MỤC LỤC
Lời cảm ơn . i
Danh mục các kí hiệu, các chữ viết tắt.ii
Danh mục các bảng . v
Danh mục các biểu đồ.vii
MỞ ĐẦU . 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC VẤN
ĐỀ SKTT VÀ BNTT. 6
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về BNTT. 6
1.1.1. Các nghiên cứu về BNTT trên thế giới. 6
1.1.2. Các nghiên cứu về bắt nạt ở Việt Nam . 16
1.2. Các khái niệm liên quan . 20
1.2.1. Bắt nạt trực tuyến . 20
1.2.2. Vấn đề sức khỏe tâm thần . 25
1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT. 35
1.3.1. Đặc điểm sinh lý. 35
1.3.2. Đặc điểm đời sống tình cảm. 36
1.3.3. Đặc điểm nhận thức . 36
CHƢƠNG 2. TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 37
2.1. Tổ chức nghiên cứu. 37
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu. 37
2.1.2. Đặc điểm khách thể nghiên cứu. 37
2.2. Quy trình nghiên cứu. 38
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu. 38
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận. 38
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi. 39
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu. 41
105 trang |
Chia sẻ: Thành Đồng | Ngày: 06/09/2024 | Lượt xem: 70 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Mối liên hệ giữa các vấn đề sức khỏe tâm thần và bắt nạt trực tuyến ở học sinh Trung học Phổ thông tại Thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng cụ học tập như bút, sách, vở bài tập, ví, chìa khóa, kính
mắt, điện thoại di động hay các dụng cụ khác).
8. Thường dễ bị sao nhãng bởi các kích thích bên ngoài.
9. Thường quên các hoạt động hàng ngày như làm việc vặt trong nhà
hoặc nơi làm việc, đối với trẻ VTN và người trưởng thành như gọi điện
lại, trả hóa đơn, giữ đúng hẹn [25].
1.3. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh THPT
Học sinh THPT nằm trong độ tuổi từ 14-18 tuổi, là độ tuổi đầu thanh
niên. Ở độ tuổi này, các em tiếp tục sự phát triển đồng thời về cả thể chất và
tâm lý nhưng ở một mức độ hoàn thiện, trưởng thành hơn, đem đến cho các
em những đặc trưng mới so với giai đoạn trước đó.
1.3.1. Đặc điểm sinh lý
Ở tuổi đầu thanh niên, học sinh đạt được sự trưởng thành về mặt cơ thể
tuy còn chưa thể hoàn chỉnh như một người lớn. Ở các em học sinh không còn
sự phát triển dữ dội mất cân đối như lứa tuổi trước, thay vào đó là sự phát
triển tương đối êm ả, cân đối về mặt thể chất. Đa số học sinh đã kết thúc tuổi
dậy thì, những dấu hiệu của giới tính được phát triển làm cho bề ngoài của
nam và nữ thay đổi một cách rõ rệt [19].
36
Các em ở tuổi học sinh THPT đã đạt đến mức trưởng thành về mặt cơ
thể, và sự hoàn thiện về mặt cơ thể như vậy có ảnh hưởng đến sự phát triển
tâm lý ở các em mà trước hết đó là sự nẩy sinh cảm nhận về “tính chất người
lớn” của bản thân. Các em luôn hướng tới các giá trị của người lớn, so sánh
mình với người lớn.Các em cũng luôn mong muốn được tự lập, tự chủ trong
giải quyết các vấn đề của riêng mình.Tuy nhiên bản thân các em cũng tự ý
thức được rằng mình vẫn chưa đủ khả năng như một người lớn thực sự. Mâu
thuẫn này đã tạo ra những thay đổi lớn trong tình cảm của lứa tuổi thanh
niên[19].
1.3.2. Đặc điểm đời sống tình cảm:
Ở lứa tuổi này, tình cảm phát triển mạnh như: tình cảm trách nhiệm,
tình bạn thân thiết, tình yêu và tính hài hước [19]. Cũng giống như độ tuổi
thiếu niên, ở học sinh THPT, tình bạn và tình yêu là là hai loại tình cảm quan
trọng và ảnh hưởng nhiều đến đời sống tâm lý của các em.
Tình cảm, cảm xúc của học sinh THPT còn bồng bột, dễ bị kích động
bởi các yếu tố bên ngoài. Các em sẵn sàng có những hành vi bảo vệ cho các
mối quan hệ có ý nghĩa đối với bản thân, kể cả việc dùng những hành động,
lời nói không phù hợp.
Ở lứa tuổi đầu thanh niên cũng phát triển các loại tình cảm: tình cảm
đạo đức, tình cảm trí tuệ, tình cảm thẩm mỹ và đặc biệt là tình cảm hoạt động
– loại tình cảm đặc trưng của lứa tuổi này.
1.3.3. Đặc điểm nhận thức:
Tính độc lập, chủ động, sáng tạo trong nhận thức là đặc trưng tâm lý
của học sinh THPT [13]. Các quá trình nhận thức phát triển theo chiều hướng
thành phần chủ định ngày càng chiếm ưu thế, óc quan sát phát triển mạnh.
Các em dễ dàng học hỏi, tiếp thu những cái mới như việc tiếp cận với
sự phát triển của công nghệ thông tin, sử dụng công nghệ cho việc học tập,
vui chơi, liên lạc. Tuy nhiên việc lạm dụng hoặc sử dụng công nghệ với
những mục đích không tốt có thể dẫn đến những hành vi không phù hợp.
37
CHƢƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Tổ chức nghiên cứu
2.1.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành tại hai trường THPT trên địa bàn thành phố
Đà Nẵng được lựa chọn theo nguyên tắc chọn mẫu tiện lợi: trường THPT
Nguyễn Trãi (công lập), trường THPT Herman Gmeiner (dân lập).
Trường THPT Nguyễn Trãi nằm trên địa bàn phường Hòa Khánh Bắc,
quận Liên Chiểu, thành phố Đà Nẵng với quy mô gần 1800 học sinh. Tuy
nằm ở khu vực ven đô nhưng đây là một trường có chất lượng đào tạo thuộc
top 5 thành phố, được đánh giá là trường chuẩn quốc gia với cơ sở vật chất
được đầu tư khang trang, đầy đủ.
Trường Phổ thông Hermann Gmeiner nằm trên địa bàn quận Ngũ Hành
Sơn, thành phố Đà Nẵng là một trong những dự án SOS do Chính phủ Việt
Nam thoả thuận với tổ chức SOS Quốc tế mở ra. Trường có cả 3 bậc học, ưu
tiên thu nhận, dạy dỗ trẻ mồ côi ở Làng trẻ em SOS Đà Nẵng ; trẻ có hoàn
cảnh gia đình khó khăn, học giỏi ở tỉnh Quảng Nam và trẻ ở địa phương nơi
trường đóng, tạo điều kiện cho trẻ mồ côi và trẻ nghèo hoà nhập cộng đồng.
Trường bắt đầu hoạt động từ năm học 1996-1997 và cho đến nay đã thu nhận
hơn 15.000 lượt học sinh vào học.
2.1.2. Đặc điểm khách thể nghiên cứu
Nghiên cứu này đã chọn mẫu khách thể là 500 học sinh THPT trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng thuộc các khối lớp 10, lớp 11 và lớp 12.
38
Bảng 2.1. Đặc điểm khách thể nghiên cứu
Đặc điểm
Số lƣợng
học sinh
Tỉ lệ
(%)
Trường
THPT Nguyễn Trãi 351 70.2
THPT Herman Gmeiner 149 29.8
Lớp
10 156 31.3
11 173 34.7
12 169 33.9
Giới tính
Nam 219 43.8
Nữ 281 56.2
2.2. Quy trình nghiên cứu
Nghiên cứu được tổ chức theo 7 giai đoạn gồm:
(1) Xây dựng cơ sở lý luận;
(2) Thiết kế công cụ điều tra;
(3) Điều tra thử trên 3 học sinh để xem các câu trong bảng khảo sát có
khó hiểu, tối nghĩa hoặc đa nghĩa hay không và thực hiện những chỉnh sửa
cần thiết trước khi sử dụng thang đo khảo sát trên diện rộng;
(4) Điều tra chính thức;
(5) Nhập liệu và kiểm tra số liệu: sau khi nhập số liệu điều tra, chúng
tôi tiến hành kiểm tra lại số liệu đã nhập của 100 phiếu (20%), các phiếu được
lựa chọn ngẫu nhiên bằng trang web www.random.org
(6) Xử lý số liệu;
(7) Phân tích dữ liệu thu thập được và viết báo cáo kết quả nghiên cứu.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Từ nguồn tài liệu chủ yếu là sách, giáo trình, tạp chí và báo cáo khoa
học, chúng tôi đã thu thập được những thông tin về:
- Cơ sở lý thuyết liên quan đến bắt nạt trực tuyến, sức khỏe tâm thần.
39
- Kết quả nghiên cứu của các tác giả đã công bố trên các ấn phẩm khoa học.
Trên cơ sở đó, chúng tôi đã tiến hành phân tích, tổng hợp tài liệu và xây
dựng nên cơ sở lí luận của đề tài. Trong đó, chúng tôi trình bày tổng quan các
nghiên cứu về bắt nạt trực tuyến, những vấn đề sức khỏe tâm thần, những đặc
điểm tâm sinh lý của học sinh lứa tuổi THPT.
2.3.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chúng tôi tiến hành xây dựng bảng hỏi và điều tra thử trên 3 học sinh.
Sau khi điều tra thử, chúng tôi chỉnh sửa lại bảng hỏi để phù hợp hơn và
xuống trường phát phiếu khảo sát trên diện rộng.
Chúng tôi cũng đã tham khảo các thang đo và nhận thấy Thang đo về bắt
nạt và bị bắt nạt trực tuyến (Cyber victim and bullying scale) (Bayram Cetin,
2011) và thang đo BASC-2 SPR-A: hệ thống đánh giá hành vi trẻ em, phiên
bản 2 (Behavior Assessment System for Children, Second Edition) bản tự
thuật về dành cho thanh thiếu niên (12 -21 tuổi) (Self-Report of Personality–
Adolescent) của Reynolds, Randy Kamphaus (2007) phù hợp với mục đích
nghiên cứu nên chúng tôi đã tiến hành Việt hóa, chỉnh sửa để phù hợp với HS
Việt Nam.
Bảng hỏi gồm 3 phần:
Phần 1: Thông tin cá nhân
Chúng tôi tìm hiểu trường, lớp, giới tính để thấy được sự khác nhau về
thực trạng BNTT của HS theo giới tính, trường và khối lớp. Chúng tôi cũng
đưa ra các câu hỏi để khảo sát về thói quen sử dụng internet của các em như
mức độ sử dụng, phương tiện truy cập internet, mục đích sử dụng internet.
Phần 2: Tìm hiểu thực trạng BNTT
Để khảo sát thực trạng bắt nạt trực tuyến, nghiên cứu đã sử dụng
“Thang đo bắt nạt và bị bắt nạt trực tuyến” (Cyber victim and bullying scale)
đã được Việt hóa. Thang đo bao gồm 2 tiểu thang đo dành cho thủ phạm của
BNTT và nạn nhân của BNTT. Thang đo có 22 câu dùng chung cho 2 tiểu
thang đo. Với mỗi tiểu thang đo, khách thể sẽ đánh giá bằng thang Likert với
40
5 mức độ “Không bao giờ”, “Hiếm khi”, “Thỉnh thoảng”, “Thường xuyên”,
“Rất thường xuyên”. Hệ số tin cậy Cronbach‟s Alpha từ kết quả nghiên cứu
của tiểu thang đo dành cho thủ phạm là 0,887 và tiểu thang đo dành cho nạn
nhân là 0,943. Trong kết quả nghiên cứu, chúng tôi sử dụng hai nhóm nhân tố
của thang đo gốc gồm hành vi bắt nạt bằng lời trên mạng (7 item và hành vi
ngụy tạo trên mạng (10 item). Từ kết quả nghiên cứu, hệ số tin cậy của 2 nhân
tố trong tiểu thang đo dành cho thủ phạm lần lượt là 0.859 và 0.773, trong tiểu
thang đo dành cho nạn nhân lần lượt là 0.884 và 0.886.
Phần 3: Tìm hiểu về các vấn đề sức khỏe tâm thần ở HS
Nghiên cứu sử dụng thang đo BASC-2 SPR-A: hệ thống đánh giá hành
vi trẻ em, phiên bản 2 (Behavior Assessment System for Children, Second
Edition) bản tự thuật về dành cho thanh thiếu niên (12 -21 tuổi) (Self-Report
of Personality– Adolescent) của Reynolds, và Randy Kamphaus (2007) đã
được chúng tôi dịch sang tiếng Việt và khảo sát thử để nhận phản hồi của học
sinh về các câu trong trắc nghiệm, chỉnh sửa trước khi điều tra trên diện rộng.
Từ kết quả nghiên cứu, hệ số tin cậy của thang đo này là 0.912.
Trong thang đo BASC có 2 loại đánh giá các item. Loại 1 từ câu 1 đến
câu 69 là câu hỏi có 2 đáp án lựa chọn: đúng = Đ và sai = S; loại 2 từ câu 69
đến câu 176 đánh giá theo 4 mức độ 0 = không bao giờ, 1 = thỉnh thoảng, 2 =
thường xuyên, 3 = luôn luôn. Mười vấn đề hành vi - cảm xúc chúng tôi sử
dụng thuộc SPR-A là:
Social stress - Căng thẳng về mặt xã hội (gồm 10 item)
Anxiety - Lo âu (gồm 13 item).
Depression - Trầm cảm (12 item)
Somatization: Rối loạn dạng cơ thể (gồm 7 item)
Hyperactivity: Tăng động (gồm 7 item)
Attention Problem: Vấn đề tập trung chú ý (gồm 9 item)
Atypicality: Tính bất thường (gồm 9 item)
Locus of control - Khả năng tự kiểm soát (gồm 9 item)
41
Depression - Trầm cảm (12 item)
Self – Esteem – Lòng tự tôn (8 item)
2.3.3. Phương pháp xử lý số liệu
Sau khi thu thập được các số liệu, chúng tôi sử dụng phần mềm SPSS
để xử lí số liệu, cho kết quả nghiên cứu và nhận xét ý nghĩa về mặt thống kê.
Trong phần xử lý số liệu, chúng tôi sử dụng:
- Thống kê mô tả tần suất, tỉ lệ phần trăm, tính điểm trung bình, độ lệch
chuẩn để đưa ra kết quả về thực trạng BNTT, sức khỏe tâm thần ở học sinh
- Phân tích tương quan để thấy được mối liên hệ giữa các vấn đề sức
khỏe tâm thần và BNTT
- Phân tích hồi quy để tìm ra các yếu tố độc lập có ý nghĩa dự báo đối
với BNTT
42
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
VỀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA CÁC VẤN ĐỀ SKTT VÀ BNTT
3.1. Thực trạng tham gia vào BNTT ở học sinh THPT
Chúng tôi thực hiện thống kê mô tả để tìm ra số lượng và tỉ lệ phần
trăm (%) của thủ phạm và nạn nhân BNTT, những em bắt nạt hoặc bị bắt nạt
bởi ít nhất 1 hình thức (thường xuyên trở lên, tức là xác định với điều kiện
chọn ít nhất một lần thường xuyên hoặc rất thường xuyên). Chúng tôi xác
định điều kiện như vậy dựa trên đặc điểm và tính chất của bắt nạt nói chung
và BNTT nói riêng, nạn nhân bị bắt nạt lặp đi lặp lại [49], mức độ “thường
xuyên” hoặc “rất thường xuyên” thể hiện sự lặp đi lặp lại. Do tính lặp đi lặp
lại của hành vi nên chỉ cần bị bắt nạt bởi ít nhất một hình thức cũng đã có thể
có những ảnh hưởng tiêu cực đến nạn nhân.
Từ điều kiện này, chúng tôi xác định được có 10.6% học sinh chỉ là thủ
phạm của BNTT, 6.2% học sinh chỉ là nạn nhân, 8.6% học sinh vừa là thủ phạm
vừa là nạn nhân và 74.6% học sinh không tham gia vào BNTT. Như vậy, tỉ lệ
học sinh có hành vi BNTT là 19.2% và tỉ lệ học sinh bị bắt nạt là 14.8%.
Biểu đồ 3.1. Tỉ lệ học sinh THPT tham gia vào BNTT
43
Thực trạng về tỉ lệ học sinh bị bắt nạt thấp hơn so với các trường học ở khu
vực phía Bắc (24% học sinh là nạn nhân)[2] hay với các quốc gia có trình độ phát
triển và tần suất sử dụng internet cao như Thái Lan (43% khách thể bị làm phiền,
đe dọa trên mạng internet) [33], Mỹ (30% khách thể là nạn nhân) [65], Anh (22%
học sinh đã từng một lần là nạn nhân của BNTT) [72], Canada (23.8% khách thể
là nạn nhân) [59]. Tuy nhiên con số này cũng đã cao hơn một số nước như Đức
(14.1% khách thể là nạn nhân) [66] hay như trong một nghiên cứu trên sinh viên
khuyết tật ở Hoa Kỳ (13.9% khách thể là nạn nhân)[53].
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy một bộ phận học sinh vừa là thủ
phạm cũng vừa là nạn nhân của BNTT. Một số nghiên cứu trên thế giới cũng
đã cho thấy sự xuất hiện của nhóm đối tượng này. Đó là khi học sinh đã từng
bị bắt nạt sau đó trở thành thủ phạm đi bắt nạt người khác và ngược lại [74].
Đối với hình thức bắt nạt bằng lời trên mạng, các hành vi phổ biến nhất
là “Chia sẻ thông tin trên mạng để làm trò đùa” (ĐTB=1.26; ĐLC=0.65),
“Làm người khác xấu hổ trên mạng” (ĐTB=1.19; ĐLC=0.52), “Viết những
bình luận khiêu khích xúc phạm” (ĐTB=1.13; ĐLC=0.47), “Sử dụng những
biểu tượng trên mạng để khiêu khích, làm phiền” (ĐTB=1.12, ĐLC=0.46).
Bảng 3.1. Các hành vi bắt nạt bằng lời trên mạng
STT Các hành vi bắt nạt bằng lời trên mạng
Điểm
trung bình
Độ lệch
chuẩn
1 Chia sẻ những thông tin trên mạng để làm
trò đùa
1.26 0.65
2 Làm người khác xấu hổ trên mạng 1.19 0.52
3 Viết những bình luận khiêu khích, xúc
phạm
1.13 0.47
4 Sử dụng những biểu tượng trên mạng để
khiêu khích, làm phiền
1.12 0.46
5 Chế giễu, nhạo báng trên mạng internet 1.09 0.4
6 Tung tin đồn trên mạng internet 1.08 0.41
7 Sử dụng nickname trên mạng để chế giễu,
quấy rối
1.08 0.38
44
Đối với hành vi ngụy tạo trên mạng, các hành vi phổ biến nhất là “tự ý chia
sẻ video của người khác” (ĐTB=1.79; ĐLC=0.98), “tự ý chia sẻ hình ảnh của
người khác” (ĐTB=1.73; ĐLC=0.98), “sử dụng internet để tuyên truyền vì lợi ích
cá nhân” (ĐTB=1.44; ĐLC=0.87). Có thể ở lứa tuổi học sinh THPT, các em vẫn
chưa ý thức được việc tự ý đăng tải hình ảnh, video của người khác khi chưa có sự
đồng ý hay sử dụng internet như một công cụ vì mục đích cá nhân là một hành vi
ảnh hưởng đến người khác nên các hành vi này chiếm tỉ lệ khá cao. Tuy nhiên
những hành động này có thể gây ra sự khó chịu cho người khác hay thậm chí là
xâm phạm đến quyền riêng tư của họ. Theo như nghiên cứu của Sygkollitou và
cộng sự [26] thì có đến 40% người tham gia không ý thức được rằng họ là thủ
phạm gây ra việc bắt nạt. Tiếp theo là các hành vi như “sử dụng internet để nói
xấu” (ĐTB=1.26; ĐLC=0.6), “sử dụng lời nói xúc phạm trong email, tin nhắn”
(ĐTB=1.16; ĐLC=0.54), “chỉnh sửa hình ảnh để khiêu khích, chế nhạo”
(ĐTB=1.13; ĐLC=0.43), “sử dụng những biểu tượng liên quan đến tình dục khi
nói chuyện trên mạng internet” (ĐTB=1.08; ĐLC=0.4). Thực trạng cho thấy
những học sinh có các hành vi này chỉ chiếm số ít. Tuy nhiên, dù không phải hành
vi phổ biến thì những hành vi này cũng mang tính nguy hiểm, có thể ảnh hưởng
nghiêm trọng đến danh dự, hình ảnh của người bị bắt nạt.
Bảng 3.2. Các hành vi ngụy tạo trên mạng
STT Các hành vi ngụy tạo trên mạng
Điểm
trung
bình
Độ
lệch
chuẩn
1 Tự ý chia sẻ video của người khác 1.79 0.98
2 Tự ý chia sẻ hình ảnh của người khác 1.73 0.98
3 Sử dụng internet để tuyên truyền vì lợi ích cá
nhân
1.44 0.87
4 Sử dụng internet để nói xấu người khác 1.26 0.6
5 Sử dụng lời nói xúc phạm trong email, tin 1.16 0.54
45
nhắn
6 Chỉnh sửa hình ảnh để khiêu khích, chế nhạo
người khác
1.13 0.43
7 Sử dụng những biểu tượng liên quan đến tình
dục khi nó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_moi_lien_he_giua_cac_van_de_suc_khoe_tam_than_va_ba.pdf