Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN
HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ . 9
1.1 Những khái niệm có liên quan . 9
1.2. Vai trò và phương thức kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước thông
qua hoạt động xét xử . 15
Chương 2: THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ
NƯỚC THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HAI
CẤP TỈNH ĐĂK NÔNG . 25
2.1. Tình hình quản lý hành chính nhà nước tỉnh Đăk Nông và thực trạng các vi
phạm phổ biến trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ . 25
2.2. Thực trạng hoạt động xét xử án hành chính đối với các vi phạm của cơ quan
hành chính nhà nước và người có thẩm quyền . 36
2.3. Thực trạng hoạt động xét xử án dân sự đối với các vi phạm của cơ quan hành
chính nhà nước và người có thẩm quyền . 46
2.4. Thực trạng hoạt động xét xử án hình sự đối với người có thẩm quyền trong
cơ quan hành chính nhà nước . 57
2.5. Đánh giá chung về một số quy định của pháp luật tố tụng . 64
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG, HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT CÁC CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN . 76
3.1. Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước, hoạt
động xét xử . 76
3.2. Thực hiện tốt các yêu cầu về cải cách tư pháp . 78
3.3. Nâng cao tính độc lập trong hoạt động xét xử . 81
3.4. Nâng cao năng lực, trách nhiệm của người thi hành công vụ. 84
3.5. Yêu cầu về cơ sở vật chất, khoa học công nghệ . 84
3.6. Quy chế lương, phụ cấp . 86
3.7. Quy định bảo vệ Thẩm phán . 87
3.8. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng . 88
KẾT LUẬN . 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO . 94
102 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 23/02/2022 | Lượt xem: 384 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm soát các cơ quan hành chính nhà nước thông qua hoạt động xét xử - Từ thực tiễn tỉnh Đăk Nông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tịch Ủy ban nhân dân có thể tham gia nhưng ít khi đúng
như theo giấy triệu tập của Tòa án. Bên cạnh đó, người bị kiện lại rất không
hài lòng với từ “Triệu tập” của Tòa án. Theo họ, Tòa án phải mời họ đến làm
việc chứ không được sử dụng từ “Triệu tập”. Điều này bắt nguồn từ lối tư duy
cũ, xem Tòa án như một cơ quan chuyên môn ngang hàng với cơ quan chuyên
môn trực thuộc Ủy ban nhân dân. Bên bị kiện không đến Tòa án làm việc,
hoặc đến không đúng thời gian dẫn đến thời hạn giải quyết vụ án bị ảnh
hưởng cũng như phiên đối thoại khó triển khai đúng lịch, làm người khởi kiện
bức xúc và khó đối thoại, hòa giải thành.
Một khó khăn khác nữa đó là cơ quan hành chính nhà nước, người có
thẩm quyền bị kiện trong vụ án hành chính thông thường họ nhận biết được
quyết định hành chính hoặc hành hành vi hành chính là trái quy định của pháp
luật nhưng lại rất ít khi tự thu hồi quyết định hoặc xin lỗi công khai đối với
người bị kiện để tránh đưa vụ án ra xét xử. Người bị kiện có xu hướng cho
rằng Thẩm phán giải quyết vụ án sẽ vì lý do mối quan hệ trong công tác, sẽ
42
tạo điều kiện giúp đỡ họ hoặc phân tích để người khởi kiện rút đơn khởi kiện
thay vì đưa ra xét xử để tuyên một bản án hủy quyết định hành chính trái pháp
luật hoặc tuyên hành vi hành chính trái pháp luật, buộc người có thẩm quyền
trong cơ quan hành chính nhà nước chấm dứt hành vi hành chính trái pháp
luật.
Tác giả đưa ra một số vụ án hành chính Tòa án nhân dân tỉnh Đăk
Nông đã đưa ra xét xử, chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định
hành chính của cơ quan hành chính nhà nước:
Vụ án 1: Ngày 19-9-2019, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét xử vụ án
về “Khiếu kiện hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa người khởi
kiện ông Bùi Xuân H; người bị kiện là UBND huyện Đ, tỉnh Đăk Nông,
người đại diện theo ủy quyền là ông Lê Mai T – Phó Chủ tịch UBND huyện
Đ, tỉnh Đăk Nông. Vụ án còn có 09 người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Theo đơn khởi kiện, người khởi kiện trình bày năm 2014 ông H nhận
chuyển nhượng 10.000m2 đất từ ông T, bà B. Ông T, bà B đã được cấp
GCNQSDĐ. Ông H sử dụng đất ổn định. Năm 2018 ông làm đơn xin cấp
GCNQSDĐ nhưng không được chấp nhận không rõ lý do. Tháng 5 năm 2019
ông được biết đất ông đang sử dụng đã được UBND huyện Đ cấp GCNQSD
cho ông C và bà X. Vì vậy, ông yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ UBND
huyện Đ đã cấp cho ông C và bà X.
Về thẩm quyền: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông có thẩm quyền giải
quyết vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 32 của LTTHC.
Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận định: UBND huyện Đ cấp GCNQSDĐ
cho ông C và bà X là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 52 của
Luật Đất đai. Về trình tự, thủ tục cấp GCNQSDĐ đảm bảo theo quy định của
43
pháp luật về đất đai. Tuy nhiên, UBND huyện Đ cấp GCNQSDĐ cho ông C,
bà X là không đúng vị trí, không đúng chủ thể. Kết quả đo đạc, lồng ghép xác
định đất ông C, bà X được cấp GCNQSD nằm tại vị trí đất ông H đang sử
dụng. Còn đất ông C, bà X đang sử dụng lại chưa được cấp giấy chứng nhận.
Do đó, UBND huyện Đ đã vi phạm khoản 1 Điều 10, khoản 3 Điều 49, khoản
1 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 nên yêu cầu hủy GCNQSDĐ của ông H
là có căn cứ và được chấp nhận.
Như vậy, trong vụ án này vi phạm của cơ quan hành chính nhà nước đã
được HĐXX nêu rõ. Cán bộ được giao nhiệm vụ xác minh, thẩm định hồ sơ
cấp GCNQSDĐ đã thiếu trách nhiệm, không xác minh rõ vị trí thửa đất dẫn
đến đề xuất UBND huyện Đ cấp quyền sử dụng đất không đúng vị trí, chủ
thể. Sau đó chủ sử dụng hợp pháp yêu cầu được cấp GCNQSD thì không giải
quyết dẫn đến khiếu kiện tại Tòa án. Thông qua vụ án này và những vụ án
tương tự, hoạt động xét xử của Tòa án đã kiểm soát quyết định hành chính
của cơ quan hành chính nhà nước và có điều chỉnh khi phát hiện sai phạm,
đồng thời chỉ rõ các sai phạm để cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm
quyền rút kinh nghiệm hoặc có xử lý đối với cán bộ thực hiện nhiệm vụ chưa
đúng.
Vụ án 2: Ngày 11-12-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét xử vụ
án “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực đất đai” giữa người khởi
kiện là ông Đặng Hữu Đ; người bị kiện là UBND huyện G, tỉnh Đăk Nông,
người đại diện theo ủy quyền là ông Trần Nam T – Phó Chủ tịch UBND
huyện G.
HĐXX nhận định ngày 04-3-2009 UBND huyện G ban hành Quyết
định số 310/QĐ-UBND, phê duyệt dự án đầu tư công trình Trung tâm văn hóa
thể thao huyện G; ngày 06-8-2009 UBND huyện G ban hành Quyết định số
44
1736/QĐ-UBND thu hồi 918m2 đất của hộ ông Đ; ngày 24-3-2011 UBND
huyện G ban hành Quyết định số 64/QĐ-UBND phê duyệt phương án bồi
thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng Trung tâm văn hóa thể thảo huyện G,
kèm theo phụ lục số 01 bảng chi tiết giá trị bồi thường, hỗ trợ. Trong đó hộ
ông Đ được bồi thường về đất là 9.180.000 đồng, cây trồng là 826.100 đồng.
Hộ ông Đ không được bồi thường về công trình xây dựng trên đất.
Căn cứ Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND ngày 23-02-2010 của
UBND tỉnh Đăk Nông; khoản 4 Điều 9, điểm a, c khoản 1 và điểm a khoản 3,
khoản 4 Điều 12 Quy định kèm theo của Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND
ngày 23-02-2010 của UBND tỉnh Đăk Nông; điểm b khoản 6 Điều 1 Quyết
định số 12/2011/QĐ-UBND ngày 01-3-2011 của UBND tỉnh Đăk Nông và
các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ông Đ đã thực hiện đúng trách
nhiệm của người sử dụng đất bị thu hồi nhưng Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và
giải phóng mặt bằng huyện G đã không thành lập hội đồng tư vấn, không tuân
thủ quy định, không phê duyệt phương án bồi thường công trình xây dựng
trên đất cho hộ ông Đ, làm ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của hộ ông
Đ. Vì vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định của
UBND huyện G về việc phê duyệt phương án của Trung tâm phát triển quỹ
đất về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư công trình Trung tâm văn hóa thể thao
huyện G, tỉnh Đăk Nông. Buộc UBND huyện G ban hành quyết định mới để
bồi thường về công trình xây dựng trên đất diện tích 346,5m2 và hỗ trợ di
chuyển cho hộ ông Đ theo quy định của pháp luật.
Thiếu sót của cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền
khi ban hành quyết định hành chính là chưa nắm rõ các quy định của pháp
luật về bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất dẫn đến không bồi thường, hỗ trợ
cho đối tượng có đủ điều kiện được bồi thường, hỗ trợ, làm ảnh hưởng quyền,
45
lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua vụ án này và những vụ án tương tự,
hoạt động xét xử tại Tòa án nhân dân đã thực hiện kiểm soát quyết định hành
chính của Ủy ban nhân dân cấp huyện ban hành trong lĩnh vực đất đai. Mà cụ
thể là trong lĩnh vực bồi thường, hỗ trợ khi thực hiện thu hồi đất.
Vụ án 3: Ngày 09-6-2017, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét xử vụ án
“Khiếu kiện quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” giữa
người khởi kiện ông Dương Minh T; người bị kiện là UBND huyện Đ, tỉnh
Đăk Nông, người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Ngọc L – Phó Chủ tịch
UBND huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.
Về thẩm quyền: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông có thẩm quyền giải
quyết theo quy định tại khoản 1 Điều 30, khoản 1 Điều 32 của LTTHC.
Hội đồng xét xử nhận định ngày 05-10-2015, UBND huyện Đ, tỉnh
Đăk Nông ban hành Quyết định số 1836/QĐ-UBND thu hồi GCNQSDĐ đã
cấp cho ông Dương Minh T. UBND huyện Đ không cung cấp được chứng cứ
về thời điểm giao quyết định cho ông T, ông T cung cấp được tài liệu chứng
minh đã khiếu nại nhưng không được giải quyết nên thời hiệu khởi kiện là
trong thời hạn quy định tại điểm a khoản 2 Điều 116 của LTTHC. Xét hình
thức của quyết định phù hợp điểm d khoản 2 Điều 106 của Luật Đất đai năm
2013. Về nội dung, quyết định thu hồi dựa trên Tờ trình số 975/UBND-TTr
và báo cáo số 24/BC-TTr của Thanh tra huyện Đ. Lý do thu hồi GCNQSDĐ
là cấp không đúng diện tích, cấp ra ngoài lộ giới của Quốc lộ 14 498m2. Tuy
nhiên, kết quả đo đạc nêu trong Báo cáo số 24/BC-Ttr của Thanh tra huyện Đ
không đảm bảo do căn cứ đo theo Quyết định số 1494/QĐ-UBND ngày 20-
10-2008 của UBND tỉnh Đăk Nông đã hết hiệu lực và xác định lộ giới Quốc
lộ 14B trái với Nghị định số 203/HĐBT. Thời điểm UBND huyện Đ ban hành
quyết định thu hồi đất, Quốc lộ 14B đã chuyển thành tỉnh lộ 682 và người sử
46
dụng đất không gây cản trở cho việc bảo vệ an toàn công trình đường bộ, đảm
bảo theo quy định tại khoản 3 Điều 157 của Luật Đất đai năm 2013 và khoản
4 Điều 56 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15-5-2014 của Chính phủ. Ông
T được cấp đất ngày 01-11-1994 theo đúng quy định, thể hiện trong sổ mục
kê, sổ địa chính, bản đồ dải thửa, đơn đăng ký và cấp GCNQSDĐ đã được các
cơ quan có thẩm quyền xác nhận, phê duyệt theo đúng trình tự, thủ tục. Quyết
định số 1836/QĐ-UBND ngày 05-10-2015 của UBND huyện Đ ban hành trái
quy định tại khoản 3 Điều 106, Điều 157 của Luật Đất đai năm 2013; làm
thay đổi, hạn chế quyền, lợi ích hợp pháp của ông T đối với việc sử dụng đất.
Vì vậy, HĐXX hủy toàn bộ Quyết định số 1836/QĐ-UBND ngày 05-10-2015
của UBND huyện Đ về việc thu hồi GCNQSDĐ đã cấp cho ông T.
Sai sót của cơ quan hành chính nhà nước, người có thẩm quyền trong
vụ án này là căn cứ để ban hành quyết định thu hồi đất không đảm bảo, chưa
rà soát hết các quy định về đất đai trước khi ban hành quyết định và hoạt động
xét xử tại Tòa án nhân dân đã thực hiện chức năng kiểm soát quyết định hành
chính của UBND cấp huyện. Mà cụ thể là quyết định thu hồi GCNQSDĐ.
Qua kiểm soát, phát hiện sai phạm, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông đã thực
hiện quyền hạn của mình theo LTTHC là hủy quyết định về việc thu hồi
GCNQSDĐ trái pháp luật.
2.3. Thực trạng hoạt động xét xử án dân sự đối với các vi phạm của
cơ quan hành chính nhà nước và người có thẩm quyền
2.3.1. Số liệu thụ lý, giải quyết án dân sự giai đoạn 2014-2019
47
Bảng 2.3 Số liệu thụ lý, giải quyết án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm tại
Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông từ năm 2014 đến năm 2019
Năm
Thụ lý
sơ
thẩm
(Vụ)
Giải
quyết
(Vụ)
Tỷ lệ
Thụ lý
phúc
thẩm
(Vụ)
Giải
quyết
(Vụ)
Tỷ lệ
So sánh
thụ lý
năm
trước
2014 2 2 100% 73 73 100%
2015 0 0 100% 57 56 98,2% Tăng 18
2016 0 0 100% 77 77 100% Tăng 20
2017 18 13 72,22% 81 78 96,3% Tăng 22
2018 65 32 49,23 101 95 94,06% Tăng 67
2019 73 48 65,75% 99 98 98,99 Tăng 6
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông
Bảng 2.4 Số liệu thụ lý, giải quyết án dân sự sơ thẩm tại Tòa án nhân
dân các huyện, thành phố của tỉnh Đăk Nông từ năm 2014 đến năm 2019
Năm Thụ lý (Vụ) Giải quyết (Vụ) Tỷ lệ
So sánh thụ lý
năm trước
2014 1.288 1.194 92,7%
2015 1.073 965 90% Tăng 215
2016 1.325 1.191 89,89% Tăng 252
2017 1.247 1.055 84,6% Giảm 78
2018 1.761 1.474 83,7% Tăng 514
2019 1.940 1.486 76,6% Tăng 179
Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông
48
Từ số liệu bảng 2.3 và bảng 2.4 trên, có thể dễ dàng nhận thấy đối với
án dân sự sơ thẩm ở cấp tỉnh, từ năm 2016 trở về trước rất ít, thậm chí có năm
không thụ lý sơ thẩm vụ án nào. Tuy nhiên từ khi BLTTDS năm 2015 và
LTTHC năm 2015 có hiệu lực vào ngày 01 tháng 07 năm 2016, số lượng các
vụ án dân sự sơ thẩm Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông thụ lý tăng lên rất lớn.
Gần như toàn bộ án dân sự sơ thẩm ở Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông là án
tranh chấp quyền sử dụng đất và tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất có yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nguyên nhân
xuất phát từ quy định tại Điều 34 của BLTTDS (được giải thích ở phần thực
trạng giải quyết).
2.3.2. Quy trình thụ lý
Ở Tòa án nhân dân các huyện, thành phố thuộc tỉnh Đăk Nông, bộ máy
giúp việc là Văn phòng có nhiệm vụ tiếp nhận, thụ lý đơn khởi kiện. Sau khi
xem xét đơn và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc
thẩm quyền giải quyết, trong trường hợp đương sự thuộc diện phải nộp tiền
tạm ứng án phí thì sẽ ban hành thông báo để đương sự đến Cơ quan thi hành
án dân sự cùng cấp đóng tạm ứng án phí. Thẩm phán dự tính số tiền tạm ứng
án phí phải nộp. Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày nhận được giấy báo,
người khởi kiện phải nộp tạm ứng án phí và gửi biên lai cho bộ phận tiếp
nhận đơn. Thẩm phán ban hành thông báo thụ lý khi người khởi kiện nộp biên
lai.
Tại Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông: Việc tiếp nhận, thụ lý đơn khởi
kiện và thụ lý hồ sơ vụ án do Tổ Hành chính, tư pháp thực hiện. Việc xử lý
đơn, thụ lý tương tự ở Tòa án nhân dân cấp huyện. Riêng với các vụ án được
chuyển từ Tòa án nhân dân các huyện, thành phố chuyển đến do có kháng
cáo, kháng nghị thì Tổ Hành chính, tư pháp xem xét tính hợp lệ của hồ sơ,
49
kiểm tra bút lục, kiểm tra việc nộp tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm và vào sổ
thụ lý vụ án.
Tương tự án hành chính, nguyên đơn có thể nộp đơn trực tiếp, gửi qua
dịch vụ bưu chính hoặc gửi trực tuyến qua Cổng thông tin điện tử của Tòa án.
Hiện nay đa số đơn khởi kiện vụ án dân sự, người khởi kiện đều nộp trực tiếp
tại trụ sở Tòa án. Cán bộ nhận đơn sau khi kiểm tra các điều kiện để thụ lý,
nếu thấy đủ điều kiện sẽ ra thông báo nhận đơn, đóng dấu ghi ngày nhận đơn.
Trong các năm qua, việc thụ lý các vụ án dân sự ở Tòa án nhân dân hai
cấp tỉnh Đăk Nông diễn ra nhanh chóng, đúng thời hạn theo quy định của
BLTTDS. Một điểm mới được bổ sung tại khoản 2 Điều 14 của BLDS năm
2015 là: “Tòa án không được từ chối giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa
có điều luật để áp dụng; trong trường hợp này, quy định tại Điều 5 và Điều 6
của Bộ luật này được áp dụng”. Như vậy, trong trường hợp những tranh chấp
ngay từ khi nhận đơn, xét thấy vụ, việc chưa có điều luật để áp dụng thì Tòa
án vẫn thụ lý và quá trình giải quyết sẽ áp dụng tập quán, áp dụng tương tự
pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết. Bên cạnh đó, nếu như BLTTDS
và BLDS 2005 quy định về thời hiệu khởi kiện, trong trường hợp hết thời
hiệu khởi kiện thì mất quyền khởi kiện; trường hợp Tòa án đã thụ lý, thì sẽ ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 184 của
BLTTDS năm 2015 và khoản 2 Điều 149 của BLDS 2015 quy định: “Tòa án
chỉ áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu áp dụng thời hiệu của một bên
hoặc các bên với điều kiện yêu cầu này phải được đưa ra trước khi Tòa án cấp
sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ việc. Người được hưởng lợi từ
việc áp dụng thời hiệu có quyền từ chối áp dụng thời hiệu, trừ trường hợp việc
từ chối đó nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ”. Như vậy, việc thụ
lý các vụ án dân sự gần như đã trở thành công việc đương nhiên khi có đơn
50
khởi kiện, kèm theo các tài liệu chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự bị xâm phạm; tài liệu ban đầu có thể là bản phô tô.
2.3.2. Thực trạng giải quyết, xét xử án dân sự có liên quan đến yêu
cầu hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan hành chính nhà
nước, người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước
Khi thụ lý, giải quyết vụ án dân sự, căn cứ Điều 34 của BLTTDS, Tòa
án có quyền hủy quyết định cá biệt trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, người
có thẩm quyền xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ
án. Những quyết định có thể bị hủy là quyết định đã được ban hành về một
vấn đề cụ thể và được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ
thể. Khi giải quyết vụ án mà có liên quan đến quyết định này thì Tòa án bắt
buộc phải giải quyết tính hợp pháp của quyết định mà không được lựa chọn
việc có xem xét hay bỏ qua và Tòa án phải đưa cơ quan, người có thẩm quyền
đã ban hành quyết định vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Mục đích đưa vào tham gia tố tụng để cơ quan, người
có thẩm quyền đã ban hành quyết định bị Tòa án xem xét hủy đưa ra ý kiến về
quyết định đó. Tùy thuộc vào quyết định hành chính do cơ quan, người có
thẩm quyền ban hành, Tòa án căn cứ vào Điều 31, Điều 32 của LTTHC để
xác định thẩm quyền giải quyết vụ án là của Tòa án nhân dân cấp huyện đã
thụ lý hoặc chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông để giải quyết.
Ngay sau khi LTTHC năm 2015 có hiệu lực, số lượng vụ án dân sự có
yêu cầu hủy quyết định cá biệt, mà chủ yếu là yêu cầu hủy giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất trong các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh chấp
hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do Tòa án nhân dân cấp huyện
thụ lý, đang giải quyết phải chuyển đến Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông giải
quyết tăng đột biến. Dẫn đến thực trạng là Tòa án nhân dân tỉnh, các cơ quan
51
chuyên môn hỗ trợ Tòa án thực hiện xem xét thẩm định tại chỗ, đo đạc, định
giá quá tải về công việc, thời hạn giải quyết án kéo dài, số lượng án tạm đình
chỉ tăng; khiếu nại, tố cáo cũng tăng lên. Để giải quyết tình trạng này, Tòa án
nhân dân tối cao đã ban hành Giải đáp một số vấn đề về tố tụng hành chính, tố
tụng dân sự số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2016; Giải đáp một số vấn đề về
tố tụng hành chính số 02/GĐ-TANDTC ngày 19-9-2018; Công văn số
64/TANDTC-PC ngày 03-4-2019 giải đáp một số vướng mắc; Công văn số
212/TANDTC-PC ngày 13-9-2019 giải đáp một số vướng mắc trong xét xử
để tránh trường hợp tất cả các vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất hoặc liên
quan đến đất đai có yêu cầu hủy GCNQSDĐ đều chuyển đến Tòa án nhân dân
tỉnh. Tòa án nhân dân tỉnh cũng ban hành Công văn yêu cầu Tòa án nhân dân
các huyện, thành phố cần xác minh, thu thập chứng cứ để xác định sự cần
thiết phải hủy quyết định cá biệt trước khi chuyển hồ sơ đến Tòa án nhân dân
tỉnh.
Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, Tòa án nhân dân tỉnh
Đăk Nông, Tòa án nhân dân các huyện, thành phố có thẩm quyền xem xét hủy
quyết định cá biệt trái pháp luật của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, người có thẩm quyền trong các cơ quan này trở xuống và tùy
thuộc vào cơ quan, người ban hành quyết định cá biệt trái pháp luật sẽ xác
định thẩm quyền giải quyết thuộc về Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông hay Tòa
án nhân dân các huyện, thành phố.
Khi xem xét tính hợp pháp của các quyết định cá biệt cũng như xem xét
quyết định hành chính bị khởi kiện, Tòa án sẽ xem xét về thẩm quyền, trình
tự, thủ tục ban hành quyết định, các căn cứ áp dụng để ban hành quyết định có
hợp pháp không. Ngoài ra, trong quá trình giải quyết, căn cứ Điều 221 của
BLTTDS, Tòa án có quyền kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa
52
đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với văn
bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Thực trạng giải quyết án dân sự về tranh chấp quyền sử dụng đất, tranh
chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có yêu cầu hủy quyết định
cá biệt, mà gần như toàn bộ là yêu cầu hủy quyết định cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, đa phần bản án, quyết định của Tòa án đều nhận định
UBND có sai sót trong việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, cụ thể
như: cấp quyền sử dụng đất chồng lấn lên diện tích đất thực tế sử dụng của tổ
chức, cá nhân khác; cấp quyền sử dụng khi đất đang có tranh chấp; quy trình
cấp đất không tuân thủ quy định của pháp luật; người sử dụng chưa đủ điều
kiện được cấp quyền sử dụng; hợp đồng chuyển nhượng chưa đảm bảo về nội
dung nhưng vẫn cấp quyền sử dụng cho người nhận chuyển nhượng. Những
sai sót này chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân chủ quan của cán bộ địa chính
xã, nhân viên Văn phòng đăng ký đất đai cũng như lãnh đạo thiếu kiểm tra, rà
soát lại trước khi ký quyết định.
Tác giả đưa ra một số vụ án dân sự có yêu cầu hủy quyết định cá biệt
trái pháp luật có tính chất phức tạp, có nhiều đương sự tham gia và nhiều vấn
đề cần phải giải quyết như:
Vụ án 1: Ngày 09-8-2019, Tòa án nhân dân cấp cao Thành phố Hồ Chí
Minh xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” do bản án dân sự sơ thẩm số
12/2018/DS-ST của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông bị kháng cáo. Nguyên
đơn là anh Nguyễn Văn D và chị Phạm Thị T; người bảo về quyền và lợi ích
hợp pháp cho nguyên đơn là ông Cao T, Luật sư của Công ty Luật M, thuộc
Đoàn Luật sư tỉnh Đăk Nông. Bị đơn là anh Nguyễn Văn H. Người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Cao H, chị Lê Thị L, ông Nguyễn V, Ủy ban
53
nhân dân huyện K, tỉnh Đăk Nông. Ủy ban nhân dân huyện K có đơn đề nghị
xét xử vắng mặt. Vụ án còn có 04 người làm chứng.
Theo trình bày của nguyên đơn, anh chị nhận chuyển nhượng công khai
phá quyền sử dụng đất và tài sản đối với thửa đất 31, 174 tờ bản đồ số 09 tại
huyện K, tỉnh Đăk Nông từ anh Trần Đình H và chị Phan Thị B. Nguồn gốc
đất là do ông Trần Ngọc K chuyển nhượng. Nguyên đơn đã được UBND
huyện K, tỉnh Đăk Nông cấp 02 GCNQSDĐ. Năm 2015 ông Nguyễn Văn H
huy động máy móc vào đào ao, chiếm đất của nguyên đơn, diện tích là 749m2
đất.
Bị đơn trình bày phần diện tích đất anh đào ao thuộc quyền sử dụng
chung của anh và một số gia đình khác, trong đó có quyền sử dụng của
nguyên đơn. Nguồn gốc là của ông Trần Ngọc K và ông Nguyễn Quang V
cùng đào nhưng vì không có nhu cầu sử dụng nên cho cháu là anh Trần Đình
H sử dụng. Sau đó anh H chuyển nhượng cho nguyên đơn. Theo bị đơn, phần
đất có ao nước thuộc quyền sử dụng chung nên việc UBND huyện K cấp
GCNQSDĐ cho nguyên đơn đối với phần diện tích đất ao là không đúng hiện
trạng sử dụng thực tế, các hộ liền kề không ký giáp ranh nên bị đơn yêu cầu
Tòa án hủy GCNQSDĐ đã cấp cho nguyên đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Cao H, chị Lê Thị L có yêu
cầu độc lập, trình bày một phần đất ao thuộc quyền sử dụng của anh chị, có
nguồn gốc do cha của anh chị là ông Cao Văn T nhận chuyển nhượng của ông
K năm 2002, khi nhận chuyển nhượng là đất sình, sau đó cải tạo thành ao
nước và cho anh chị sử dụng. Việc UBND huyện K cấp GCNQSDĐ cho
nguyên đơn đối với phần diện tích đất thuộc quyền sử dụng của anh chị là
không đúng hiện trạng sử dụng thực tế, các hộ liền kề cũng không ký giáp
ranh nên yêu cầu Tòa án hủy GCNQSDĐ đã cấp cho nguyên đơn.
54
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan UBND huyện K trình bày: Năm
2015 nguyên đơn đăng ký cấp GCNQSDĐ, mục đích trồng cây lâu năm. Căn
cứ vào đơn, hồ sơ địa chính gồm bản đồ địa chính, sổ mục kê... được đo đạc
năm 2006, UBND xã T đã kiểm tra, họp xét duyệt và lập thủ tục cấp
GCNQSDĐ theo quy định. Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai huyện K,
Phòng Tài nguyên và môi trường huyện K đã thẩm định, trình UBND huyện
K cấp GCNQSDĐ cho nguyên đơn đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 101
của Luật Đất đai năm 2013 và khoản 5 Điều 20 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP
ngày 15-5-2014 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Đất đai.
Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định quá trình cấp GCNQSDĐ của
UBND huyện K không đúng nguồn gốc, loại đất và chủ sử dụng, làm ảnh
hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan, trái với khoản 9 Điều 3, khoản 1 Điều 97, khoản 2 Điều 98 của
Luật Đất đai năm 2013. Việc cấp GCNQSDĐ đối với thửa đất số 174, tờ bản
đồ số 09 sai về nguồn gốc, loại đất, sai đối tượng là nguyên nhân dẫn đến
tranh chấp. Hội đồng xét xử tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của
nguyên đơn. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu độc lập của
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Hủy một phần GCNQSDĐ do UBND
huyện K cấp cho nguyên đơn đối với thửa đất số 174, tờ bản đồ số 09. Kiến
nghị UBND huyện K điều chỉnh GCNQSDĐ đã cấp cho nguyên đơn theo
hướng giảm diện tích của 03 ao nước là 1.226,7m2.
Đối với vụ án này, thiếu sót của cơ quan chuyên môn, được giao quyền
quản lý đất đai là không kiểm tra xác minh thực địa nhưng lại xác nhận đơn
đăng ký cho nguyên đơn để UBND huyện K cấp GCNQSDĐ không đúng
nguồn gốc, loại đất và chủ sử dụng đất. Dẫn đến việc Tòa án nhân dân tuyên
55
hủy và kiến nghị điều chỉnh GCNQSDĐ UBND huyện K đã cấp cho nguyên
đơn. Thiếu sót này của cơ quan quản lý đất đai và người có thẩm quyền đã tạo
ra sự mất ổn định trong quá trình sử dụng đất, tạo ra bất hòa, mâu thuẫn giữa
những người là hàng xóm, láng giềng. Việc Tòa án đưa vụ án ra xét xử, nhận
định các thiếu sót, sai phạm chính là quá trình kiểm soát quyết định cá biệt,
mà ở đây là quyết định cấp GCNQSDĐ của UBND cấp huyện. Qua kiểm
soát, Tòa án kiến nghị cơ quan hành chính nhà nước điều chỉnh lại quyết định
cá biệt.
Vụ án 2: Ngày 27-11-2018, Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông xét xử vụ
án dân sự về “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất” giữa nguyên đơn anh Nguyễn Bỉnh T; người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho anh T là ông Lương Minh K – Luật sư của Văn phòng Luật
sư K, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đăk Nông và bị đơn ông Lư Minh P. Người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Bỉnh N; bà Nguyễn Thị N; Sở Tài
nguyên và môi trường tỉnh Đăk Nông, người đại diện theo ủy quyền là ông
Nguyễn Văn M – Chức vụ: Phó Giám đốc Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh
Đăk Nông. Ông M vắng mặt tại phiên tòa.
Theo đơn khởi kiện, nguyên đơn yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_kiem_soat_cac_co_quan_hanh_chinh_nha_nuoc_thong_qua.pdf