PHẦN MỞ ĐẦU.9
1. Lý do chọn đề tài .9
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ .10
3. Đối tượng & phạm vi nghiên cứu.10
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.11
5. Phương pháp nghiên cứu .12
6. Những đóng góp của đề tài.13
7. Bố cục đề tài .14
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ
MARKETING DU LỊCH CÓ TRÁCH NHIỆM TRONG KINH DOANH .14
1.1. Một số khái niệm liên quan .14
1.1.1. Marketing.14
1.1.2. Marketing trách nhiệm xã hội .15
1.1.3. Green Marketing .18
1.1.4. Marketing du lịch .20
1.1.5. Marketing du lịch có trách nhiệm .21
1.2. Marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh doanh .23
1.2.1. Lợi ích của việc thực hành marketing du lịch có trách nhiệm .23
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản của marketing du lịch có trách nhiệm.26
1.2.3. Nội dung của marketing du lịch có trách nhiệm .26
1.3. Kinh nghiệm quốc tế trong hoạt động marketing có trách nhiệm .
1.3.1. Marketing có trách nhiệm của công ty Coca-cola
1.3.2. Marketing có trách nhiệm của hãng Mc Donald
1.3.3. Marketing du lịch có trách nhiệm của công ty Canadian Mountain
Holidays.
31 trang |
Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 1030 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh doanh tại các khách sạn do tập đoàn IHG quản lý ở Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạn hội nhập hiện nay, mà từ trước tới giờ ít được doanh nghiệp Việt
Nam quan tâm, đặc biệt là các khách sạn. Hoạt động marketing có trách nhiệm đã
được các khách sạn thực hiện và đã thu được thành công song cũng tồn tại một số
hạn chế. Trên thực tế, việc nghiên cứu marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh
doanh khách sạn về thực tiễn và lý luận là vấn đề cần thiết và ý nghĩa. Bên cạnh
đó, qua tìm hiểu tác giả nhận thấy chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào
10
về marketing du lịch có trách nhiệm trong lĩnh vực khách sạn. Điều đó đã thôi thúc
tác giả lựa chọn vấn đề “ Marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh doanh tại
các khách sạn do tập đoàn IHG quản lý ở Hà Nội” làm để tài luận văn thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ
- Mục đích: Đề xuất giải pháp nhằm nâng cao marketing du lịch có trách
nhiệm trong kinh doanh khách sạn.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Hệ thống hóa cơ sở lý luận về marketing du lịch có trách nhiệm
+ Đánh giá thực trạng hoạt động thực hiện marketing du lịch có trách nhiệm
trong các khách sạn do tập đoàn International Hotel Group (IHG) quản lý tại Hà
Nội.
+ Đề xuất giải pháp để nâng cao hiệu quả marketing có trách nhiệm trách
nhiệm tại các khách sạn do tập đoàn IHG quản lý.
3. Đối tƣợng & phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh doanh
khách sạn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Marketing trong lĩnh vực du lịch thường được các doanh
nghiệp áp dụng chiến lược marketing mix với mô hình 4P bao gồm Product (sản phẩm),
Price (Giá cả), Place (phân phối) và Promotion (Xúc tiến). Như vậy là tính trách nhiệm
trong hoạt động marketing của các khách sạn phải được thể hiện ở các chính sách về sản
phẩm, giá, phân phối và xúc tiến. Tuy nhiên do hạn chế về thời gian thời gian cũng như
quy mô của luận văn, tác giả chỉ xin tập trung vào hoạt động marketing có trách nhiệm
của khách sạn trong hoạt động xúc tiến.
+ Phạm vi về không gian: Các khách sạn do tập đoàn Intercontinental Hotel Group
quản lý tại Hà Nội bao gồm khách sạn Crowne Plaza West Hanoi và khách sạn
Intercontinental Hanoi Westlake.
+ Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu tình hình hiện thực hiện marketing có trách
nhiệm tại hai khách sạn nêu trên trong khoàng thời gian từ năm 2011-2016
11
4. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong nước có một số tác giả viết về marketing du lịch, trách nhiệm xã hội,
du lịch có trách nhiệm:
Viết về trách nhiệm xã hội có khá nhiều tác giả với nhiều bài viết nghiên
cứu với các cách tiếp cận khác nhau như:
TS. Lê Thanh Hà với bài viết “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong vấn
đề tiền lương” trên Báo Lao động xã hội, số 290 ra ngày 15/05/2006 đề cập tới vai
trò của tiền lương cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp đối với việc trả lương
cho người lao động.
Hoàng Long (2007) với bài viết “Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp – Động
lực cho sự phát triển” đăng trên Báo Thương Mại số 26/2007 thì chứng minh tầm
quan trọng của CSR trong doanh nghiệp tới sự phát triển xã hội.
Hồng Minh (2007) trong bài viết mang tiêu đề “Trách nhiệm xã hội và đạo
đức doanh nghiệp” trên Báo Văn hoá và đời sống xã hội, số 2/2007 thì tập trung
nghiên cứu mối quan hệ giữa phạm trù đạo đức với trách nhiệm xã hội trong doanh
nghiệp.
Nguyễn Ngọc Thắng (2015) trong cuốn sách Trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đưa ra cơ cở lý luận về trách nhiệm xã hội, cung cấp dẫn chứng việc áp
dụng trách nhiệm xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp trên thế
giới.
Viết về trách nhiệm xã hội trong kinh doanh khách sạn có tác giả Nguyễn
Thị Hồng Ngọc. Trong luận văn thạc sĩ của mình với đề tài “Trách nhiệm xã hội
trong kinh doanh khách sạn tại Việt Nam - Nghiên cứu trường hợp tại các khách
sạn Sofitel Legend Metropole và Sofitel Plaza Hà Nội” tác giả tập trung đề cập
đến một số vấn đề cơ bản về trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp, trách nhiệm xã
hội trong kinh doanh khách sạn, thực trạng về thực hiện trách nhiệm xã hội tại
khách sạn Sofitel Legend Metropole Hà Nội và khách sạn Sofitel Plaza Hà Nội.
Tài liệu viết về marketing du lịch cũng rất nhiều với các tác giả như
PGS.TS Nguyễn Văn Mạnh &TS. Nguyễn Đình Hòa, TS. Hà Nam Khánh Giao,
TS. Bùi Thị Tám. Các tác giả này chủ yếu đề cập đến các đặc điểm của marketing
12
dịch vụ, hành vi của người tiêu dùng, cung cấp cơ sở lý luận về áp dụng marketing
mix trong doanh nghiệp du lịch. Nhưng marketing trong kinh doanh khách sạn thì
chưa được nghiên cứu chuyên sâu.
TS. Hà Văn Siêu trong báo cáo tổng hợp Nghiên cứu về du lịch có trách
nhiệm ở Việt Nam năm 2014 tập trung xây dựng cơ sở lý luận về du lịch có trách
nhiệm, thực trạng hoạt động du lịch có trách nhiệm ở Việt Nam và đề xuất giải
pháp.
Ở nước ngoài cũng có một số tác giả nghiên cứu về marketing bền vững và trách
nhiệm xã hội như:
Adarsh Batra (2006) trong cuốn Marketing du lịch vì sự phát triển bền vững
(Tourism marketing for sustainable development) chủ yếu đề cập đến marketing du lịch
hướng đến phát triển bền vững như thế nào.
Kuberudu & V.s.d Himabindu trong bài nghiên cứu Marketing và trách nhiệm xã
hội -Marketing and socially responsible thì phân tích mối quan hệ giữa marketing và
trách nhiệm xã hội.
Kotler & Armstrong (2014) trong chương 14:Marketing bền vững của cuốn
Nguyên tắc tiếp thị (Principles of Marketing) chủ yếu đề cập đến việc định hướng khách
hàng, xác định người tiêu dùng xanh và việc vận dụng trách nhiệm xã hội trong hoạt
động marketing bền vững.
Có thể thấy rằng, các cuốn sách, báo, tạp chí cũng như bài nghiên cứu về
marketing, hoạt động trách nhiệm xã hội tại các doanh nghiệp cũng như các khách sạn, về
du lịch trách nhiệm ở trong nước và quốc tế nhiều. Tuy nhiên, chưa có công trình nào
nghiên cứu marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh doanh khách sạn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này tác giả sử dụng 2 nhóm phương pháp nghiên cứu chính.
Đó là phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng.
Với nhóm phương pháp nghiên cứu định tính, tác giả sử dụng phương pháp
phân tích, tổng hợp dữ liệu thứ cấp và phương pháp khảo sát thực tế:
13
- Phương pháp khảo sát thực tế tại hai khách sạn do tập đoàn
Intercontinental Hotel Group quản lý tại Hà Nội: khách sạn Crowne Plaza West
Hanoi và khách sạn Intercontinental Hanoi Westlake.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp số liệu thứ cấp: Các thông tin về marketing du
lịch có trách nhiệm được thu thập từ các công trình nghiên cứu, giảng dạy như giáo trình,
bài báo của các tác giả trong và ngoài nước. Đây là cơ sở để tác giả hệ thống được cơ sở lý
luận cũng như thực tế về marketing du lịch có trách nhiệm.
Với nhóm phương pháp nghiên cứu định lượng, tác giả sử dụng hai phương
pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Trong phương pháp này, tác giả tiến
hành điều tra, lấy ý kiến đánh giá của 50 khách đối với mỗi khách sạn về các vấn
đề liên quan đến hoạt động marketing có trách nhiệm củakhách sạnđể có thể đánh
giá được hiện trạng thực hiện marketing du lịch có trách nhiệm của hai khách sạn
Crowne Plaza West Hanoi và Intercontinental Hanoi Westlake.
- Phương pháp thống kê và xử lý số liệu: Sau khi điều tra, lấy ý kiến đánh
giá của 50 khách đang lưu trú tại mỗi khách sạn, tác giả tiến hành việc tổng hợp và
xử lý số liệu trên excel. Trên cơ sở đó đánh giá thực trạng việc thực hành
marketing du lịch có trách nhiệm tại hai khách sạn tác giả nghiên cứu.
6. Những đóng góp của đề tài
a) Ý nghĩa khoa học: Góp phần hệ thống hóa lý thuyết về marketing du lịch
có trách nhiệm
b) Ý nghĩa thực tiễn:
+ Làm rõ thực trạng hoạt động marketing có trách nhiệm trong các khách sạn do
tập đoàn IHG quản lý tại Hà Nội
+ Rút ra bài học kinh nghiệm từ việc thực hiện marketing có trách nhiệm trong các
doanh nghiệp kinh doanh khách sạn
+ Giúp cho doanh nghiệp kinh doanh khách sạn có những định hướng, chính
sách, chiến lược trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình nhằm phát triển bền
vững.
14
+ Có thêm nguồn tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp kinh doanh khách sạn ở
Việt Nam trong việc thực hiện marketing có trách nhiệm.
7. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, phụ lục và tài liệu tham
khảo, bố cục luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về marketing du lịch có
trách nhiệm trong kinh doanh khách sạn.
Chương 2: Thực trạng hoạt động marketing du lịch có trách nhiệm trong
các khách sạn do tập đoàn Intercontinental Hotel Group quản lý tại Hà Nội.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động marketing
du lịch có trách nhiệm tại các khách sạn do tập đoàn IHG quản lý ở Hà Nội.
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ
MARKETING DU LỊCH CÓ TRÁCH NHIỆM TRONG KINH DOANH
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Marketing
Theo một số tài liệu thì thuật ngữ Marketing xuất hiện lần đầu tiên tại Mỹ vào đầu
thế kỷ 20 và được đưa vào Từ điển tiếng Anh năm 1944. Xét về mặt cấu trúc, thuật ngữ
Marketing gồm gốc "market" có nghĩa là "cái chợ" hay "thị trường" và hậu tố "ing" diễn
đạt sự vận động và quá trình đang diễn ra của thị trường.
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về Marketing.
William J. Stanton trong cuốn Fundamentals of Marketing cho rằng Marketing là
toàn bộ hệ thống hoạt động kinh tế trong điều kiện nhất định, phản ánh chương trình sản
xuất, lưu chuyển hàng hoá, giá cả hay sự biến động của giá cả. Phân phối sản phẩm và dịch
vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng hiện tại của khách hàng.
Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, Marketing là quá trình lên kế hoạch và tạo
dựng mô hình sản phẩm (concept), hệ thống phân phối, giá cả và các chiến dịch
promotion nhằm tạo ra những sản phẩm hoặc dịch vụ (exchanges/marketing offerings) có
khả năng thỏa mãn nhu cầu các cá nhân hoặc tổ chức nhất định.
15
Nhưng có lẽ được sử dụng nhiều hơn cả là định nghĩa Marketing của Philip
Kotler. Philip Kotler là một giáo sư nổi tiếng về Marketing, được xem là cha đẻ của
marketing hiện đại. Ông cũng là người đi tiên phong trong việc phổ biến khái
niệm "marketing xã hội" (social marketing) và "trách nhiệm xã hội của marketing" -
Những tư tưởng này có ảnh hưởng rất sâu rộng đến giới kinh doanh trên toàn thế giới
trong suốt nhiều thập niên. Trong cuốn The Principal of Marketing, ông định nghĩa
Marketing như sau:
“Marketing là quá trình tạo dựng các giá trị từ khách hàng và mối quan hệ thân
thiết với khách hàng nhằm mục đích thu về giá trị lợi ích cho doanh nghiệp, tổ chức từ
những giá trị đã được tạo ra là một quá trình quản lý mang tính chất xã hội nhờ đó mà các
cá nhân và tập thể có được những gì họ cần và mong muốn, thông qua việc tạo ra, chào
bán và trao đổi những sản phẩm có giá trị với người khác. [20]
1.1.2. Marketing trách nhiệm xã hội
Marketing trách nhiệm xã hội là một chiến lược marketing được xây dựng
nhằm mục đích thu được lợi nhuận kinh doanh thông qua sự hợp tác với các tổ
chức từ thiện và cộng đồng, liên quan đến những vấn đề như xã hội, pháp lý, đạo
đức và môi trường. Marketing trách nhiệm xã hội đòi hỏi các nhà tiếp thị phải cân
bằng lợi nhuận, sự hài lòng của khách hàng và các lợi ích xã hội trong việc đánh
giá hiệu quả kinh doanh của công ty họ.
Marketing trách nhiệm xã hội (Socially responsible marketing) phản đối
chủ nghĩa tiêu dùng quá mức ảnh hưởng đến môi trường của các tập đoàn.
Marketing trách nhiệm xã hội được dựa trên quan điểm cho rằng những sản phẩm
và dịch vụ cung cấp ra thị trường phải không chỉ hướng đến lợi nhuận mà còn phải
củng cố các giá trị xã hội và đạo đức vì lợi ích của người dân, của cộng đồng.
Khái niệm Marketingtrách nhiệm xã hội đôi khi được xem như là một phần mở
rộng của khái niệm Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR). CSR được quảng bá
như một mô hình kinh doanh giúp các công ty tự điều chỉnh, nhận ra rằng những hoạt
động của họ tác động mạnh tới các bên tham gia bao gồm cả cộng đồng. CSR đôi khi
được mô tả dưới dạng kim tự tháp, bắt đầu với kinh tế là nền tảng cơ bản của nó, sau đó
Comment [T1]: Em nên đưa ra một khái niệm cụ
thể về marketing có trách nhiệm xã hội
16
là pháp luật, hành động đạo đức và trên cùng là từ thiện. Trong hai lớp cuối cùng của
CSR- đạo đức và từ thiện, cơ hội để tiếp thị trách nhiệm xã hội xuất hiện là lớn nhất. Hai
lớp đầu tiên – kinh tế và pháp luật là điều kiện cần cho một doanh nghiệp phát triển mạnh
để thực hiện được hai lớp trên cùng. [35]
17
Hình 1.1. Mô hình kim tự tháp TNXH của Archie Carroll
(Nguồn:
Trách nhiệm xã hội trong hoạt động marketing thường được nói đến vấn đề
đạo đức. Sự khác nhau giữa hai điều này là những gì được cho là đạo đức trong
kinh doanh. Xã hội và cá nhân có thể không giống nhau- cũng không phải mọi
hành động của doanh nghiệp nhất thiết phải là trách nhiệm xã hội để được xem là
đạo đức. Một số quan điểm về hành vi trách nhiệm xã hội tán thành rằng hoạt
động marketing không chỉ đơn giản là đáp ứng được các hướng dẫn đạo đức tối
thiểu của doanh nghiệp mà còn vượt quá chúng một cách chủ động và tự giác.
Marketing trách nhiệm xã hội nổi lên như một câu trả lời cho nghi vấn rằng
hoạt động marketing có ảnh hưởng xấu đến xã hội. Những lời chỉ trích mà một
hoạt động markting nhận được thường như sau:
1) Các chiến lược marketing nhìn chung hướng tới những giá trị cao. Do độ
lớn của các chuỗi trung gian trong hoạt động marketing, việc phân phối các mặt
hàng đến người tiêu dùng mất rất nhiều chi phí. Kết quả là các cá nhân phải trả số
tiền bảo hiểm cao hơn cho hàng hóa và dịch vụ mà họ nhận.
THÁP TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI
Trách nhiệm TỪ THIỆN
Là một doanh nghiệp tốt
Cống hiến các nguồn lực cho cộng đồng,
nâng cao chất lượng cuộc sống
Trách nhiệm ĐẠO ĐỨC
Có đạo đức
Có trách nhiệm thực hiện những gì là đúng, công bằng và
không gian lận, tránh làm thiệt hại
Trách nhiệm PHÁP LÝ
Tuân thủ luật phápLuật là sự chứng nhận của xã hội về đúng hoặc
sai, tuân thủ đúng quy định
Trách nhiệm KINH TẾ
Thu được lợi nhuận
Dựa trên lợi ich của tất cả mọi người
18
2) Hiện nay marketing chủ yếu dựa vào quảng cáo và xúc tiến. Đề cân đối
các chi phí, các công ty tính giá cao hơn bằng cách cộng thêm vào giá bán.
3) Sự khác biệt sản phẩm là một trong những công cụ marketing phổ biến
nhất. Nhưng điều này không những tạo ra giá trị tâm lý giả gắn với các thương
hiệu có giá cao hơn mà còn gây nên các quan ngại về môi trường. Như vậy,
marketing có trách nhiệm phản đối tất cả các hành vi lừa đảo trong hoạt động tiếp
thị, xúc tiến và đóng gói. Thậm chí chúng có thể cơ bản là hợp pháp.
1.1.3. Green Marketing
Thuật ngữ Green marketing xuất hiện vào cuối những năm 1980. Thuật ngữ
này mô tả những nỗ lực của các tổ chức trong việc thiết kế, xúc tiến, giá cả và
phân phối sản phẩm mà sẽ không gây tổn hại đến môi trường. Nó được định nghĩa
là quá trình quản lý có trách nhiệm xác định, dự báo và thỏa mãn yêu cầu của
khách hàng và xã hội nhằm thu được lợi nhuận theo hướng bền vững.
Green marketing là tiếp thị các sản phẩm an toàn với môi trường. Do đó,
green marketing bao gồm nhiều phần việc như cải tiến sản phẩm, thay đổi quy
trình sản xuất, thay đổi bao bì cũng như thay đổi quảng cáo.
Tuy nhiên, xác định green marketing không hề đơn giản khi mà có rất nhiều
quan điểm khác nhau về nó. Mỗi tác giả lại có những cách giải thích về green
marketing khác nhau. Theo Hiệp hội Marketing Hoa Kỳ, có 3 cách để mô tả green
marketing:
Thứ nhất, marketing trong hoạt động bán lẻ: green marketing là tiếp thị
những sản phẩm được xem là an toàn với môi trường.
Thứ hai, Marketing xã hội (socially marketing): Green marketing là phát
triển và tiếp thị những sản phẩm được thiết kế nhằm giảm thiểu các tiêu cực tới
môi trường hoặc cải thiện chất lượng môi trường.
Thứ ba, định nghĩa trên quan điểm môi trường: các tổ chức nỗ lực để sản
xuất, xúc tiến và cải tiến những sản phẩm theo hướng đáp ứng các yêu cầu về
sinh thái.
19
MARKETING
TRUYỀN THỐNG
GREEN
MARKETING
Doanh nghiệp và khách hàng
Doanh ngiệp, khách
hàng và môi trường
- Sự thỏa mãn của khách
hàng
- Thoả mãn các mục
tiêu của doanh nghiệp
- Sự thỏa mãn của khách
hàng
- Thòa mãn các mục tiêu
của doanh nghiệp
- Giảm thiểu gây ra các
tác động sinh thái
Thực hiện trách nhiệm kinh tế
Thực hiện trách nhiệm
xã hội
Từ sản xuất đến sử dụng sản
phẩm
Toàn bộ chuỗi giá trị sản
phẩm từ thu nhập
nguyên liệu đến hậu tiêu
thụ
Những yêu cầu pháp lý
Vượt xa khỏi luật pháp:
thiết kế vì môi trường
Thái độ đối đầu hoặc thụ động
Mối quan hệ mở và hợp
tác
Hình 1.2. Khác biệt giữa marketing truyền thống và green marketing
(Nguồn: Chamorro and Bañegil (2006), p. 13)
Những khách sạn đang cố gắng để thu hút người tiêu dùng xanh nên thực
hiện các mục tiêu marketing nhắm tới hình tượng xanh một cách thiết thực và giàu
cảm xúc. Việc nhận diện khách hàng xanh có thể là một thách thức đối với các
Các bên tham gia giao
dịch
Trách nhiệm của
doanh nghiệpnghiệp
Nhu cầu sinh thái
Mục tiêu
Đưa ra quyết định
marketing
Nhóm gây áp lực xanh
20
khách sạn. Khách hàng xanh có xu hướng lo lắng cho người khác nhiều hơn và có
xu hướng làm việc vì lợi ích của xã hội cao hơn so với những người tiêu dùng
khác. Người tiêu dùng xanh cũng đặt giá trị cao hơn trong việc kiềm chế các hành
vi có thể làm phá vỡ hoặc gây tổn hại cho người khách và vi phạm các chuẩn mực
xã hội. Những khách sạn phát triển chiến lược đầu tư xanh nhắm tới đối tượng
người tiêu dùng xanh cần xây dựng hình ảnh cả về mặt chức năng và cảm xúc.Ví
dụ như khách hàng xanh tìm kiếm những hình ảnh chức năng, xác thực như một
chương trình tái chế hoặc chứng chỉ LEED (Leadership in Energy and
Environmental Design – giấy chứng nhận cho các công trình xanh).
Họ cũng tìm kiếm những hành động minh họa cho sự cam kết của khách
sạn đối với môi trường chẳng hạn như những món ăn trong thực đơn sử dụng
những thực phẩm được cung cấp bởi người dân địa phương.
Tiếp thị của một khách sạn với tư cách là khách sạn “xanh” hay “bền vững”
nổi lên trong những năm gần đây như một thành phần quan trọng của công tác xúc
tiến được sử dụng bởi ngành lưu trú. Lý do rất đơn giản. Cả khách thương gia và
khách du lịch thuần túy đều đang ngày càng tìm kiếm những nơi ở mà bảo vệ môi
trường và tốt cho sức khỏe của họ. [21,tr.79-88][15,tr42-46]
1.1.4. Marketing du lịch
Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp. Sản phẩm du lịch mang tính tổng
hợp cao. Vì vậy ngành du lịch cũng bao gồm tất cả các khái niệm, phạm trù về
marketing và các ngành khác đang sử dụng thành công trên thị trường. Marketing
du lịch có nghĩa là vận dụng lý thuyết marketing vào trong hoạt động kinh doanh
du lịch. Và vì vậy, marketing du lịch cũng bao gồm và tuân thủ các nguyên tắc
chung, các nội dung cơ bản của marketing.
Theo tổ chức du lịch thế giới (UNWTO): “Marketing du lịch là một triết lý
quản trị mà nhờ đó tổ chức du lịch nghiên cứu, dự đoán và lựa chọn dựa trên mong
muốn của du khách để từ đó đem sản phẩm ra thị trường sao cho phù hợp với
mong muốn của thị trường mục tiêu, thu nhiều lợi nhuận cho tổ chức du lịch đó”.
21
Theo Michael Cotlman: “ Marketing du lịch là một hệ thống những nghiên
cứu và lập kế hoạch nhằm tạo lập cho tổ chức du lịch một triết lý quản trị hoàn
chỉnh với các chiến lược và chiến thuật thích hợp để đạt được được mục đích”.
Theo Robert Lanquar và Robert Hollier: “Marketing du lịch là một loạt
phương pháp và kĩ thuật được hỗ trợ bằng một tinh thần đặc biệt và nhằm thỏa
mãn các nhu cầu không nói ra hoặc nói ra của khách hàng, có thể là mục đích tiêu
khiển hoặc những mục đích khác bao gồm công việc gia đình, công tác và họp
hành”.
Từ các định nghĩa trên, marketing có thể được hiểu như sau: Marketing là
chức năng quản trị của doanh nghiệp, nó bao gồm tất cả các hoạt động của doanh
nghiệp đêu phải hướng vào mong muốn của thị trường mục tiêu, đảm bảo rằng
doanh nghiệp đưa ra thị trường loại sản phẩm tốt hơn và sớm hơn sản phẩm cùng
loại của đối thủ cạnh tranh để đạt được mục đích của doanh nghiệp. Marketing là
công việc của tất cả mọi người trong doanh nghiệp trong đó bộ phận marketing
đóng vai trò then chốt. ”[12, tr. 26-30]
1.1.5. Marketing du lịch có trách nhiệm
Marketing trong du lịch thường được các doanh nghiệp sử dụng chiến lược
marketing mix với “4Ps”. Và trong marketing du lịch có trách nhiệm cũng áp dụng chiến
lược 4Ps này:
• Product - Sản phẩm: Sự kết hợp giữa hàng hóa và dịch vụ mang lại cho du khách
những trải nghiệm, gồm tiện nghi và trang thiết bị đạt tiêu chuẩn, mức dịch vụ và chất
lượng thuyết minh sản phẩm. Một sản phẩm được gọi phẩm du lịch bền vững hay có
trách nhiệm là những sản phẩm bền vững trong tự nhiên, gần gũi và thân thiện với môi
trường. Trong quá trình phát triển sản phẩm loại bỏ những sản phẩm không bền vững ra
khỏi hệ thống sản phẩm của doanh nghiệp.
• Price - Giá cả: Chi phí khách du lịch phải thanh toán tại các điểm khác nhau
trong chuỗi phân phối, bao gồm giá khách phải trả khi mua trực tiếp, hoa hồng và giá
thực tế dành cho đơn vị trung gian, giá cho trẻ em, người già, và cả những chính sách về
điều kiện đặt, hoàn trả và hủy hoãn. Để phát triển bền vững thì giá mà du khách phải trả
22
phải bao gồm toàn bộ chi phí cho kỳ nghỉ của họ. Các chi phí phải đủ cao để đảm bảo du
khách thỏa mãn với những trải nghiệm mình đạt được, mang lại lợi nhuận cho doanh
nghiệp, mang lại lợi ích cho cộng đồng địa phươngvv.
• Place - Địa điểm: Nơi mà sản phẩm được bày bán, thông qua những kênh phân
phối khác nhau như các đại lý bán buôn, bán lẻ, và các công ty điều hành du lịch. Các
kênh phân phối cần đảm bảo rằng cách họ bán một sản phẩm là đạo đức và không làm
tăng kỳ vọng không thực tế trong tâm trí của khách du lịch.
• Promotion: Kênh giao tiếp kết nối giữa người bán và người mua với mục đích
gây ảnh hưởng, đưa ra thông báo hoặc thuyết phục khách hàng tiềm năng khi họ quyết
định mua một sản phẩm. Xúc tiến bền vững cần phải phản ánh cách thức mà một trang
web du lịch được đẩy mạnh và được quảng cáo, khuyến mãi và phải phản ánh chính xác
những đặc điểm độc đáo của khu vực để không gây ra sự thất vọng và thất vọng khách du
lịch. Tổ chức du lịch và các điểm đến cũng có thể sử dụng tài liệu và quảng cáo để nâng
cao nhận thức du lịch về các vấn đề quan trọng liên quan đến phát triển bền vững. Họ có
thể thực hiện 'tiếp thị xanh "và truyền thông trong việc giải thích các thông tin và giải
thích bản chất của sự hấp dẫn / tài nguyên và ý nghĩa của nó, ví dụ, bằng cách thúc đẩy
du lịch' mềm 'giảm thiểu bất lợi về môi trường và văn hóa cũng như thông báo khách du
lịch trong những tác động của sự hiện diện của họ.[16]
Áp dụng Marketing có trách nhiệm dựa trên nguyên tắc các sản phẩm và dịch vụ
du lịch không chỉ được tạo ra vì mục tiêu lợi nhuận mà phải đem đến những giá trị về mặt
xã hội và môi trường vì lợi ích của cộng đồng nói chung.
Như vậy, marketing du lịch có trách nhiệm có thể được hiểu là quá trình truyền đạt
thông điệp về những ví dụ thực tiễn bền vững trong du lịch với mục tiêu giáo dục và nâng
cao ý thức của cộng đồng về tác động của du lịch và lợi ích của những thay đổi tích cực
cũng như áp dụng những nguyên tắc bền vững đối với chính hoạt động marketing.
Khi thực hành marketing du lịch có trách nhiệm, các doanh nghiệp du lịch trong
đó có các khách sạn cũng cần phải thể hiện tính trách nhiệm của mình một cách tổng thể
và toàn diện ở các khía cạnh sản phẩm, giá cả, kênh phân phối và xúc tiến. Tuy nhiên, do
quy mô cũng như thời gian hạn chế nên trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả xin tập
23
trung nghiên cưu tính trách nhiệm trong hoạt động xúc tiến của các khách sạn do tập
đoàn IHG quản lý ở Hà Nội mà thôi.
1.2. Marketing du lịch có trách nhiệm trong kinh doanh
1.2.1. Lợi ích của việc thực hành marketing du lịch có trách nhiệm
Các cuộc khảo sát do các doanh nghiệp thương mại du lịch và các nhà phân tích
nghiên cứu độc lập cho thấy, hiện nay nhu cầu về những cơ sở lưu trú thân thiện với
môi trường là rất lớn. Theo khảo sát của tạp chí Conde Naste Traveller về khách du lịch
nghỉ dưỡng đã chỉ ra rằng 87% khách du lịch tin rằng khách sạn thân thiện với môi
trường là quan trọng; 75% khách du lịch chịu ảnh hưởng của chính sách về môi trường
của khách sạn, khi quyết định lựa chọn khách sạn.
Một khảo sát khác do Công ty tư vấn Deloitte Consulting về khách du lịch thương
nhân cũng cho thấy rằng 90% khách du lịch thương nhân tìm kiếm khách sạn xanh khi
họ đi công tác; 38% khách du lịch thương nhân có các bước để quyết định xem một
khách sạn có xanh hay không; 40% khách du lịch thương nhân sẵn sàng chi trả cao hơn
cho cơ sở lưu trú xanh. [36]
Như vậy có thể thấy rằng du lịch bền vững đang ngày càng được quan tâm hơn.
Nhận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02050004618_2317_2006140.pdf