MỞ ĐẦU .1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TẬP TRUNG
KINH TẾ VÀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ .6
1.1. Khái niệm tập trung kinh tế trong pháp luật cạnh tranh.6
1.2. Tác động của tập trung kinh tế và sự cần thiết phải kiểm soát tập trung
kinh tế.12
1.3 Những nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế .15
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM
VỀ KIỂM SOÁT TẬP TRUNG KINH TẾ.34
2.1. Khái quát các quy định của pháp luật về tập trung kinh tế tại Việt Nam.34
2.2. Các nội dung cơ bản về kiểm soát TTKT trong pháp luật cạnh
tranh Việt Nam .37
2.3 Thực trạng thực thi pháp luật về kiểm soát tập trung kinh tế tại Việt
Nam .53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT
HÀNH VI TẬP TRUNG KINH TẾ Ở VIỆT NAM .63
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi
tập trung kinh tế.63
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm
soát hành vi tập trung kinh tế .69
KẾT LUẬN .73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.74
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 81 trang
81 trang | 
Chia sẻ: honganh20 | Lượt xem: 996 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Kiểm soát tập trung kinh tế theo pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m điều chỉnh các hoạt động kiểm soát tập trung 
quyền lực thị trường với mục tiêu duy trì và bảo vệ cạnh tranh trên thị trường. Pháp 
luật kiểm soát TTKT bao gồm cả luật nội dung là các quy định cấm và các quy định 
hướng dẫn xác định thị trường liên quan, thị phần, các quy định tiêu chí đánh giá 
tác động và luật hình thức là các quy định về trình tự, thủ tục xem xét, thẩm định, 
điều tra, xử lý vụ việc. 
- Hoạt động kiểm soát TTKT bao gồm một quy trình gồm nhiều công đoạn 
với nội dung là sự phối hợp của các hoạt động như phân tích, đánh giá tác động và 
thực hiện các quyết định có tính hành chính. Cơ chế kiểm soát TTKT như vậy cần 
thiết phải đảm bảo của hai thành tố quan trọng: (i) Về mặt pháp lý, cơ chế phải được 
vận hành trên cơ sở các quy định pháp luật về hình thức, phạm vi kiểm soát TTKT 
và xác định ngưỡng kiểm soát TTKT; (ii) Về mặt thể chế, các quy định này cần phải 
được thực hiện bởi cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh có chức năng kiểm soát 
TTKT với nhiệm vụ trọng tâm là tiếp nhận và đánh giá tác động kinh tế của vụ 
TTKT cũng như thực hiện các vấn đề liên quan đến thủ tục thông báo TTKT. 
- Kiểm soát TTKT mặc dù là một hình thức kiểm soát của Nhà nước nhưng 
không ảnh hưởng đến quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Các 
quy định pháp luật về kiểm soát đối với hoạt động TTKT không phải nhằm mục 
đích ngăn cấm hoặc cản trở nó trong hoạt động thị trường, đồng thời quyền tự chủ 
của doanh nghiệp cũng phải được thực hiện trên cơ sở sự điều tiết của pháp luật. 
Việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, về bản chất là giúp đảm bảo cho 
thị trường và sự cạnh tranh diễn ra công bằng, lành mạnh, loại trừ những tác động 
33 
xấu đến cạnh tranh của các doanh nghiệp. Như vậy, pháp luật kiểm soát TTKT 
không có bản chất cấm đoán hoặc mang nặng tính chất công quyền, áp đặt mà trái 
lại, đây là các quy định pháp luật đi song hành và tạo điều kiện cho việc thực hiện 
quyền tự chủ trong kinh doanh của các doanh nghiệp. Các quy định pháp luật về 
kiểm soát TTKT là điều kiện thuận lợi cho việc các doanh nghiệp thực hiện quyền 
tự chủ trong kinh doanh của mình. Bên cạnh việc đánh giá tác động đến thị trường 
của cơ quan quản lý cạnh tranh, các hoạt động kiểm soát TTKT vẫn đảm bảo sự tự 
chủ của doanh nghiệp và dựa trên cơ sở tương tác với cơ quan quản lý cạnh tranh, 
bao gồm việc thông báo TTKT, tính toán thị phần, doanh thu, doanh số, thực hiện 
các biện pháp tái cơ cấu, khắc phục hậu quả của vụ việc TTKT 
 Việc nghiên cứu các cơ sở lý luận và các quy định chung của các nước về 
pháp luật kiểm soát TTKT cũng là những căn cứ khoa học để xem xét, đối chiếu với 
các quy định của Luật Cạnh tranh Việt Nam, để từ đó có những so sánh, đánh giá 
những mặt tích cực, hạn chế của Luật Cạnh tranh Việt Nam. 
34 
Chương 2 
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM VỀ KIỂM SOÁT 
TẬP TRUNG KINH TẾ 
2.1. Khái quát các quy định của pháp luật về tập trung kinh tế tại Việt Nam 
Trước khi Luật Cạnh tranh 2004 ra đời, Luật Công ty năm 1990 ghi nhận 
quyền quyết định việc sáp nhập công ty TNHH của các thành viên, quyền chuyển 
nhượng vốn, chuyển nhượng cổ phần của thành viên công ty TNHH và công ty cổ 
phần; Điều 20 Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 quy định việc sáp nhập là 
một trong những giải pháp tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. Tương tự, Điều 
44 Luật Hợp tác xã năm 1997 ghi nhận quyền hợp nhất các hợp tác xã với nhau. 
Tuy nhiên, các quy định kể trên đơn giản là việc ghi nhận các quyền cơ bản của 
doanh nghiệp, hợp tác xã hoặc thành viên của công ty. Ngay cả thủ tục để thực hiện 
việc sáp nhập, hợp nhất chưa được quy định cụ thể. 
Luật Doanh nghiệp năm 1999 thay thế Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật 
Công ty năm 1990 ghi nhận khá đầy đủ về các giải pháp tổ chức lại công ty, trong 
đó có hai giải pháp liên quan trực tiếp đến TTKT là sáp nhập và hợp nhất công ty; 
ngoài ra các quy định về chuyển nhượng vốn, mua bán cổ phần, phát hành cổ phần, 
cổ phiếu được quy định chi tiết và chặt chẽ hơn so với hai đạo luật mà nó kế thừa. 
Ngoài Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 2003 và các văn bản 
hướng dẫn thi hành quy định và xây dựng lộ trình, thủ tục thực hiện các biện pháp 
tổ chức lại, chuyển đổi sở hữu đối với công ty nhà nước gắn liền với TTKT như sáp 
nhập, hợp nhất, khoán, cho thuê, bán toàn bộ hoặc một phần công ty nhà nước. 
Đặc trưng của giai đoạn này là pháp luật chưa nhìn nhận việc sáp nhập, hợp 
nhất, chuyển nhượng vốn góp, mua bán cổ phần và liên doanh thành lập doanh 
nghiệp từ góc độ cạnh tranh. Các chế định trong các văn bản pháp luật nói trên chỉ 
giải quyết vai trò quản lý nhà nước về doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh và ghi 
nhận cũng như bảo đảm cho quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp mà chưa đề 
cập đến nhiệm vụ quản lý, duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh, an toàn cho 
nền kinh tế. Nói cách khác, trong giai đoạn này, pháp luật thiên về tổ chức doanh 
nghiệp, về việc thực thi quyền đầu tư, quyền sở hữu trong doanh nghiệp. Các vấn 
35 
đề nói trên chưa được giải quyết bởi pháp luật cạnh tranh. Có thể lý giải tình trạng 
trên từ nhiều nguyên nhân khác nhau song cơ bản có lẽ từ nhiệm vụ cơ bản của 
pháp luật kinh tế trong giai đoạn này là xây dựng các thiết chế cơ bản để hình thành 
thị trường, nhiều lĩnh vực pháp luật của thị trường hiện đại chưa được tiếp nhận và 
xây dựng tại Việt Nam, trong đó có pháp luật cạnh tranh mà cụ thể là chế định về 
tập trung kinh tế. 
Bối cảnh kinh tế của Việt Nam tại thời điểm này, đang trong quá trình chuyển 
đổi và là một nước có nền kinh tế đang phát triển, quy luật tất yếu và đòi hỏi nội tại 
của nền kinh tế là quá trình “tích tụ kinh tế” như là nền tảng cho sự tăng trưởng. 
Mặt khác, thực tiễn đã cho thấy việc gia tăng sự xuất hiện của các tập đoàn đa quốc 
gia (TNC) tại Việt Nam là hệ quả của quá trình hội nhập ngày một sâu rộng của 
Việt Nam vào nền kinh tế thế giới sẽ khiến cho các hoạt động TTKT ở quy mô có 
khả năng chi phối thị trường xuất hiện trong tương lai ngày càng nhiều. Chính vì 
vậy, xuất phát từ sự cần thiết phải kiểm soát các hoạt động TTKT để tránh tình 
trạng hình thành các doanh nghiệp lớn có sức mạnh khống chế thị trường, khung 
pháp lý cho phép các cơ quan quản lý nhà nước kiểm soát hoạt động TTKT là một 
đòi hỏi cấp thiết từ cả thực tiễn khách quan và chủ quan. 
Luật Cạnh tranh năm 2004 là văn bản đầu tiên quy định một cách toàn diện 
các vấn đề về cạnh tranh và chính thức đặt các vấn đề về sáp nhập hợp nhất, chuyển 
nhượng vốn, cổ phần, tài sản và liên doanh dưới góc độ của việc bảo vệ thị trường 
cạnh tranh. Các nguyên tắc mà Luật Cạnh tranh quy định đã có những ảnh hưởng 
nhất định đến các lĩnh vực pháp luật khác như Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, 
Luật Chứng khoán. Cụ thể là, ngoài những quy định về thủ tục liên quan đến 
đăng ký kinh doanh, tổ chức quản lý, hoạt động và tổ chức lại doanh nghiệp, Luật 
Doanh nghiệp năm 2005 (thay thế Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp 
Nhà nước năm 2003) đã tiếp thu các nguyên tắc kiểm soát sáp nhập hợp nhất của 
Luật Cạnh tranh; Luật Đầu tư ghi nhận các hình thức đầu tư có liên quan đến TTKT 
như mua chi nhánh, mua công ty. Như vậy, các quy định về TTKT là tương đối 
đồng bộ và nhất quán trong các văn bản pháp luật liên quan. 
36 
Ngày 12 tháng 6 năm 2018, Luật Cạnh tranh (sửa đổi) được Quốc hội khóa 
XIV thông qua tại kỳ họp thứ 5 và sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2019. So 
với Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã sửa đổi, bổ sung 
nhiều nội dung quan trọng về kiểm soát tập trung kinh tế. 
Cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh năm 2004 chủ yếu nhìn nhận sức mạnh 
của một doanh nghiệp trên thị trường ở góc độ thị phần mà chưa đi vào bản chất. 
Đây có thể xem là cách tiếp cận “cứng” và không thực tế bởi lẽ việc đánh giá và 
cấm TTKT chỉ dựa trên tiêu chí thị phần không phản ánh đầy đủ, chính xác thực tế 
thị trường và mức độ tác động của vụ việc đến môi trường cạnh tranh, dẫn tới bỏ 
sót những trường hợp có khả năng tác động tiêu cực đến cạnh tranh hoặc ngược lại, 
quy định cấm những trường hợp trên thực tế không gây ra tác động hạn chế cạnh 
tranh đáng kể. 
Ngoài ra, việc chỉ sử dụng tiêu chí thị phần trên thị trường liên quan cũng 
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xác định nghĩa vụ thông báo tập trung 
kinh tế. Trên thực tế các doanh nghiệp chỉ có thể biết và chịu trách nhiệm về doanh 
thu, doanh số của mình mà không thể biết doanh thu, doanh số chính xác của đối 
thủ cạnh tranh, do vậy, họ không thể tự xác định thị phần của mình trên thị trường 
liên quan nên khó có thể biết mình có thuộc trường hợp bị cấm hoặc phải thông báo 
TTKT hay không. 
Chính vì vậy, với mục tiêu khắc phục những hạn chế của Luật Cạnh tranh 
năm 2004, Luật Cạnh tranh năm 2018 đã thay đổi cách thức tiếp cận kiểm soát 
TTKT theo hướng trao quyền cho cơ quan cạnh tranh trong việc đánh giá tác động 
cạnh tranh của việc TTKT và tăng cường sự chủ động của doanh nghiệp trong việc 
thực hiện thủ tục thông báo với cơ quan cạnh tranh và mở rộng các yếu tố đánh giá 
một vụ việc tập trung kinh tế. Cụ thể như sau: 
Thứ nhất, bổ sung quy định các tiêu chí để doanh nghiệp có thể tự xác định 
giao dịch có thuộc trường hợp phải thông báo hay không, bao gồm: tổng tài sản, 
tổng doanh thu, giá trị giao dịch TTKT trên thị trường Việt Nam. 
Thứ hai, lược bỏ quy định về cấm TTKT khi thị phần kết hợp của các doanh 
nghiệp tham gia TTKT từ 50% trở lên trên thị trường liên quan (đồng thời bãi bỏ 
37 
luôn quy định về trường hợp miễn trừ cấm tập trung kinh tế); thay vào đó, chỉ quy 
định cấm các hành vi TTKT “gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế 
cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam”. 
Thứ ba, bổ sung các quy định mang tính cốt lõi liên quan đến đánh giá tác 
động hạn chế cạnh tranh, xác định sức mạnh thị trường đáng kể nhằm đảm bảo 
nguyên tắc tư duy kinh tế khi đánh giá sức mạnh thị trường của doanh nghiệp/nhóm 
doanh nghiệp. 
Thứ tư, quy định rộng hơn về vấn đề tập trung kinh tế. Theo đó, thông qua 
việc thay đổi ngưỡng thông báo TTKT và thay đổi tiêu chí đánh giá, thẩm định tập 
trung kinh tế, dự thảo Luật đã mở rộng phạm vi kiểm soát bao gồm cả những giao dịch 
TTKT theo chiều dọc và hỗn hợp thay vì chỉ kiểm soát các giao dịch theo chiều ngang 
như trước đây. Thời gian tối thiểu kể từ ngày nộp hồ sơ thông báo TTKT đến khi được 
phép thực hiện việc tập trung kinh tế, theo Luật Cạnh tranh năm 2004 là 52 ngày, còn 
theo Luật Cạnh tranh năm 2018 con số đó lên đến 127 ngày. 
2.2. Các nội dung cơ bản về kiểm soát TTKT trong pháp luật cạnh tranh 
Việt Nam 
2.2.1. Quy định về các hình thức tập trung kinh tế 
Theo Ðiều 16 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định: “Tập trung kinh tế là 
hành vi của doanh nghiệp bao gồm: (1) Sáp nhập doanh nghiệp; (2) Hợp nhất 
doanh nghiệp; (3) Mua lại doanh nghiệp; (4) Liên doanh giữa các doanh nghiệp; 
và (5) Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật”. Quy định 
này cũng được giữ nguyên trong Luật Cạnh tranh 2018, tại khoản 1 Điều 29. 
Cụ thể hơn, Điều 17 Luật Cạnh tranh năm 2004 nêu ra khái niệm về các hình 
thức tập trung kinh tế như sau: 1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số 
doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình 
sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp bị 
sáp nhập. 2. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển 
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một 
doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất. 
3. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài 
38 
sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề 
của doanh nghiệp bị mua lại. 4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc 
nhiều doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp 
pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới. 
Về quy định nội hàm của hình thức TTKT trong Luật Cạnh tranh năm 2018 
có quy định bổ sung cho rõ hơn so với Luật Cạnh tranh năm 2004, cụ thể khoản 2, 3, 4 
Điều 29 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định (phần gạch chân là quy định bổ sung): 
“ 2. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển 
toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh 
nghiệp khác, đồng thời chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của doanh 
nghiệp bị sáp nhập. 
3. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn 
bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh 
nghiệp mới, đồng thời chấm dứt hoạt động kinh doanh hoặc sự tồn tại của các 
doanh nghiệp bị hợp nhất. 
4. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp 
mua toàn bộ hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm 
soát, chi phối doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại. 
5. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp 
cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để 
hình thành một doanh nghiệp mới.” 
Từ các quy định trên, có thể thấy: 
Thứ nhất, về bản chất pháp lý, mua lại doanh nghiệp là hình thức TTKT 
bằng biện pháp thiết lập quan hệ sở hữu giữa doanh nghiệp mua lại và doanh nghiệp 
bị mua lại. Việc mua lại không phải là quá trình thống nhất về tổ chức giữa hai 
doanh nghiệp nói trên. Sau khi mua lại, doanh nghiệp nắm quyền sở hữu có thể thực 
hiện việc sáp nhập hoặc không. Nếu thực hiện việc sáp nhập thì sự thống nhất về tổ 
chức là kết quả của hoạt động sáp nhập và việc mua lại chỉ là tiền đề để có được 
quyết định sáp nhập. Khi các doanh nghiệp tham gia đang hoạt động trên cùng thị 
trường liên quan thì việc mua lại đã làm cho quan hệ cạnh tranh giữa họ không còn 
39 
tồn tại. Các hình thức mua lại không bị coi là TTKT bao gồm: “Doanh nghiệp bảo 
hiểm, tổ chức tín dụng mua lại doanh nghiệp khác nhằm mục đích bán lại trong thời 
hạn dài nhất là 01 năm. Doanh nghiệp mua lại không thực hiện quyền kiểm soát 
hoặc chi phối doanh nghiệp bị mua lại; hoặc Doanh nghiệp thực hiện quyền kiểm 
soát/chi phối nhưng chỉ trong khuôn khổ bắt buộc để đạt được mục đích bán lại”. 
(Điều 35 Nghị định 116/2005/NĐ-CP) 
Thứ hai, về quyền chi phối hoặc kiểm soát doanh nghiệp bị mua lại, pháp 
luật cạnh tranh quy định quyền kiểm soát hoặc chi phối được hiểu là trường hợp 
doanh nghiệp mua lại dành được quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bị kiểm 
soát đủ chiếm được trên 50% quyền bỏ phiếu tại Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng 
quản trị hoặc ở mức mà theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh nghiệp 
bị kiểm soát đủ để doanh nghiệp mua lại chi phối các chính sách tài chính và hoạt 
động của doanh nghiệp bị kiểm soát nhằm thu được lợi ích kinh tế từ hoạt động 
kinh doanh của doanh nghiệp bị kiểm soát (Điều 35 Nghị định 116/2005/NĐ-CP). 
Khoản 1 Điều 189 Luật Doanh nghiệp năm 2014 không trực tiếp sử dụng thuật ngữ 
quyền chi phối hoặc kiểm soát doanh nghiệp khác mà sử dụng quan hệ mẹ - con 
giữa các công ty để thể hiện mối quan hệ sở hữu được xác lập từ việc mua lại hay 
góp vốn. Theo đó, một công ty được coi là công ty mẹ của công ty khác nếu thuộc 
một trong các trường hợp sau đây: 
(a) Sở hữu trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông của công ty đó; 
(b) Có quyền trực tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên 
Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó; 
(c) Có quyền quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó. 
Về ý nghĩa pháp lý, quy định trong hai văn bản trên là tương đồng, song về 
căn cứ xác định và giá trị ứng dụng lại có những khác biệt đáng kể. Luật Doanh 
nghiệp cơ bản dựa trên mức vốn sở hữu hoặc giá trị quyền quyết định đến bộ máy 
quản lý, điều hành doanh nghiệp trong khi Luật Cạnh tranh đã quy đổi mức sở hữu 
thành giá trị của quyền biểu quyết trong bộ máy quản lý để xác định. Mặt khác, 
Luật Doanh nghiệp còn sử dụng quyền quyết định đến việc sửa đổi, bổ sung điều lệ 
làm một trong những trường hợp xác lập quan hệ mẹ - con, trong khi Luật Cạnh 
40 
tranh sử dụng quyền chi phối các chính sách tài chính, hoạt động của doanh nghiệp 
bị mua lại làm căn cứ xác định. 
Hành vi liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh 
nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của 
mình để hình thành một doanh nghiệp mới (Khoản 4 điều 17 Luật Cạnh tranh năm 
2004). Liên doanh là dạng liên kết giữa các doanh nghiệp thông qua việc cùng tham 
gia thành lập một doanh nghiệp mới. Nói cách khác, sự tồn tại của doanh nghiệp 
mới tạo nên mối liên kết giữa các doanh nghiệp tham gia. Xét về bản chất, hoạt 
động liên doanh đồng nghĩa với hoạt động góp vốn thành lập doanh nghiệp được 
quy định trong Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật các Tổ chức tín dụng và 
Luật Đầu tư. Thế nên, ngoài các quy định của Luật Cạnh tranh, hoạt động liên 
doanh còn chịu sự điều chỉnh bởi các quy định về đăng ký kinh doanh, về thủ tục 
đăng ký đầu tư hoặc thẩm tra đầu tư trong các văn bản nói trên. 
2.2.2. Quy định về tập trung kinh tế bị cấm và các ngưỡng gây hạn chế cạnh 
tranh của tập trung kinh tế 
* Luật Cạnh tranh năm 2004 
Luật Cạnh tranh năm 2004 sử dụng thị phần làm cơ sở phân loại nhóm TTKT 
và là tiêu chí duy nhất để xác định cách thức xử lý. Theo đó, Điều 18 Luật Cạnh 
tranh năm 2004 quy định: “Cấm TTKT nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp 
tham gia TTKT chiếm trên 50% trên thị trường liên quan, trừ trường hợp quy định 
tại Điều 19 của Luật này hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện TTKT 
vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của pháp luật”. 
Như vậy, theo quan điểm của Luật Cạnh tranh năm 2004, những trường hợp 
TTKT mà thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia chiếm trên 50% trên thị 
trường liên quan luôn làm hạn chế cạnh tranh. Theo đó, việc TTKT đã hình thành 
một doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp nắm giữ đa số thị phần trên thị trường 
liên quan và làm cho các doanh nghiệp còn lại chỉ là thiểu số trên thị trường. Điều 
này cho thấy sự thay đổi cơ bản, đột ngột trong tương quan cạnh tranh và cấu trúc 
cạnh tranh trên thị trường. Do đó, những trường hợp trên luôn bị coi là làm giảm, 
làm cản trở và sai lệch cạnh tranh một cách đáng kể. Tuy nhiên, một khi khẳng định 
41 
thị phần kết hợp của các doanh nghiệp chỉ ở mức 50% trở xuống thì cơ quan quản 
lý cạnh tranh sẽ trả lời trường hợp đó không bị cấm. Nói cách khác, thủ tục thông 
báo đơn giản chỉ là quá trình xác định lại một cách chính xác về thị phần kết hợp 
của các doanh nghiệp tham gia TTKT mà chưa là quá trình đánh giá tác động của 
TTKT đến thị trường ở nhiều phương diện. 
Cách tiếp cận này là một trong những bất cập lớn của Luật Cạnh tranh 2004, 
làm cho công tác kiểm soát TTKT chưa thực sự hiệu quả bởi những lý do sau đây: 
Thứ nhất, về bản chất, đánh giá tác động của việc TTKT đến thị trường luôn 
hướng về tương lai. Khi tiến hành thủ tục thông báo (trước khi tiến hành TTKT), 
hậu quả hạn chế cạnh tranh chưa thực sự xảy ra. Các số liệu chứng minh về thị phần 
chỉ phản ánh năng lực cạnh tranh của từng doanh nghiệp tham gia trong quá khứ 
hoặc ở hiện tại. Nếu chỉ dựa vào chúng để đánh giá tác động của TTKT đến tương 
lai của thị trường cạnh tranh có nghĩa là chúng ta đang đặt thị trường trong trạng 
thái tĩnh. Trong sự vận động không ngừng của thị trường, nhiều khi sự kiện sáp 
nhập, mua lại, liên doanh giữa các doanh nghiệp là nguyên nhân tạo nên những 
biến động về thị phần trên thị trường một cách nhanh chóng (doanh nghiệp sau khi 
TTKT không cần thực hiện bất cứ chiến lược cạnh tranh nào mà có thể tăng được 
thị phần ở một mức độ nhất định). Thế nên, trong nhiều trường hợp, thị phần kết 
hợp của doanh nghiệp gần đạt đến mức bị cấm mặc nhiên, song tác động của sự 
kiện TTKT đã làm cho chúng phát triển đến hoặc vượt qua ngưỡng bị cấm. Như 
vậy, mức thị phần kết hợp ở hiện tại chưa đủ để chứng minh về tác hại chắc chắn 
trong tương lai gần của việc TTKT. 
 Thứ hai, trong lý thuyết cạnh tranh, khả năng hạn chế cạnh tranh một cách 
đáng kể của TTKT không chỉ là việc làm thay đổi cơ cấu cạnh tranh của thị trường 
mà còn là khả năng tăng cường quyền lực thị trường để thực hiện hành vi phản cạnh 
tranh trong tương lai. Thế nên, đặt trong bối cảnh nhất định, việc TTKT cũng có thể 
bị coi là nguy hại cho thị trường cạnh tranh nếu đem lại cho doanh nghiệp khả năng 
chi phối thị trường và tiềm năng thực hiện hành vi phản cạnh tranh cho dù mức thị 
phần kết hợp hiện tại chưa đủ để bị cấm mặc nhiên. Xét trong bối cảnh lịch sử, tại 
thời điểm ban hành Luật Cạnh tranh năm 2004 thì quy định cấm này có thể có tính 
42 
hợp lý nhất định, nhưng với sự vận động của nền kinh tế cũng như qua kinh nghiệm 
thực thi của cơ quan cạnh tranh, quy định này đã không còn phù hợp. 
 Ngoài ra, việc sử dụng yếu tố thị phần kết hợp làm căn cứ để kiểm soát 
TTKT cho thấy Luật Cạnh tranh năm 2004 chỉ kiểm soát các trường hợp TTKT 
theo chiều ngang. Vì vậy, việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh giữa các 
doanh nghiệp không cùng thị trường liên quan thì không chịu sự kiểm soát của Luật 
Cạnh tranh năm 2004. 
 *Luật Cạnh tranh năm 2018 
Khắc phục bất cập nêu trên của Luật Cạnh tranh năm 2004, Luật Cạnh tranh 
năm 2018 được sửa đổi theo hướng tiếp cận hoàn toàn mới, dựa trên bản chất gây 
tác động hoặc có thể gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của giao 
dịch tập trung kinh tế. Theo đó, Luật không quy định cấm TTKT một cách cứng 
nhắc dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia TTKT chiếm 
trên 50% trên thị trường liên quan như trong Luật Cạnh tranh năm 2004 mà thay 
vào đó chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện TTKT gây tác động hoặc có khả 
năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường, cụ thể Điều 
30 Luật Cạnh tranh năm 2018 quy định: “Tập trung kinh tế bị cấm: Doanh nghiệp 
thực hiện TTKT gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh 
một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam”. 
Với quy định như vậy, Luật đã thể hiện được quan điểm tiến bộ là luôn tôn 
trọng và cho phép doanh nghiệp được quyền thông qua hoạt động TTKT để phát 
triển kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện quyền kiểm soát 
bằng pháp luật để đảm bảo việc TTKT không gây tác động tiêu cực tới môi trường 
cạnh tranh và chỉ can thiệp trong trường hợp việc TTKT có nguy cơ gây tổn hại cho 
môi trường cạnh tranh. 
Việc đánh giá tác động của vụ việc TTKT theo quy định của Luật Cạnh tranh 
năm 2018 dựa trên đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh 
tranh một cách đánh kế của việc TTKT và đánh giá tác động tích cực của việc 
TTKT. Trong đó, theo giải trình của cơ quan soạn thảo Luật Cạnh tranh (sửa đổi), 
các quy định về việc cho hưởng miễn trừ đối với TTKT theo quy định của Luật 
43 
Cạnh tranh năm 2004 đã được lồng ghép trong quá trình đánh giá tác động tích cực 
của việc TTKT, do đó thủ tục xin hưởng miễn trừ đối với TTKT bị cấm quy định 
trong Luật Cạnh tranh 2004 cũng được bãi bỏ, không quy định trong Luật Cạnh 
tranh năm 2018. Quy định này góp phần cắt giảm thủ tục hành chính, tạo điều kiện 
thuận lợi cho việc tuân thủ quy định về kiểm soát TTKT của pháp luật cạnh tranh. 
2.2.3. Quy định về thủ tục thông báo tập trung kinh tế 
* Luật Cạnh tranh năm 2004 
Cơ chế thông báo TTKT theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 bao 
gồm các quy định về trường hợp phải thông báo TTKT, hồ sơ thông báo TTKT, cơ 
quan thụ lý và thời hạn trả lời thông báo TTKT. 
Các doanh nghiệp tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên 
thị trường liên quan có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước 
khi tiến hành tập trung kinh tế, trừ trường hợp các doanh nghiệp tham gia TTKT có 
thị phần thấp hơn 30% trên thị trường liên quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau 
khi thực hiện TTKT vẫn thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hồ sơ thông báo 
TTKT do doanh nghiệp chuẩn bị theo quy định tại Điều 21 của Luật bao gồm các giấy 
tờ về đăng ký kinh doanh, báo cáo tài chính, danh sách đơn vị phụ thuộc, danh mục 
hàng hoá, dịch vụ, báo cáo thị phần trong hai năm liên tiếp gần nhất trước khi thực 
hiện TTKT và doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của hồ sơ. 
Cơ quan quản lý cạnh tranh thực hiện kiểm soát TTKT bằng việc thụ lý hồ 
sơ thông báo và trả lời thông báo tập trung kinh tế trong thời hạn 45 ngày kể từ 
ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, có thể gia hạn trong những trường hợp có nhiều tình 
tiết phức tạp theo quyết định của thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh không quá 
02 lần, mỗi lần không quá 30 ngày. 
Kết thúc thời hạn nêu trên, cơ quan quản lý cạnh tranh phải xác định TTKT 
thuộc một trong hai trường hợp sau và trả lời cho doanh nghiệp: (i) TTKT không 
thuộc 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_kiem_soat_tap_trung_kinh_te_theo_phap_luat_canh_tra.pdf luan_van_kiem_soat_tap_trung_kinh_te_theo_phap_luat_canh_tra.pdf