái niêṃ kháng nghi ̣tái thẩm Kháng nghị trong tố tụng hình sự là hành vi của ngƣời có thẩm quyền thể hiện ý chí của mình về việc phản đối một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án và yêu cầu sửa đổi hoặc hủy bỏ một phần hoặc toàn bộ nội dung bản án, quyết định đó, nhằm mục đích đảm bảo công bằng, đảm bảo cho việc xét xử khách quan, minh bạch, chính xác, khắc phục những sai lầm trong việc giải quyết vụ án hình sự. Kháng nghị trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam có các hình thức kháng nghị phúc thẩm, kháng nghị giám đốc thẩm và kháng nghị tái thẩm. Nếu nhƣ kháng nghị phúc thẩm là việc Viện kiểm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chƣa có hiệu lực pháp luật, kháng nghị giám đốc thẩm là việc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền kháng nghị bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhƣng phát hiện ra những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án thì kháng nghị tái thẩm đƣợc hiểu là việc ngƣời có thẩm quyền kháng nghị khi có cơ sở về việc phát hiện tình tiết mới có thể 15 làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án thì thực hiện quyền kháng nghị của mình. Về khái niêṃ kháng nghi ̣ tái thẩm cũng có môṭ số các quan điểm của các học giả. Quan điểm của tác giả Nguyêñ Nhƣ Thắng trong Luâṇ văn thac̣ si ̃ “Kháng nghi ̣giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam” đa ̃nêu lên khái niêṃ về kháng nghi ̣ tái thẩm môṭ cách đầy đủ, theo đó: Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm về hình sự là một quyền năng mang tính đăc̣ thù của Viêṇ kiểm sát, do ngƣời có thẩm quyền thể hiêṇ bằng môṭ văn bản pháp lý, trong đó nêu rõ lý do về viêc̣ kháng nghi ̣ và đề nghị Hội đồng tái thẩm xét lại bản án, quyết điṇh của Tòa án đa ̃có hiêụ lƣc̣ pháp luâṭ, nhƣng có tình tiết mới đƣơc̣ phát hiêṇ có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết điṇh đó mà Tòa án không biết đƣơc̣ khi ra bản án, quyết điṇh này, nhằm làm cho viêc̣ giải quyết vụ án đƣợc đúng quy định của pháp luật [33]. Nhƣ vâỵ , nếu nhƣ tái thẩm là môṭ thủ tuc̣ tố tuṇg th ì kháng nghị tái thẩm laị là môṭ quyền năng của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền là Viêṇ kiểm sát . Có thể thấy khái niệm trên đã thể hiện đƣợc một cách cụ thể khái niêṃ kháng nghi ̣ tái thẩm thông qua chủ thể kháng nghi ̣ , nôị dung cũng nhƣ mục đích của kháng nghị tái thẩm . Do đó , cá nhân tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của tác giả Nguyêñ Nhƣ Thắng về khái niêṃ này. 1.2.2. Các yêu cầu của kháng nghị tái thẩm Để kháng nghị tái thẩm có hiệu lực cần thỏa mãn các điều kiện sau: - Thứ nhất, về căn cứ: Căn cứ kháng nghị theo tái thẩm là những tình tiết mới đƣợc phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án hoặc quyết định đó. Tức là khi ra bản án hoặc quyết định, Tòa án không hề biết đến các tình tiết này. Đồng thời những tình tiết này phải có giá trị có thể làm thay 16 đổi cơ bản nội dung bản án hoặc quyết định đó, còn nếu những tình tiết này không có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thì không thuộc trƣờng hợp phải xét lại theo thủ tục tái thẩm. - Thứ hai, về chủ thể: Một yêu cầu nữa của kháng nghị tái thẩm đó là chủ thể kháng nghị. Theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành , không phải bất kỳ ai khi phát hiện ra các tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án , quyết điṇh của Tòa cũng có thể có quyền kháng nghi ̣ , mà cần thông báo tình tiết đó cho ngƣời có thẩm quyền kháng nghị . Chủ thể của quyền kháng nghị theo quy định của BLTTHS năm 2003 đó chính là Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC), Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự trung ƣơng, Viện trƣởng VKSND cấp tỉnh, Viện trƣởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền kháng nghị với mỗi loại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cụ thể quy định trong luật. Nhƣ vậy, để kháng nghị tái thẩm có hiệu lực thì không phải cá nhân, tổ chức nào cũng có quyền năng này mà chỉ có ngƣời tiến hành tố tụng có thẩm quyền đƣơc̣ quy định trong luật thì mới có quyền kháng nghị tái thẩm. - Thứ ba, về thủ tục: Khi nhâṇ đƣơc̣ tin báo của cá nhân hoăc̣ cơ quan , tổ chƣ́c về nhƣ̃ng tình tiết mới đƣơc̣ phát hiêṇ của vu ̣á n, Viêṇ trƣởng Viện kiểm sát có thẩm quyền kháng nghị tái thẩm sẽ ra quyết định để xác minh nhƣ̃ng tình tiết đó , có phải là tình tiết mới không , có thể làm thay đổi cơ bản nôị dung bản án , quyết điṇh có hiêụ lƣc̣ của Tòa hay chỉ thay đổi môṭ phần nào đó, hoăc̣ khi ra bản án , quyết điṇh đó Tòa án có biết đến tình tiết mới này hay không? Sau khi đa ̃xác minh nhƣ̃ng tình tiết mới đƣơc̣ phát hiêṇ có đủ điều kiêṇ làm căn cƣ́ để kháng nghi ̣ tái thẩm t hì ngƣời có thẩm quyền kháng nghị phải ra quyết định kháng nghị tái thẩm bằng văn bản gửi Tòa án nhân dân có thẩm quyền tái thẩm . Trong trƣờng hơp̣ không đủ căn cƣ́ để kháng 17 nghị tái thẩm, ngƣời có thẩm quyền tái thẩm c ần trả lời cho cá nhân , cơ quan hoăc̣ tổ chƣ́c đa ̃thông báo cho mình về tình tiết mới phát hiêṇ đó lý do của viêc̣ không kháng nghi ̣. - Và yêu cầu thứ tƣ , về thời gian: Kháng nghị theo thủ tục tái thẩm cần đƣợc đảm bảo về mặt thời gian. Việc xét lại bản án theo thủ tục tái thẩm không phụ thuộc vào việc bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa tuyên ngƣời bị kết án nhƣ thế nào, có tội hay vô tội mà phụ thuộc vào việc có những tình tiết mới có thể làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định đó. Do vậy, kháng nghị theo thủ tục tái thẩm có hai hƣớng đó là tái thẩm theo hƣớng có lợi và tái thẩm theo hƣớng không có lợi cho ngƣời bị kết án. Trƣờng hợp tái thẩm theo hƣớng không có lợi cho ngƣời bị kết án thì phải tiến hành trong thời gian quy định của pháp luật, đồng thời thời hạn kháng nghị đối với cơ quan có thẩm quyền kháng nghị cũng phải đƣợc thực hiện theo thời gian cụ thể, tuy nhiên nếu tái thẩm theo hƣớng có lợi cho ngƣời bị kết án thì không hạn chế về thời gian và đƣợc tiến hành trong cả trƣờng hợp ngƣời bị kết án đã chết mà cần minh oan cho họ. Nhƣ vậy, yêu cầu về thời gian của kháng nghị tái thẩm đã thể hiện đƣợc nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật tố tụng hình sự. 1.3. Quy điṇh của pháp luâṭ tố tuṇg hiǹh sƣ ̣Viêṭ Nam về k háng nghị tái thẩm tƣ̀ năm 1945 đến năm 2003 * Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1975 Sau khi Cách maṇg Tháng 8/1945 thành công , ngày 09/1/1946, Quốc hôị nƣớc ta đa ̃ban hành bản Hiến pháp đầu tiên taọ cơ sở pháp lý cho viêc̣ xây dƣṇg và quản lý bộ máy nhà nƣớc , đó là bản Hiến pháp năm 1946. Ngày 24/1/1946, Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 13/SL về tổ chƣ́c Tòa án trong đó có sƣ ̣ghi nhâṇ nguyên tắc “Tòa án thƣc̣ hiêṇ hai cấp xét xử” , tuy nhiên trong Sắc lêṇh này chƣa hề có môṭ ghi nhâṇ 18 nào quy định về thẩm quyền của Tòa án trong việc xét lại bản án , quyết điṇh của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật . Nhƣ vâỵ, măc̣ dù nguyên tắc hai cấp xét xƣ̉ đa ̃đƣơc̣ quy điṇh nhƣng thời điểm này pháp luâṭ nƣớc ta chƣa có quy điṇh về thủ tuc̣ tái thẩm hay giám đốc thẩm , do vâỵ pháp luâṭ tố tuṇg thời kỳ này mới chỉ xét xƣ̉ laị vu ̣án hoăc̣ bản án , quyết điṇh sơ thẩm chƣa có hiêụ lƣc̣ pháp luật mà chƣa có quy định về việc xét lại bản án , quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ của Tòa án. Vấn đề này chỉ đăṭ ra chính thƣ́c tƣ̀ năm 1959 khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1959 với thủ tuc̣ duy nhất là giám đốc thẩm. Tuy nhiên, vâñ chƣa có quy điṇh về thủ tuc̣ tái thẩm . Hiến pháp 1959 quy điṇh: “TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. TANDTC giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa phương, Toà án quận sự và Toà án đặc biệt” [19, Điều 103]. Tiếp đó, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 đã quy định khá đầy đủ các nguyên tắc trong việc xét xử , phân định thẩm quyền của Toà án các cấp . Nhƣ vâỵ, bên cạnh việc xét xử hai cấp nhƣ trƣớc đây, Toà án đã áp dụng một thủ tục xét xử mới đặc biệt, đó là thủ tục giám đốc thẩm. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960 quy định: “Đối với các bản án và quyết định của Toà án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật, nếu phát hiện có sai lầm thì Chánh án TANDTC đưa ra Uỷ ban thẩm phán TANDTC xét định” [20, Điều 10]. Căn cƣ́ để phát sinh thủ tuc̣ giám đốc thẩm trong thời kỳ này chỉ đƣơc̣ xác điṇh chung là nhƣ̃ng sai lầm nghiêm troṇg trong viêc̣ xét xƣ̉ mà không có sƣ ̣phân biêṭ giƣ̃a sai lầm về phƣơng diêṇ pháp luâṭ hay sai lầm về sƣ ̣viêc̣ , hay nói cách khác, tái thẩm là một phần trong giám đốc thẩm. Năm 1961, Pháp lệnh quy điṇh cụ thể về tổ chức của TANDTC và tổ chƣ́c của Tòa án nhân dân điạ phƣơng ngày 23/3/1961 của Uỷ ban thƣờng vụ Quốc hội có quy điṇh về việc xét lại bản án , quyết điṇh của Tòa án đa ̃có hiêụ 19 lƣc̣ pháp luâṭ. Pháp lệnh cũng quy định về nhiệm vụ, quyền haṇ của Chánh án TANDTC và một trong những nhiệm vụ , quyền hạn đó là việc kháng nghị những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân các cấp nhƣng phát hiện có sai lầm. Nhƣ vâỵ, có thể thấy rằng, pháp luật tố tụng thời kỳ này đã bắt đầu quy điṇh thủ tuc̣ xét laị các bản án , quyết điṇh có hiêụ lƣc̣ của Tòa án . Tuy nhiên, gần nhƣ không phân điṇh đƣơc̣ theo hình thƣ́c giám đốc thẩm hay tái thẩm mà theo môṭ thủ tuc̣ chung khi căn cƣ́ của viêc̣ xét laị là bản án , quyết điṇh đó có sƣ ̣sai lầm. Thủ tục tái thẩm chỉ chính thức đƣợc nhắc đến tro ng BLTTHS của Việt Nam Côṇg hòa ban hành ngày 20/12/1972 tại miền Nam Việt Nam với tƣ cách là một trong hai thủ tục chính để xét lại bản án, quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc̣ pháp luật: thƣơṇg tố và tái thẩm . Thủ tục tái thẩm đƣợc quy định với những căn cứ để tái thẩm giống nhƣ trong quy định của Bộ luật tố tụng hình sự Bắc Kì năm 1921. * Thời kỳ từ năm 1976 đến trước khi ban hành BLTTHS năm 1988 Vào thời gian đầu sau giải phóng miền Nam , thống nhất đất nƣớc, pháp luâṭ tố tuṇg hai miền chƣa thống nhất , viêc̣ xét laị bản án hoăc̣ quyết điṇh đa ̃ có hiệu lực pháp luật chƣa có sự phân chia thành hai thủ tục riêng biệt là giám đốc thẩm và tái thẩm . Thời điểm này taị miền Nam Viêṭ Nam t ạm thời áp dụng Sắc lệnh số 01- SL-76 ngày 15/3/1976. Đến ngày 18/12/1980, Quốc hôị nƣớc ta thông qua bản Hiến pháp năm 1980. Lúc này , pháp luật tố tụng hình sự mới thực sự đƣợc thống nhất . Thể chế hóa quy điṇh của Hiến pháp, Luâṭ tổ chƣ́c Tòa án nhân dân và Luâṭ tổ chƣ́c VKSND cũng có những quy định tiến bộ. Hiến pháp năm 1980 quy điṇh: TANDTC là cơ quan xét xử cao nhất nƣớc Cộng hòa xã hội 20 chủ nghĩa Việt Nam. TANDTC giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa phƣơng và các Toà án quân sự. TANDTC giám đốc việc xét xử của Toà án đặc biệt trừ trƣờng hợp Quốc hội hoặc Hội đồng nhà nƣớc quy định khác khi thành lập toà án đó [21, Điều 135]. Cụ thể hoá quy định trên, Luật tổ chức Tòa án nhân dân cũng đƣợc ban hành vào ngày 03/7/1981, trong đó thủ tuc̣ tái thẩm đa ̃đƣơc̣ đăṭ ra . Luâṭ tổ chƣ́c Tòa án nhân dân năm 1981 quy điṇh: “Những bản án và quyết điṇh đã có hiệu lực pháp luật được xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm , nếu thấy có vi phạm pháp luật, hoăc̣ đươc̣ xét laị theo thủ tuc̣ tái thẩm , nếu phát hiêṇ những tình tiết mới” [23, Điều 12]. Nhƣ vâỵ viêc̣ xét laị nhƣ̃ng bản án , quyết điṇh của Tòa án đa ̃có hiêụ lƣc̣ pháp luâṭ đƣơc̣ quy điṇh không chỉ với thủ tục giám đốc thẩm mà còn với thủ tuc̣ tái thẩm , theo đó nếu trƣờng hơp̣ thấy nhƣ̃ng vi phaṃ pháp luâṭ thì xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm , còn nếu trƣờng hợp phát hiện những tình tiết mới thì thực hiệ n xét laị bản án , quyết điṇh đa ̃có hiêụ lƣc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008259_2685_2002950.pdf
Tài liệu liên quan