MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cám ơn
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .1
1. Lí do chọn đề tài .1
2. Lịch sử vấn đề.2
3. Phương pháp nghiên cứu .6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .7
5. Đóng góp của luận văn .7
6. Cấu trúc luận văn .7
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG .9
1.1. Linh Sơn và Tác giả Cao Hành Kiện .9
1.1.1. Tác giả Cao Hành Kiện .9
1.1.2. Tiểu thuyết Linh Sơn .10
1.2. Quan niệm văn chương của Cao Hành Kiện .13
Chương 2: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN TRONG LINH SƠN.23
2.1. Quan niệm về nghệ thuật xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn của Cao
Hành Kiện .23
2.2. Cách xây dựng cốt truyện trong Linh Sơn.25
2.2.1. Cốt truyện mờ hóa.25
2.2.2. Cốt truyện kết cấu kép và cốt truyện lồng khung xâu chuỗi.30
2.2.3. Cốt truyện siêu tiểu thuyết.36
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT TRONG LINH SƠN.39
3.1. Quan niệm về cách xây dựng nhân vật trong Linh Sơn.39
3.2. Xây dựng nhân vật phân mảnh trong Linh Sơn .45
3.2.1. Đại từ “tôi”- cái tôi trong cuộc hành trình vật lý .45
3.2.2. Đại từ “anh”- cái tôi trong cuộc hành trình tâm linh .52
107 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 850 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Linh Sơn và quan niệm về tiểu thuyết của cao hành kiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trí nhớ và sự liên tưởng, việc gì phải bắt nàng ngừng lại?”
[21, tr.287]. Và tác giả cũng xác định rằng, nhân vật “nàng” sẽ luôn luôn biến
đổi. Vì thế mà trong tác phẩm, “nàng” luôn biến đổi thành nhiều người, mang
nhiều gương mặt “Moreover, her imagine is forever changing” [69, tr.347]
(tạm dịch: “ngoài ra, hình dung của cô ấy luôn luôn thay đổi”).
Trong bài nói chuyện “Sự cần thiết của cô đơn” tác giả có nói “Tuệ thức
hay ý thức cũng sinh ra khi ta có khoảng cách - nói cách khác, khi ta lùi lại
một bước. Chúng ta cần một khoảng cách nào đó để có thể thấy rõ và phán
đoán chính xác về con người và các sự kiện” [55], điều này đã dẫn đến việc
xây dựng nhân vật “hắn” với mục đích làm rõ bản thân mình hơn. Điều này
được tác giả giải thích rõ ràng hơn trong chương 52 của Linh Sơn “anh ở
trong cuộc đi tâm linh của mình, cùng lang thang, du ngoạn khắp thế gian
43
bằng ý tưởng của anh. Đi càng xa càng cảm thấy gần, đến lúc không thể
tránh nhau được nữa, cần phải lùi một bước để tạo ra khoảng cách. Khoảng
cách đó chính là hắn. Hắn là cái bóng khi anh bỏ tôi mà đi” [21, tr.282]
(“until unavoidably you and I merge and are inseparable. At this point there is
a need to step back and to create space. That space is he. He is the back of you
after you have turned around left me” (tạm dịch là “vào thời điểm này, thật là
cần thiết để lùi một bước và sáng tạo ra một khoảng trống. Khoảng trống đó
chính là hắn. Hắn là cái bóng của anh sau khi anh xoay mình rời bỏ tôi”) [69,
tr.347]. Như vậy, nhân vật “hắn” được tạo ra để nhằm xác định đâu là “anh”
và đâu là “tôi”, để giúp “anh” và “tôi” không bị trộn lẫn và nhau. “Hắn”
mang tính độc lập khách quan, đứng bên ngoài để nhận xét “anh” và “tôi”.
“Anh” là “cái bóng” của “tôi”, “tôi” đang đi trên con đường thực tế, còn
“anh” đi trên con đường trong tưởng tượng của “tôi”. Làm sao để giúp cho
giữa tưởng tượng và hiện thực không bị lẫn lộn, không bị trộn lẫn vào nhau,
điều đó thật là cần thiết để xây dựng nhân vật “hắn”, vì “hắn” sẽ giúp cho
tưởng tượng và thực tế không trộn lẫn vào nhau, giúp cho “anh” và “tôi”
không bị hợp nhất. Cũng như khi xây dựng nhân vật “nàng”, “hắn” vốn chỉ là
“một bóng hình trong gương”, không thể thấy rõ khuôn mặt và dáng hình của
“hắn”: “cho dù là tôi hay cái bóng của tôi thì đều không nhìn rõ khuôn mặt
hắn, chỉ cần biết có cái bóng đằng sau là đủ rồi” [21, tr.282].
Tác giả đã xây dựng nhân vật “tôi”, “anh”, “nàng”, “hắn”. Vậy tại sao
không xây dựng nhân vật “chúng tôi” hay “chúng ta”? Điều này đã được tác
giả giải thích “Không biết anh có chú ý đến điều đó không? Khi tôi nói đến
tôi, anh, nàng, hắn và thậm chí cả bọn họ, các nàng. Chứ tuyệt nhiên tôi
không nói đến “chúng tôi”. Tôi cho rằng “chúng tôi” kỳ dị và đạo đức giả ấy
là thừa. [21, tr.282]. Điều này có thể giải thích về sự từ chối “cái chúng tôi”
trong tác phẩm của Cao Hành Kiện là do sự ám ảnh bởi nền văn hóa đại đồng
44
mà nhân dân Trung Hoa phải hứng chịu trong thời kỳ Cách Mạng Văn Hóa,
đó là thời kỳ mà quyền lợi và cá nhân mỗi con người đều bị tước đoạt, con
người chỉ sống bằng “cái ta” giả dối của mình. Vì thế, tác giả rất sợ cái
“chúng tôi” này.
Trong cách xây dựng nhân vật, tác giả đã lập cho mình một trình tự logic
riêng để diễn tả những gì tác giả suy nghĩ và muốn gửi gắm, diễn tả những sự
“hỗn độn” ngay chính bản thân của mình khi sống trong một thế giới luôn
luôn biến đổi “Tôi đã lập cho mình một kiểu trình tự, nói cách khác là một
kiểu logic, một hệ nhân quả. Những trình tự logic, nhân quả trong thế giới
hỗn độn này đều do con người lập nên để khẳng định mình. Sao tôi không tạo
ra một trình tự, logic, nhân quả cho riêng mình nhỉ? Tôi có thể ẩn nấp trong
đó, sống yên ổn với lương tâm tôi” [21, tr.283]. Bên cạnh đó, cách xây dựng
nhân vật trong Linh Sơn còn ảnh hưởng rõ rệt của triết học hiện sinh, xây
dựng con người đúng với bản chất của nó “con người hiện sinh là con người
sinh động và hành động, và hành động xác định bản chất con người” [11,
tr.5]. Điều đó thể hiện một phần nào tính chất nhân đạo trong quan niệm của
tác giả. Linh Sơn là một quyển tiểu thuyết về một con người đang khám phá
thế giới phức tạp và phong phú của chính bản thân mình, thành công của
quyển tiểu thuyết này là phân tích bản ngã của một con người. Và điều này đã
được Cao thể hiện qua nhân vật bằng cách xây dựng nhiều tiếng nói trong một
con người. Đây cũng là điều mà hấp dẫn độc giả, bởi vì nó liên quan đến họ ở
mức độ cá nhân, họ có thể là người bạn song hành cùng tác giả, hoặc là họ có
thể thông qua quyển tiểu thuyết này như một tấm gương để tự soi chiếu mình.
Việc chuyển dịch vai trò tường thuật qua nhiều đại từ khác nhau đã tạo được
sự trung lập trong suy nghĩ, giúp cho người đọc có cái nhìn khách quan về
chính bản thân mình. Đây cũng là một thành tựu của Cao trong quyển tiểu
thuyết này. Việc xây dựng nhân vật theo khía cạnh phát triển tâm lý, như là
45
một biểu hiện của con người phân mảnh, con người hoài nghi của chủ nghĩa
hậu hiện đại. Linh Sơn được xây dựng từ nhiều đại từ số ít để giới thiệu nhưng
chúng ta nhận thấy rằng sau những câu chuyện lan man và vụn vặt ấy là một
khuôn khổ đã được xây dựng sẵn.
Như vậy, xây dựng nhân vật trong Linh Sơn là kiểu xây dựng nhân vật
phân mảnh giúp tác giả diễn đạt nhiều khía cạnh khác nhau trong cùng một
bản ngã con người.
3.2. Xây dựng nhân vật phân mảnh trong Linh Sơn
3.2.1. Đại từ “tôi”- cái tôi trong cuộc hành trình vật lý
Người kể chuyện “tôi” thực hiện một chuyến đi trong thế giới thực, đó là
một chuyến đi thực dài năm tháng từ đầu nguồn con sông Dương Tử trong
những năm 1980 vào vùng sơn cùng thủy tận miền Nam Trung Quốc, nơi
nhiều dân tộc ít người sinh sống, cùng với sự tồn tại của những phong tục tập
quán lâu đời. Qua chuyến đi của nhân vật “tôi”, cung cấp cho chúng ta một số
kiến thức về một vùng sinh thái rộng lớn cùng với những phong tục thời cổ
đại, những nền văn hóa của dân tộc thiểu số và người Hán. Trong chương 2,
nhân vật “tôi” đã nói “Trong khi anh tìm đường đến Linh Sơn, thì tôi đang
thong thả du lãm dọc sông Trường Giang, chính là dõi tìm cái điều chân thực
ấy” [21, tr.15]. Dọc theo cuộc hành trình của mình, người kể chuyện “tôi” đã
chuyện trò với nhiều loại người đến từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội,
những người mà khác nhau cả về tôn giáo và dân tộc. Có nhiều nhân vật phụ
mà nhân vật “tôi” đã gặp trên đường đi, họ có thể là đàn ông, đàn bà hoặc là
cô gái, họ là những ẩn sĩ, những nhà sư, hoặc là những người dân tộc thiểu số
buôn bán nhỏ. Cũng như nhân vật chính, tất cả họ đều mờ nhạt, không phát
triển đầy đủ. Họ thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cho nhân vật “tôi”, trò chuyện,
hướng dẫn hoặc chỉ đường, tất cả họ góp phần giúp cho nhân vật “tôi” tiếp tục
phát triển cuộc hành trình của mình thông qua những gì nhân vật “tôi” giao
46
tiếp với họ và cảm nhận về họ.
Theo lý thuyết tự sự học, người kể chuyện là người nhà văn hư cấu nên
để kể câu chuyện. Vì vậy, người kể chuyện có thể là người không tồn tại, là
người tập trung nhiều tính chất của nhiều loại người. Đầu tiên điều mà chúng
ta nhận thấy trong tác phẩm Linh Sơn này, người kể chuyện xưng “tôi” là
người kể chuyện ở ngôi thứ nhất, người trực tiếp tham gia trong cuộc hành
trình vật lý đến Linh Sơn, người mà hóa thân thành nhân vật trong truyện kể.
Do đây là một quyển tiểu thuyết bán tự truyện dựa trên một sự kiện có thật từ
một chuyến đi dọc theo sông Dương Tử, cho nên người kể chuyện vừa là
người dẫn dắt câu chuyện, bên cạnh đó người kể chuyện xưng “tôi” còn là
một chứng nhân ghi lại những gì mà anh ta thấy và những gì mà anh ta cảm
nhận trong cuộc hành trình vật lý đến Linh Sơn này. Người kể chuyện xưng
“tôi” còn là người hiện diện thực tế cho bản thân tác giả với những biến cố
trong cuộc đời mà tác giả đã trải qua. Nếu như trong những chương chứa
người kể chuyện “anh” là người đại diện cho những suy nghĩ mất mát, những
đau thương tổn thất mà nhà văn đã trải qua trong tâm hồn, thì ở đây, người kể
chuyện xưng “tôi” là người hiển thị cho tác giả dưới góc nhìn vật lý. Trong
cuộc nói chuyện hư cấu với nhà phê bình trong chương 72, tác giả đã lí giải
cho việc sử dụng đại từ số ít để thay thế cho nhân vật của mình. Vì vậy, các
đại từ số ít đã trở thành các nhân vật của câu chuyện. Một điểm đặc biệt nữa
trong cách xây dựng nhân vật, tác giả không khắc họa bất kỳ tính cách đặc
trưng nào cho nhân vật của mình. Dù là nhân vật “tôi”, “anh”, “nàng” hay
“hắn” thì người đọc chỉ cảm nhận được họ ở sự cô đơn trống rỗng, luôn luôn
hoài nghi với mọi thứ diễn ra xung quanh mình. Trong chương 72 của Linh
Sơn, qua cuộc nói chuyện trong tưởng tượng giữa “hắn” và “nhà phê bình”,
quan điểm về xây dựng nhân vật của Cao mới được hé lộ khi nhân vật “hắn”
nói: “hắn không muốn tạo dựng tính cách bất kỳ của nhân vật nào, mà bản
47
thân hắn cũng không biết hắn có tính cách không” [21, tr.402]. Điều này là
một sự cách tân trong cách xây dựng nhân vật so với tiểu thuyết truyền thống
Trung Quốc. Nhân vật trong tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc thường
được xây dựng ngoại hình và tính cách rõ rệt. Như trong tiểu thuyết Tam
Quốc diễn nghĩa chẳng hạn, đặc điểm tính cách ngoại hình của ba anh em
Lưu- Quan- Trương được khắc họa rõ rệt, tính cách đó trở thành đặc trưng
cho ba nhân vật trong Tam Quốc chí. Mỗi lần ta nghĩ đến tính cách “nóng như
lửa” là ta lại nghĩ đến Trương Phi. Bên cạnh đó xây dựng nhân vật Bát Giới,
Tây Môn Khánh cũng như vậy. Tuy nhiên khi đọc đến Linh Sơn của Cao
Hành Kiện, hầu hết các nhân vật đều không rõ ràng. Khi chúng ta hỏi nhân
vật trong Linh Sơn tên gọi là gì, nghề nghiệp gì, hình dáng ra sao tất cả đều
không thể trả lời được. Bởi vì những nhân vật trong Linh Sơn chỉ được xây
dựng như những cái bóng chỉ có thể nhìn thấy những đường viền của nó. Điều
đó có nghĩa là nhân vật “tôi” cũng không là một ngoại lệ. Nhân vật “tôi”
trong Linh Sơn với hình dạng một người đi không có mục đích lang thang trên
đường đến nơi gọi là Linh Sơn như trong chương 52 có viết “for I who am
engrossed in my journey or you who are on your spiritual journey” [69,
tr.346] (tạm dịch là: “tôi, người mà mải mê trên cuộc hành trình của tôi hay
bạn, người trên cuộc hành trình tâm linh của bạn”). Như vậy, nhân vật “tôi”
trong Linh Sơn hiện ra với hình ảnh một người đi không có mục đích “Tôi lấy
cái không mục đích làm thành mục đích và việc tìm kiếm cũng là mục tiêu cho
dù mục tiêu đó là gì chăng nữa. Bản thân cuộc đời cũng không có mục đích,
chỉ cần cứ đi tiếp là được” [21, tr.306] và luôn dõi con mắt nghi ngờ để nhìn
tất cả. Thông qua cuộc hành trình của mình người kể chuyện tiếp xúc với
nhiều loại người, nhiều tầng lớp trong xã hội. Có những cuộc gặp gỡ với
những nhà khoa học, đang cố gắng để bảo vệ loài gấu trúc (chương 6), với
tôn giáo của dân tộc Di và một người diễn xướng dân gian dân tộc Di (chương
48
20), và một kiểm lâm sống cuộc sống ẩn dật (chương 33), với những cô gái
trẻ dân tộc Mèo tìm gọi bạn tình trong đêm (chương 39), với một người sống
ẩn dật của Phật giáo (chương 47), một nghệ sĩ biểu diễn nghi lễ Đạo giáo
(chương 49), với một gái mại dâm (chương 67) và một phụ nữ đồng tính
(chương 73), với người bạn thời thơ ấu (chương 79). Người kể chuyện “tôi”
còn hóa thân thành nhiều ngành nghề khác nhau để khám phá những điều bí
mật trên đương đến Linh Sơn như trong chương 18 và chương 59, người kể
chuyện “tôi” như một nhà sinh thái học và sinh vật học, và như một nhà nhân
chủng học và khảo cổ để làm nghiên cứu về lịch sử của dân tộc Di (chương
20), và huyền thoại Vũ Sơn (chương 51). Tác giả đã miêu tả người kể chuyện
xưng “tôi” như những gì tác giả nói trong chương 72: không có bất cứ đặc
tính gì nổi bật. Ở đây ta nhận thấy rằng tác giả đã sử dụng biện pháp “độc
thoại nội tâm” để bộc lộ những suy nghĩ của mình, người kể chuyện “tôi”
hay là hóa thân của chính tác giả đang nói chuyện với chính bản thân mình
trên suốt cuộc hành trình đi đến Linh Sơn, sự suy ngẫm về những con người
mà trên con đường đến Linh Sơn nhân vật “tôi” đã gặp, những điều trông thấy
về thiên nhiên, con người, về lịch sử xã hội, tất cả đều được ống kính vạn hoa
của người kể chuyện ghi chép lại, và trở thành nỗi suy ngẫm trong tinh thần.
Cũng như nhân vật “tôi” nói trong chương 52 “Anh biết tôi chẳng qua lẩm
bẩm chuyện trò một mình để làm vơi bớt nỗi cô đơn. Anh biết nỗi cô đơn của
tôi là vô phương cứu chữa” [21, tr.281], vì vậy thủ pháp độc thoại nội tâm đã
được tác giả sử dụng khi xây dựng nhân vật “tôi” để cho nhân vật có tiếng nói
trong tác phẩm. Cho nhân vật có được sự tồn tại nhờ vào tiếng nói của mình.
Theo Faulkner cho rằng “phương pháp độc thoại nội tâm là một nghệ thuật
thể hiện trái tim con người đang gây hấn với chính nó” [10, tr.78], M.
Raimond, R. Jean cũng cho rằng “đây là phương tiện có sức mạnh diễn đạt
căn bệnh mới của thế kỷ. Đó là sự cô đơn vô phương cứu chữa của con người,
49
sự bất lực của con người, không thể nào giao tiếp nổi với kẻ khác” [10, tr.78].
Vì thế trong Linh Sơn ta nhận thấy có những đoạn đối thoại ngầm diễn tả hình
ảnh một con người đang suy tưởng, đang suy nghĩ về những gì đã nhìn thấy.
Người kể chuyện “tôi” được xây dựng như một người hăm hở với cuộc sống
ở nơi sơn cùng thủy tận, người phê bình về thực tế Trung Quốc hiện đại từ xã
hội, văn học, môi trường thiên nhiên, và kể cả lịch sử. Con mắt hoài nghi về
những điều đã được nghe thấy, kể lại so với những gì xảy ra trong thực tế là
một sự khác biệt rất lớn. Nhân vật “tôi” trong Linh Sơn là một con người cô
đơn và lấy cái cô đơn để bảo vệ chính bản thân mình. Khi nhìn trên vé tháng
của mình, tác giả thấy trong đó một sự cô đơn chồng chất của chính bản thân
mình “kỳ thực tôi thấy trong đó có một nỗi khổ và sự cô đơn đang chất chứa
và tôi có cảm giác sợ hãi mơ hồ” [21, tr.142]. Nhân vật “tôi” còn được xây
dựng như một sự khẳng định chính bản thân tác giả, việc tìm kiếm lại cái tôi
của mình. Vì vậy trong chương 26, tác giả đã dành một chương để miêu tả sự
biến dạng của cái “tôi”, cái “tôi” cổ quái của chính bản thân mình được nhận
ra khắp mọi nơi: khi nhìn một đám mây, vệt nước trên nhà vệ sinh, ánh sáng
từ ngọn đèn phát ra trên trần nhà, nhìn trên tấm vé tháng, khi nhìn người khác.
Và tác giả đã hoảng hốt mà nói rằng “bởi vậy nếu phải diễn tả cái tôi của
mình, tôi chỉ có thể phát hoảng lên mà tôi không biết trong cái mớ bao nhiêu
bộ mặt của tôi thì cái nào đại diện cho bản thân mình, mà càng nhìn chúng
càng biến đổi khôn lường, cuối cùng chỉ còn cách là bỏ cuộc” [21, tr.142], và
hành trình của nhân vật “tôi” là hành trình tìm kiếm lại cái “tôi” của mình.
Nhân vật “tôi” chỉ cảm nhận được cái “tôi” ấy khi ngồi trước đống lửa xèo
xèo “bây giờ tôi mới biết mình là thực” [21, tr.13]. Đầu tiên, nhân vật “tôi”
tìm kiếm cái tôi của chính bản thân mình trong việc khẳng định sự tồn tại của
mình với cuộc sống “Tôi nói rằng tôi chẳng có hứng thú gì đến điều đó mà
điều cần thiết nhất đối với tôi là cuộc sống” [21, tr.296]. Sau đó, sự tồn tại
50
của cái “tôi” là sự tự do và làm những gì mình thích “Tôi chiến đấu vì sự sinh
tồn, không, tôi không vì cái gì cả, chỉ tự bảo vệ mình mà thôi. Tôi chẳng đủ
dũng cảm như cô gái nọ, vẫn chưa lâm vào bước đường cùng. Tôi vẫn yêu thế
gian này, tôi vẫn chưa sống đủ” [21, tr.422], nhân vật “tôi” tự nhận mình
“không có nghiã vụ phải cứu một con thú rừng hoặc cứu cả thế giới” [21,
tr.149]
Trên cuộc hành trình đi Linh Sơn, được cho là nơi Phật tổ giác ngộ đệ tử
của ngài, bên cạnh sự hứng thú về những làn điệu dân ca, những đền đài Phật
giáo và Đạo giáo, những cổ vật cùng những trò chơi dân gian như đua thuyền
của người Mèo, kể chuyện trong quán trà, xem bói và lên đồng, nhân vật
“tôi” đã đi đến thăm Đạo quán trong chương 63, đến chùa Quốc Thanh của
Phật giáo trong chương 69nhân vật “tôi” còn nhìn thấy cả những tội ác của
con người đang hủy hoại thiên nhiên, tiêu diệt đồng loại và chính bản thân
mình. Con người đã hủy hoại thiên nhiên một cách trầm trọng: những thân
cây nằm chỏng chơ trong chương 10, những con sông ô nhiễm ở hồ Thảo
trong chương 18, môi trường suy thoái miêu tả sống động trong chương 18,
săn gấu trúc trong chương 6 , phá rừng, “con sông Mân giang cũng chỉ là một
dòng bùn đen đang chảy, phá vỡ cân bằng sinh thái của sông Trường Giang”
[21, tr.49], hổ Hoa Nam bị tuyệt chủng trong chương 8, cùng với những loài
chim quý và loài rắn Kỳ xà bị tuyệt chủng. Con người còn tiêu diệt chính
đồng loại của mình , nhân vật “tôi” bày tỏ sự sửng sốt trước tội ác của con
người trong Cách mạng văn hóa “ có điều kỳ lạ là người càng bị giết thì càng
nhiều còn ngược lại cá càng bị câu càng hiếm hơn” [21, tr.418]. Sự dửng
dưng của con người khi một người bác kể lại lúc bác còn nhỏ bị chảy máu
cam, người thân họ hàng nhìn một cách dửng dưng, chỉ có bà già bán đâu phụ
là giúp bác. Và người bác đó đã ra đi một cách không rõ nguyên do trong
bệnh viện (chương 75). Những nỗi căm phẫn trong thời kỳ Cách mạng văn
51
hóa “những thành phố mà người ta đi qua đều trở nên điên loạn. Tường nhà,
phòng xưởng, cột điện cao thế, tháp nước, tất cả đều phủ đầy khẩu hiệu thề
bảo vệ đến chết, lật đổ, đập nát và quyết chiến bằng máu” [21, tr.420], “Năm
tháng đó thật là kỳ quái, hình như trời và người cảm ứng với nhau, đất hóa
điên, rung rung chuyển động” [21, tr.421]. Sống trong những năm tháng mà
con người không được làm chủ cái “tôi” của mình, cho nên việc tìm kiếm lại
cái “tôi” đã mất trở thành một niềm mơ ước của nhân vật “tôi”. Và câu hỏi
gìn giữ cái “tôi” hay hủy diệt nó mãi mãi luôn là câu hỏi mà nhân vật “tôi”
luôn đặt ra “vấn đề là sự tự vấn lương tâm của cái tôi bên trong, nó là con
quái vật không ngừng trách móc, hành hạ chẳng để tôi yên. Lòng tự ái, tự hủy
hoại, sự giữ gìn, tính kiêu ngạo, đắc ý và nỗi buồn phiền, lòng ghen tỵ, căm
ghét là đẻ ra từ nó, cái tôi thực ra là khởi nguồn của sự bất hạnh cho loài
người. Vậy thì, giải quyết nỗi bất hạnh ấy có phải bóp chết cái tôi kia không
đây” [21,tr.143]. Hoài nghi với cái “tôi” bản thân mình như thế, nhân vật
“tôi” còn hoài nghi luôn cả lịch sử. Khi nhân vật “tôi” nhìn nhận lịch sử dưới
con mắt nghi ngờ, bằng những dòng chữ như những con nòng nọc trên vách
đá (chương 71). Ở đây nhân vật “tôi” không tỏ thái độ coi thừơng lịch sử,
nhưng với con mắt hoài nghi của con người hiện đại, khi những gì nghe được
chưa hẳn đó là sự thật ấy, đã khiến nhân vật “tôi” nghi ngờ cả sự chân thực
của lịch sử. Vì theo nhân vật “tôi” thì lịch sử có nhiều cách đọc, cách nghĩ.
Người dẫn chuyện “tôi” hoài nghi câu nói của người xưa như của Lỗ Tấn và
Đồ Vị (chương 71). Hoài nghi Đại Vũ, vị vua đầu tiên trong lịch sử triều đại,
và ông xem xét Đại Vũ dưới nhiều cách nhìn khác nhau: “trong con mắt vợ,
Đại vũ là một con gấu, dân chúng coi ông là thần thánh, dưới ngòi bút của
các nhà lịch sử thì ông là hoàng đế, còn các nhà văn, Đại Vũ trở thành người
đầu tiên giết người khác để thỏa mãn ý thích của mình” [21, tr.399]. Như vậy
với nhân vật “tôi” “lịch sử như một màn sương mù dày đặc, chỉ có tiếng hát
52
Tất Ma là trong sáng rõ ràng, đầy ý vị” [21, tr.116]. Đi tìm sự chân thực của
bản thân, sự chân thực của lịch sử, sự chân thực của tự nhiên và của nghệ
thuật, nhân vật “tôi” đã cất bước lên đường đến Linh Sơn vì những điều chân
thực ấy.
Do nhân vật chính “tôi” là người không có tên gọi cụ thể, là người mang
những kinh nghiệm của tác giả nên nhân vật “tôi” bị một số hạn chế trong
việc phát triển nội tâm của nhân vật. Nhân vật “tôi” chỉ có giá trị như người
phát triển tình tiết, nghe ngóng và hướng dẫn người đọc cùng đồng hành đến
Linh Sơn trong cuộc hành trình vật lý với mình. Do nhân vật “tôi” là nhân vật
chính của câu chuyện trong cuộc hành trình vật lý này, nên những chương
miêu tả về nhân vật “tôi” thường là những chương miêu tả trực tiếp, bình
luận, trình bày và giải thích. Nhân vật “tôi”, con người luôn khát khao được
giao tiếp với người khác, đang sống trong cảnh cô đơn đã tự tạo ra cho mình
một cuộc độc thoại dài dòng để phóng chiếu ra những người khác. Nhân vật
“tôi” khi quan sát người khác, luôn lấy mình làm trung tâm làm tấm gương
phản chiếu “khi tôi quan sát người khác, tôi coi họ như tấm gương phản chiếu
lại chính bản thân tôi và sự quan sát đó phải tùy thuộc vào cõi lòng tôi lúc
đó” [21, tr.143].
3.2.2. Đại từ “anh”- cái tôi trong cuộc hành trình tâm linh
Quyển tiểu thuyết được bắt đầu với người kể chuyện “anh”, người đi tìm
một mục tiêu khó nắm bắt được, ở một nơi gọi là Linh Sơn. Trong những
chương có người kể chuyện “anh”, Linh Sơn xuất hiện không rõ ràng, pha lẫn
thực tế và tôn giáo. Người kể chuyện“anh” là người thiết lập một cuộc hành
trình cho tâm hồn trên đường đi đến ngọn núi thiêng. Người kể chuyện “anh”
đi không mục đích, không có xác định được mục tiêu của cuộc hành trình, chỉ
biết Linh Sơn có được do lời kể từ “hắn” và vị trí của nó là “đầu nguồn con
sông Vưu thủy” [21, tr.7]. Nhưng tất cả đều rất mờ nhạt về nơi đến, do người
53
kể chuyện không xác định được vị trí của con sông Vưu Thủy và cái nơi gọi
là Linh Sơn. Tất cả đều nằm trong mớ hỗn độn xộc xệch, từ lần gặp mặt “lắc
lư theo nhịp tàu chạy” [21, tr.6] của người kể chuyện và người chỉ đường đi
Linh Sơn. Người kể chuyện anh “không giải thích được tại sao mình đến nơi
đây” [21, tr.6] và tham gia trong cuộc hành trình này. Mọi thứ đều không rõ
ràng từ nơi xuất phát đến cái đích đến của nó, khiến người đọc có cảm giác
hoang mang. Một cuộc đi không có điểm xuất phát và cũng chẳng có điểm
đến, Linh Sơn là ở nơi đâu? Nó tồn tại trong thực tế hay trong trí tưởng tượng.
Mọi thứ đều không rõ ràng, như một gợi ý của tác giả về những thứ không rõ
ràng trong thế giới con người. Mặc dù người kể chuyện của chúng ta đã cho
chúng ta biết một chút thông tin về ngọn núi thiêng đó có liên quan đến Phật
giáo “Cái tên Linh Sơn này có một xuất xứ rõ ràng. Phật tổ giác ngộ Mô Ha
Ca diếp tôn giả tại Linh Sơn.” [21, tr.9]. Như vậy, Linh Sơn được tiếp cận
một cách rất Phật giáo ở trong thực tế lẫn tưởng tượng. Trong chương 15, địa
điểm Linh Sơn lại xuất hiện không rõ ràng về vị trí địa lí của nó khi người kể
chuyện “anh” hỏi thăm những cụ bà móm mém thì “anh” nhận được tiếng trả
lời có âm thanh như tiếng huýt gió, mọi thứ điều trở nên không rõ ràng về con
đường đi đến Linh Sơn. Ở trong chương 25, nhân vật “anh” lại tiếp tục hỏi
thăm cuộc hành trình đến Linh Sơn, và Linh Sơn lại xuất hiện lần nữa trong
bầu không khí Phật Giáo, Linh Sơn chỉ là nơi cầu tự có con trai mà thôi. Ý
nghĩa tượng trưng và bản chất không thực của Linh Sơn lại một lần nữa được
nói tới trong chương 76, khi người kể chuyện “hắn” hỏi thăm một trưởng giả
mặc áo bào về nơi đến gọi là Linh Sơn. Nhân vật “anh”, con người của tưởng
tượng đang đi trên một con đường không có thật trong thực tế. Cũng như cách
xây dựng nhân vật “tôi”, nhân vật “anh” cũng được xây dựng từ những đại từ
số ít. Nhân vật “anh” cũng không được xác định rõ ràng từ hình dạng lẫn tính
cách “Anh chỉ nhận thức được mình có một đường viền của thân hình anh
54
nhưng nó cũng nhạt nhòa, mờ đi trong ý niệm của anh. Có một luồng sáng
phát ra trong người anh, như đốm lửa đơn độc của một ngọn nến trong màn
đêm tăm tối. Ngọn lửa đó tỏa sáng nhưng không mang một chút hơi ấm nào,
một thứ ánh sáng lạnh buốt đang ngập tràn thân thể anh, trào ra khỏi đường
viền, những đường viền trong tư tưởng” [21, tr.109]. Và cũng như nhân vật
“tôi”, nhân vật “anh” cũng là một kẻ cô đơn “Anh nói anh sợ. Anh sợ gì?
Anh sợ cô đơn.” [21, tr.299]. Trong những chương có nhân vật “anh” luôn có
sự xuất hiện của nhân vật “nàng”, người bạn cùng nói chuyện với nhân vật
“anh”, để giúp “anh” với bớt nỗi cô đơn. Những câu chuyện giữa “anh” và
“nàng” trộn lẫn vào nhau, bằng cách kết hợp quá khứ của họ với quá khứ của
những người khác tạo nên sự phức tạp trong thế giới nội tâm của con người.
Trong chương 52, qua cuộc độc thoại dài dòng của “tôi”, một cuộc độc thoại
tưởng tượng “trong cuộc độc thoại dài dằng dặc này, anh là đối tượng kể
chuyện của tôi, của riêng bản thân tôi. Chẳng qua anh là hình bóng của tôi
mà thôi” [21, tr.281], nhân vật “tôi” đã khẳng định nhân vật “anh” là sản
phẩm của sự hư cấu từ chính bản thân mình ra, nhân vật “anh” là cái bóng
của nhân vật “tôi”, một cái bóng mang nhiều đặc tính từ chủ nhân của nó là
nhân vật “tôi”: sự cô đơn, sự hoài nghi, đi tìm lại giá trị của bản thân. Nhân
vật “anh”, người mang trên người những kinh nghiệm của nhân vật “tôi”
chuyển tải thành tưởng tượng của chính bản thân mình “mọi bất hạnh của tôi
lại nằm trong cái anh mang rủi ro mà tôi đã đánh thức. Thật ra anh vốn
không bất hạnh, mọi đau khổ của anh đều do tôi. Thượng đế và ma quỷ đều
do anh gọi đến, anh là hóa thân về hạnh phúc và tai nạn c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_19_1120163853_2423_1869261.pdf