Luận văn Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

1. Đặt vấn đề. 1

2. Mục đích của đề tài. 2

Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3

1.1. Hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 3

1.1.1. Khái niệm về hội chứng tiêu chảy 3

1.1.2. Nguyên nhân gây tiêu chảy ở bê nghé 3

1.1.2.1. Nguyên nhân do điều kiện ngoại cảnh 4

1.1.2.2. Nguyên nhân tiêu chảy do thức ăn dinh dưỡng 4

1.1.2.3. Nguyên nhân do vi khuẩn và vi rút 5

1.1.2.4. Nguyên nhân tiêu chảy do rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột6

1.1.2.5. Nguyên nhân do ký sinh trùng 7

1.1.3. Bệnh lý và lâm sàng hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 8

1.1.3.1. Bệnh lý 8

1.1.3.2. Lâm sàng của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 10

1.1.4. Chẩn đoán hội chứng tiêu chảy ở bê nghé 12

1.1.5. Biện pháp điều trị tiêu chảy cho bê nghé 14

1.2. Giun đũa Neoascaris vitulorum và bệnh giun đũa ở bê nghé 19

1.2.1. Đặc điểm sinh học của giun tròn Neoascaris vitulorum 19

1.2.1.1. Đặc điểm hình thái của Neoascaris vitulorum 19

1.2.1.2. Đặc điểm vòng đời của Neoascaris vitulorum 20

1.2.2. Đặc điểm của bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum gây ra ở bê nghé23

1.2.2.1. Cơ chế sinh bệnh 23

1.2.2.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh giun đũa bê nghé 24

1.2.2.3. Biểu hiện lâm sàng và bệnh tích 29

1.2.3. Chẩn đoán bệnh giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé30

1.2.4. Biện pháp phòng trị bệnh 31

Chương 2. ĐỐI TưỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNGVÀ PHưƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng, địa điểm, thời gian nghiên cứu 33

2.1.1. Đối tượng nghiên cứu 33

2.1.2. Địa điểm nghiên cứu 33

2.1.3. Thời gian nghiên cứu 33

2.2. Vật liệu nghiên cứu 33

2.3. Nội dung nghiên cứu 34

2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy 34

ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang

2.3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê, nghé dưới 3 tháng tuổi34

2.3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh34

2.3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorumở chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả trâu bò, bê nghé34

2.3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh trong các điều kiện khác nhau ởngoại cảnh34

2.3.3.3. Xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris

vitulorum trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh.34

2.3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nuốt trứng giun đũa có sức gây bệnh khi bú mẹ.35

2.3.4. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị tiêu chảy do giun đũa gây ra ở bê nghé35

2.4. Phương pháp nghiên cứu 35

2.4.1. Theo dõi các chỉ tiêu về dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé35

2.4.2. Phương pháp xét nghiệm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum35

2.4.3. Phương pháp theo dõi trứng giun Neoascaris vitulorumphát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh36

2.3.4. Phương pháp xác định khả năng tồn tại của trứng giun

đũa bê, nghé ở ngoại cảnh37

2.4.5. Phương pháp xác định sự ô nhiễm trứng Neoascaris

vitulorum ở ngoại cảnh37

2.4.6. Phương pháp xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa

do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ38

2.4.7. Phương pháp điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 38

2.4.8. Phương pháp xử lý số liệu 40

Chương 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 42

3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng tiêu chảy

ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi tại Tuyên Quang42

3.1.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang42

3.1.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi 44

3.1.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt 46

3.1.4. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ 47

3.1.5. Tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo địa hình 49

3.1.6. Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé) 40

3.1.7. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phương thức chăn nuôi trâu 51

bò mẹ

3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng

tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi53

3.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê nghé tiêu

chảy và bê nghé bình thường53

3.2.2. Cường độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum ở bê

nghé tiêu chảy và bê nghé bình thường55

3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun đũa

Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh59

3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh59

3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát

triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh62

3.3.3. Xác định thời gian tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh65

3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ68

3.4. Sử dụng một số phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 72

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 78

1. Kết luận 78

2. Tồn tại và đề nghị 79

2.1. Tồn tại 79

2.2. Đề nghị 79

TÀI LIỆU THAM KHẢO 81

1. Tài liệu tham khảo tiếng việt 81

2. Tài liệu tham khảo tiếng Anh 84

 

pdf106 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3069 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số đặc điểm dịch tễ, vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở tỉnh Tuyên Quang và biện pháp điều trị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phenothiazine 1,5-2,0gam/ngày trong ba ngày hoặc Piperazin 0,2-0,3 gam/kgTT. Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1982) [38]: Piperazin 0,3-0,5 gam/kgTT, Silicofluorat natri liều 0,035g/kgTT chia hai lần trong ngày, tinh dầu giun 30- 60ml, cho uống. Kết hợp giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, ủ phân, bồi dưỡng cho trâu bò mẹ. Phạm Văn Khuê và Phan Lục (1996) [12] cũng sử dụng những hoá dược như trên tẩy giun đũa bê nghé cho kết quả tốt. Vương Đức Chất (1995) [3] tẩy giun đũa cho bê nghé bằng thuốc Piperazin 0,25g/kgTT lúc 15-20 ngày tuổi, Mebendazole 10mg/kgTT đạt kết quả tốt. Phan Lục (1996) [23] đã thử nghiệm ở Mê Linh, Phong Châu (Vĩnh Phú), Kim Bảng (Nam Hà), Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Sóc Sơn (Hà Nội) dùng Benzimidazole liều 7,6 - 9mg/kgTT, tẩy cho 73 bê nhiễm Neoascaris vitulorum, kết quả đạt 100%. Theo Cao Tuyết Lan (1996) [14], dùng Mebenvet liều 120mg/kgTT tẩy cho nghé nhiễm giun đũa thị xã Lai Châu có hiệu quả tốt. Phạm Sỹ Lăng và Phan Địch Lân (1996) [22] cho biết, dùng các loại hoá dược như Piperazin 0,3-0,5 g/kgTT, Tetramizole 10mg/kgTT, Mebenvet 0,5g/kgTT và một số hoá dược khác để tẩy trừ Neoascaris vitulorum cho kết quả rất tốt, bê nghé khỏi tiêu chảy phân trắng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 37 Chương 2 ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. ĐỐI TƢỢNG, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN NGHIÊN CỨU 2.1.1. Đối tƣợng nghiên cứu Bê nghé dưới 3 tháng tuổi nuôi tại các hộ gia đình và trại chăn nuôi của 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang (thị xã Tuyên Quang, huyện Yên Sơn và huyện Hàm Yên). 2.1.2. Địa điểm nghiên cứu - Địa bàn nghiên cứu: thị xã Tuyên Quang, huyện Yên Sơn, huyện Hàm Yên tỉnh Tuyên Quang. Chúng tôi lựa chọn 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang để thực hiện đề tài nghiên cứu dựa trên các cơ sở sau: + Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc có tổng đàn trâu bò tương đối lớn (gần 500 nghìn con), 3 huyện, thị trên mang đặc điểm đặc trưng cho sự phân bố địa hình khác nhau của tỉnh Tuyên Quang. + Ba huyện, thị trên có phương thức chăn nuôi đa dạng, vừa chăn nuôi theo quy mô tập trung, vừa có hình thức chăn nuôi nhỏ lẻ ở các hộ gia đình. + Bê nghé ở các huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang, trong đó có 3 huyện, thị trên mắc tiêu chảy tương đối nhiều, ảnh hưởng đến sự phát triển của đàn trâu bò trong tỉnh. - Địa điểm xét nghiệm: Phòng thí nghiệm - Chi cục Thú y tỉnh Tuyên Quang. 2.1.3. Thời gian nghiên cứu: tháng 3/2007 đến 3/2008. 2.2. VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU - Mẫu phân bê nghé dưới 3 tháng tuổi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 38 - Mẫu đất bề mặt nền chuồng, khu vực xung quanh chuồng, bãi chăn thả trâu bò, bê nghé. - Dung dịch nước muối NaCl bão hoà, dung dịch Glyxerin 5%. - Kính hiển vi quang học, dụng cụ xét nghiệm trứng giun sán, các dụng cụ thí nghiệm khác. 2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 2.3.1. Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dƣới 3 tháng tuổi tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở các địa phương. - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo tuổi. - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo tính biệt. - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo mùa vụ trong năm. - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo địa hình. - Tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc (bê, nghé). - Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo phương thức chăn nuôi trâu bò mẹ. 2.3.2. Vai trò của giun đũa Neoascaris vitulorum trong hội chứng tiêu chảy của bê, nghé dƣới 3 tháng tuổi 3.2.2.1. Xác định tỷ lệ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thường. 3.2.2.2. Xác định cường độ nhiễm giun đũa ở bê nghé tiêu chảy và bê nghé bình thường. 2.3.3. Nghiên cứu sự tồn tại và phát triển của trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh 2.3.3.1. Xác định sự phát tán trứng giun Neoascaris vitulorum ở chuồng trại, khu vực xung quanh chuồng và bãi chăn thả trâu bò, bê nghé. 2.3.3.2. Xác định thời gian trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 39 2.3.3.3. Xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris vitulorum trong các điều kiện khác nhau ở ngoại cảnh. 2.3.3.4. Xác định khả năng bê nghé nuốt trứng giun đũa có sức gây bệnh khi bú mẹ. 2.3.4. Thử nghiệm một số phác đồ điều trị tiêu chảy cho bê nghé 2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.4.1. Theo dõi các chỉ tiêu về dịch tễ hội chứng tiêu chảy ở bê nghé * Trực tiếp điều tra qua quan sát thực nghiệm và chẩn đoán lâm sàng: Phương pháp điều tra là ngẫu nhiên trên bê nghé nuôi tại các cơ sở chăn nuôi và các hộ nông dân tại 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang. Trong quá trình điều tra, những bê nghé phân lỏng được coi là tiêu chảy. * Xác định tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo lứa tuổi: Từ sơ sinh - 15 ngày; 16 - 30 ngày; 31- 45 ngày; 46 - 60 ngày; 61- 75 ngày; 76 - 90 ngày tuổi. * Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo loại gia súc: bê, nghé. * Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo mùa vụ trong năm (Xuân, Hè, Thu, Đông) * Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo 2 loại địa hình: Bằng phẳng và đồi núi xen kẽ ruộng nước. * Xác định tỷ lệ tiêu chảy của bê, nghé đực và bê, nghé cái. * Xác định tỷ lệ tiêu chảy theo 2 phương thức chăn nuôi trâu bò mẹ: chăn thả hoàn toàn dựa vào tự nhiên và nuôi bán chăn thả có bổ sung thức ăn. 2.4.2. Phƣơng pháp xét nghiệm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum * Phương pháp lấy mẫu: lấy mẫu phân của bê nghé dưới 3 tháng tuổi vừa thải ra hoặc lấy trực tiếp từ trực tràng. Để riêng mỗi mẫu vào một túi ni lon nhỏ sạch, mỗi túi đều có nhãn ghi rõ: tuổi, tính biệt, địa điểm, phương thức chăn nuôi và thời gian lấy mẫu. Mẫu phân được bảo quản và xét nghiệm theo quy trình thường quy trong nghiên cứu ký sinh trùng. * Phương pháp xét nghiệm mẫu: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 40 Sử dụng phương pháp Fulleborn: lấy khoảng 5 - 10g phân cho vào cốc nhỏ, dùng đũa thuỷ tinh nghiền nát, cho 80 - 100ml dung dịch nước muối bão hoà vào khuấy đều và lọc qua lưới thép bỏ cặn. Nước lọc được để yên trong 20 - 30 phút, trứng giun đũa sẽ nổi lên bề mặt. Dùng vòng thép có đường kính 2mm vớt lớp màng nổi trên bề mặt, cho lên phiến kính, đậy lá kính, soi dưới kính hiển vi quang học với độ phóng đại 100 lần để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. * Cường độ nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum được đánh giá bằng số lượng trứng/gam phân theo quy định của Roberts, J.A (1990) [55]: < 700 trứng/gam phân: nhiễm nhẹ (+) 700 - 1000 trứng/gam phân: nhiễm trung bình (++) > 1.000 trứng/gam phân: nhiễm nặng (+++) - Số trứng/gam phân được đếm bằng phương pháp Mc. Master: phương pháp này dùng để xác định số lượng trứng giun tròn, trứng sán dây và Oocyst cầu trùng trong một gam phân bằng buồng đếm Mc. Master. Cân 4 gam phân cho vào cốc thuỷ tinh, thêm 56 ml dung dịch nước muối bão hoà, khuấy đều cho tan phân. Lọc qua lưới thép vào một cốc khác và khuấy đều. Trong khi đang khuấy, lấy công tơ hút dung dịch phân nhỏ đầy cả hai buồng đếm Mc. Master (mỗi buồng đếm có dung tích 0,5 ml) để yên 5 phút rồi kiểm tra dưới kính hiển vi quang học (độ phóng đại 10 x 10). Đếm toàn bộ số trứng trong những ô của 2 buồng đếm. Số trứng/1 gam phân =  số trứng ở hai buồng đếm x 60 4 (Tổng số trứng ở hai buồng đếm là số trứng có trong 1,0 ml dung dịch phân) 2.4.3. Phƣơng pháp theo dõi trứng giun Neoascaris vitulorum phát triển thành trứng có sức gây bệnh ở ngoại cảnh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 41 Sử dụng những mẫu phân bê nghé nhiễm giun đũa nặng (có trên 1000 trứng/gam phân) để bố trí thí nghiệm. Thí nghiệm được bố trí thành 3 đợt, vào 3 thời điểm nhiệt độ và ẩm độ không khí khác nhau. Các mẫu phân của mỗi lô thí nghiệm được cho vào đĩa Petri, để ở điều kiện nhiệt độ và ẩm độ không khí bình thường. Hàng ngày lấy từ mỗi đĩa Petri 2 -3 gam phân, xét nghiệm bằng phương pháp Fulleborn để kiểm tra sự phát triển của trứng Neoascaris vitulorum. Theo dõi đến khi trứng phát triển thành trứng có sức gây bệnh. Ghi thời gian phát triển và mô tả sự thay đổi cấu tạo của trứng giun. 2.3.4. Phƣơng pháp xác định khả năng tồn tại của trứng giun Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh. Sau khi theo dõi sự phát triển của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum đến giai đoạn cảm nhiễm, chúng tôi tiếp tục theo dõi thời gian tồn tại của trứng ở các lô thí nghiệm, trong điều kiện nhiệt độ, ẩm độ không khí bình thường ở ngoại cảnh. Cứ 5 ngày lấy từ mỗi đĩa Petri 2-3 gam phân. xét nghiệm bằng phương pháp Fulleborn để kiểm tra, xác định thời gian tồn tại của trứng giun Neoascaris vitulorum có sức gây bệnh. Ghi lại thời gian và theo dõi biến đổi về hình thái, cấu tạo trứng. Làm như vậy cho đến khi trứng bị chết hoàn toàn (biến dạng, nứt vỡ, ấu trùng trong trứng bị dung giải). 2.4.5. Phƣơng pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở ngoại cảnh * Phương pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở chuồng trại: Thu thập mẫu cặn nền chuồng nuôi bê nghé ở các vị trí khác nhau (ở 4 góc chuồng và giữa chuồng) mỗi vị trí khoảng 4-5 gam, trộn đều được một mẫu khoảng 20-25 gam. Đưa mẫu về phòng thí nghiệm, xét nghiệm bằng phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Từ đó có thể đánh giá sự phát tán trứng giun ở trong chuồng nuôi. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 42 * Phương pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở khu vực xung quanh chuồng nuôi: Thu thập mẫu đất bề mặt ở 10 vị trí khác nhau xung quanh chuồng nuôi bê nghé (trong vòng bán kính 10 mét), mỗi vị trí lấy khoảng 2-3 gam, trộn đều được một mẫu khoảng 20-30 gam. Đưa mẫu về phòng thí nghiệm, xét nghiệm bằng phương pháp Fulleborn tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Từ đó đánh giá được sự phát tán trứng giun ở khu vực xung quanh chuồng nuôi. * Phương pháp xác định sự phát tán trứng Neoascaris vitulorum ở bãi chăn thả bê nghé và trâu bò mẹ: Thu thập mẫu đất bề mặt ở bãi chăn bê, nghé và trâu bò mẹ. Cứ khoảng 10-20m 2 bãi chăn lấy ở 10 vị trí khác nhau, mỗi vị trí lấy khoảng 2-3 gam đất bề mặt, trộn đều được 1 mẫu khoảng 20-30 gam. Đưa mẫu về phòng thí nghiệm, xét nghiệm bằng phương pháp Fulleborn để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. Từ đó đánh giá được sự phát tán trứng giun đũa trên bãi chăn thả. 2.4.6. Phƣơng pháp xác định khả năng bê nghé nhiễm giun đũa do nuốt trứng giun có sức gây bệnh khi bú mẹ Dùng các mảnh giấy mềm, ướt lau bầu vú và núm vú của trâu bò mẹ, cho những mảnh giấy này vào các túi nilon sạch đưa về phòng thí nghiệm. Cho những mảnh giấy này vào cốc đựng dung dịch nước muối bão hoà, khuấy kỹ rồi lọc qua lưới lọc bỏ cặn giấy. Nước lọc được để yên 20-30 phút, dùng vòng thép đường kính 2mm vớt màng nổi trên bề mặt dung dịch cho lên phiến kính, đậy lá kính, soi dưới kính hiển vi quang học để tìm trứng giun đũa Neoascaris vitulorum. 2.4.7. Phƣơng pháp điều trị tiêu chảy cho bê, nghé 2.4.7.1. Điều trị tiêu chảy cho những bê nghé nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum. Chúng tôi sử dụng 3 phác đồ điều trị cho những bê nghé bị tiêu chảy và nhiễm giun đũa Neoascaris vitulorum. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 43 * Phác đồ 1: Levasol 7,5% (do Công ty Hanvet sản xuất): thuốc có phổ tác dụng rộng, tẩy được nhiều loài giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá gia súc. Thành phần của thuốc: Levamisol hydrochlorid: 75 mg. Dung môi và chất ổn định vừa đủ: 1ml. Liều lượng: 1ml/10kg thể trọng (7,5mg/kg thể trọng), tiêm bắp. Liệu trình: dùng một liều duy nhất. * Phác đồ 2: sử dụng Mebendazol 10% (do Công ty cổ phần Sóng Hồng sản xuất). Thuốc có tác dụng tẩy các loại giun tròn ký sinh ở đường tiêu hoá gia súc, gia cầm. Liều lượng: 200mg/kg thể trọng, cho uống lúc đói. Liệu trình: dùng một liều duy nhất, chia làm hai lần sáng và chiều. * Phác đồ 3: sử dụng thuốc Hanmectin-0,25%. (do Công Hanvet sản xuất). Thuốc có tác dụng với các loại nội, ngoại ký sinh trùng, có tác dụng cả ở giai đoạn trưởng thành cũng như giai đoạn ấu trùng đang di hành trong cơ thể. Đây là loại thuốc hiện nay đang được dùng rất phổ biến. Thành phần của thuốc: trong mỗi ml dung dịch chứa 2,5mg Ivermectin. Liều lượng: 1ml/10kg thể trọng (0,25mg/kg thể trọng), tiêm bắp. Liệu trình: dùng một liều duy nhất. * Thuốc phối hợp điều trị: + Thuốc điện giải: cung cấp nước và các chất điện giải trong trường hợp ỉa chảy, nôn mửa, tăng cường sức đề kháng, chống stress... Cách sử dụng: pha thuốc với nước cho uống, 100g pha với 3-5 lít nước, dùng cho 25-30 kg thể trọng, cho uống 2-4 lần/ngày, trong 5 ngày liên tục. + Vitamin C 5%: tác dụng làm tăng sức đề kháng cho con vật; sử dụng thuốc dưới dạng dung dịch tiêm bắp hoặc tiêm dưới da với liều 10ml/25kg thể trọng/ngày (20mg/kg thể trọng/ngày), sử dụng thuốc trong 5 ngày. Sau khi sử dụng 3 phác đồ để điều trị, kiểm tra trạng thái phân để đánh giá bê nghé đã hết tiêu chảy chưa. Đối với những bê nghé chưa khỏi tiêu chảy, chúng tôi tiếp tục sử dụng thuốc kháng sinh kết hợp với thuốc điện giải và vitamin C để điều trị. Đồng thời, xét nghiệm lại phân bê, nghé để đánh giá tác dụng của thuốc tẩy giun đũa Neoascaris vitulorum. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 44 2.4.7.2. Điều trị tiêu chảy cho những bê nghé sau đợt điều trị 1 vẫn còn tiêu chảy. * Phác đồ 1: sử dụng Hupha-Colistin 3%, thuốc có tác dụng điều trị tiêu chảy ở gia súc rất tốt. Thành phần của thuốc: Colistin sulfate 60.000.000 UI. Dung môi vừa đủ: 100 ml. Liều lượng: 0,5ml/20kg thể trọng (15mg/kg thể trọng/ngày), tiêm bắp. Liệu trình: điều trị 3-5 ngày liên tục. * Phác đồ 2: sử dụng Norfacoli, thuốc có tác dụng đặc trị tiêu chảy rất tốt đối với gia súc, gia cầm. Thành phần của thuốc: Norfloxacin HCl 1000 mg. Dung môi vừa đủ 10 ml. Liều lượng: 1ml/20kg thể trọng (5mg/kg thể trọng/ngày), tiêm bắp. Liệu trình: điều trị 3-5 ngày liên tục. 2.4.8. Phƣơng pháp xử lý số liệu * Các số liệu về tỷ lệ tiêu chảy, tỷ lệ nhiễm, cường độ nhiễm, hiệu lực tẩy của thuốc được tính bằng công thức sau: - Tỷ lệ tiêu chảy (%) = Số bê nghé tiêu chảy x 100 Số bê nghé kiểm tra - Tỷ lệ nhiễm (%) = Số bê nghé nhiễm x 100 Số bê nghé kiểm tra - Cường độ nhiễm (%) = Số bê nghé nhiễm (+), (++), (+++) x 100 Tổng số bê nghé nhiễm - Tỷ lệ khỏi tiêu chảy (%) = Số bê nghé khỏi tiêu chảy x 100 Số bê nghé điều trị - Hiệu lực tẩy giun đũa (%) = Số bê nghé sạch trứng x 100 Số bê nghé tiêu chảy nhiễm giun đũa Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 45 * Số liệu về thời gian phát triển, tồn tại của trứng giun đũa Neoascaris vitulorum và số trứng giun tìm thấy trên bầu vú và núm vú trâu bò mẹ, được xử lý theo phương pháp thống kê sinh học của Nguyễn Văn Thiện (2000). - Số trung bình cộng: X = xi (với i = 1n) n Trong đó: xi là tổng các giá trị của x n là dung lượng mẫu - Độ lệch tiêu chuẩn: với n   1 :30 2 2      n n xi xi S x Trong đó: xS : độ lệch tiêu chuẩn xi: giá trị của mẫu n: dung lượng mẫu - Sai số của số trung bình: với n 1 :30   n S m xx Trong đó: xm : sai số của số trung bình xS : độ lệch tiêu chuẩn n: dung lượng mẫu - So sánh mức độ sai khác: 1 2 1 2 2 2TN D X X X XD t M m m     ( mẫu nhỏ và n1= n2) Trong đó: 1 2,X X là số trung bình cộng của nhóm 1 và nhóm 2. 1 2 , X X m m là sai số của số trung bình cộng nhóm 1 và nhóm 2. 1 2 , X X S S là độ lệnh tiêu chuẩn của nhóm 1 và nhóm 2. n là dung lượng mẫu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 46 Tra bảng phân bố t, so sánh tTN với t để xác định mức độ sai khác giữa hai số trung bình. + Nếu ứng với mức xác suất P > 0,05: hai số trung bình khác nhau không rõ rệt. + Nếu ứng với mức xác suất P < 0,05: hai số trung bình khác nhau rõ rệt, với độ tin cậy 95%. + Nếu ứng với mức xác suất P < 0,01: hai số trung bình khác nhau rõ rệt, với độ tin cậy 99%. + Nếu ứng với mức xác suất P < 0,001: hai số trung bình khác nhau rõ rệt, với độ tin cậy 99,9%. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 47 Chương 3 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 3.1. NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỘI CHỨNG TIÊU CHẢY Ở BÊ NGHÉ DƢỚI 3 THÁNG TUỔI TẠI TUYÊN QUANG 3.1.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía bắc, mang những đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự biến động lớn về nhiệt độ và độ ẩm, trong đó có 2 mùa rõ rệt là mùa đông lạnh - khô hanh, mùa hè - nóng ẩm, mưa nhiều. Sự biến động về thời tiết, đặc biệt có những đợt gió mùa đông bắc tràn về kèm theo mưa phùn và rét đậm kéo dài đã làm ảnh hưởng không tốt tới sản xuất nông nghiệp nói chung, trong đó có ngành chăn nuôi và tình hình dịch bệnh của đàn gia súc nói riêng. Để đánh giá cụ thể tình hình bê nghé dưới 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy ở 3 huyện, thị của tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi đã kiểm tra 906 bê nghé ở 9 xã, phường. Kết quả về tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở các địa phương được trình bày ở bảng 3.1. Bảng 3.1 cho thấy: trong 906 bê nghé kiểm tra tại 9 xã, phường của 3 huyện, thị, số bê nghé tiêu chảy là 192 con, chiếm tỷ lệ 21,19%. Trong đó, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cụ thể như sau: - Ở thị xã Tuyên Quang, kiểm tra 297 bê nghé, có 57 bê nghé tiêu chảy, chiếm tỷ lệ 19,19%. - Ở huyện Yên Sơn, kiểm tra 316 bê nghé, có 65 bê nghé tiêu chảy, tỷ lệ tiêu chảy là 20,57%. - Ở huyện Hàm Yên, kiểm tra 293 bê nghé, số bê nghé tiêu chảy là 70 con, chiếm tỷ lệ 23,89%. Như vậy, tỷ lệ bê nghé tiêu chảy giữa các địa phương có khác nhau. Tỷ lệ bê, nghé tiêu chảy cao nhất ở huyện Hàm Yên (23,89%), thấp nhất ở thị xã Tuyên Quang (19,19%). Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở các địa phương có sự khác nhau như vậy, theo kết quả điều tra thực tế của chúng tôi là do: nhiều nông hộ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 48 chăn nuôi trâu bò ở huyện Hàm Yên còn khó khăn về kinh tế, vì vậy việc chăm sóc nuôi dưỡng và vệ sinh phòng bệnh cho trâu bò, bê nghé chưa tốt. Điều kiện chăn nuôi kém làm cho trâu bò, bê nghé gầy yếu, chất lượng và số lượng sữa không đảm bảo. Từ đó ảnh hưởng tới sức khoẻ và sự chống đỡ bệnh tật của bê nghé, làm cho bê nghé dễ mắc bệnh, trong đó có hội chứng tiêu chảy. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Sửu (2005) [30] từ năm 1999 đến năm 2004, ở Tuyên Quang, tỷ lệ bê tiêu chảy là 20,67% và nghé là 19,22%, trong đó tỷ lệ chết do tiêu chảy là 7,32% ở bê và 5,79% ở nghé. Như vậy, người chăn nuôi trâu bò hàng năm đã phải chịu thiệt hại lớn về kinh tế do hội chứng tiêu chảy ở bê nghé gây ra. Bảng 3.1. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy ở một số địa phƣơng. STT Địa phƣơng (huyện, thị xã) Số bê nghé kiểm tra (con) Số bê nghé tiêu chảy (con) Tỷ lệ (%) 1 TX Tuyên Quang 297 57 19,19 - Nông Tiến 142 27 19,01 - Ỷ La 95 19 20,00 - Hưng Thành 60 11 18,33 2 Yên Sơn 316 65 20,57 - An Tường 104 18 17,30 - Phú Lâm 97 21 21,64 - Thái Bình 115 26 22,60 3 Hàm Yên 293 70 23,89 - Đức Ninh 120 31 25,83 - Thái Sơn 101 24 23,76 - Thái Hoà 75 15 20,83 Tính chung 906 192 21,19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 49 Qua kết quả điều tra về tỷ lệ tiêu chảy của bê nghé dưới 3 tháng tuổi ở Tuyên Quang, chúng tôi thấy bê nghé bị tiêu chảy khá nhiều. Từ đó chúng tôi thấy rằng: các cơ sở chăn nuôi và các hộ chăn nuôi trâu bò sinh sản cần làm tốt công tác chăm sóc nuôi dưỡng, vệ sinh thú y để hạn chế tỷ lệ bê nghé tiêu chảy. Đồng thời, khi bê nghé đã bị tiêu chảy cần phải được điều trị kịp thời và triệt để, để bệnh có thể khỏi và không ảnh hưởng đến sự phát triển sau này của bê nghé. Cũng từ thực trạng trên, chúng tôi đã nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ của hội chứng tiêu chảy ở bê nghé dưới 3 tháng tuổi, làm cơ sở để đề xuất biện pháp phòng trị có hiệu quả nhất, hạn chế thiệt hại do tiêu chảy gây ra. 3.1.2. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi Để xác định tuổi bê nghé có ảnh hưởng đến tỷ lệ mắc tiêu chảy hay không, chúng tôi đã kiểm tra lâm sàng 906 bê nghé ở 6 lứa tuổi. Kết quả được trình bày ở bảng 3.2. Bảng 3.2: Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy theo lứa tuổi Tuổi (ngày tuổi) Số bê nghé kiểm tra (con) Số bê nghé tiêu chảy (con) Tỷ lệ (%) SS - 15 92 17 18,47 16 - 30 212 63 29,71 31 - 45 153 32 20,91 46 - 60 129 26 20,15 61 - 75 135 25 18,51 76 - 90 185 29 15,67 Tính chung 906 192 21,19 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 50 Bảng 3.2 cho thấy: bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy biến động từ 15,67% đến 29,71%. Trung bình bê nghé từ sơ sinh đến 3 tháng tuổi, mắc tiêu chảy là 21,19%. Trong đó, ở giai đoạn từ sơ sinh đến 15 ngày tuổi bê nghé mắc tiêu chảy với tỷ lệ 18,47%. Ở 16-30 ngày tuổi, tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé là 29,71%. Từ 31- 45 ngày tuổi bê nghé mắc tiêu chảy 20,91%. Ở 46-60 ngày tuổi, tỷ lệ mắc là 20,15%. Ở 61-75 ngày tuổi, bê nghé mắc tiêu chảy là 18,51%. Từ 76-90 ngày tuổi, tỷ lệ tiêu chảy là 15,67%. Như vậy, bê nghé mắc tiêu chảy cao nhất là giai đoạn từ 16 - 30 ngày tuổi 29,71%, tỷ lệ tiêu chảy có chiều hướng giảm dần ở các giai đoạn tuổi tiếp theo, thấp nhất ở 76 - 90 ngày tuổi, chiếm tỷ lệ 15,67%. Từ kết quả bảng 3.2, chúng tôi nhận thấy, bê nghé dưới 3 tháng tuổi mắc tiêu chảy giảm dần theo tuổi, tuổi càng cao tỷ lệ tiêu chảy càng giảm và thấp nhất ở 76-90 ngày tuổi. Theo chúng tôi, do tuổi càng cao các cơ quan, hệ thống trong cơ thể, đặc biệt hệ thống tiêu hoá được hoàn thiện về mặt cấu tạo, cũng như chức năng hoạt động, nên thích nghi hơn với điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng và các tác động bất lợi của ngoại cảnh. Tỷ lệ bê nghé tiêu chảy cao nhất ở lứa tuổi 16-30 ngày tuổi. Đây cũng là lứa tuổi bê nghé mắc bệnh do giun đũa Neoascaris vitulorum nhiều. Nhiều tác giả cho biết, bê nghé nhiễm giun đũa phần lớn qua bào thai, do trâu bò mẹ có thai nuốt phải trứng giun đũa có sức gây bệnh. Vì vậy, khi bê nghé sinh ra đã có giun đũa ký sinh và bị phát bệnh rất sớm (sớm nhất là 14 ngày tuổi), tỷ lệ nhiễm cao nhất và cường độ nhiễm nặng nhất ở 16-30 ngày tuổi (Trịnh Văn Thịnh, 1962 [36], Phạm Văn Khuê và cs, 1996 [12], Nguyễn Thị Kim Lan và cs, 1999 [13], Phạm Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, Đoàn Văn Phúc 2005 [18]). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 51 Kết quả về tỷ lệ tiêu chảy cao nhất ở giai đoạn bê nghé 16-30 ngày tuổi phải chăng có liên quan đến vai trò gây bệnh của giun đũa Neoascaris vitulorum. Theo nhận xét của Lê Minh Chí (1995) [5], sự tổn thất ở bê nghé non chiếm tỷ lệ rất cao (70-80%), trong đó 80-90% là do hậu quả của tiêu chảy gây ra. Kết quả nghiên cứu trên cho phép chúng tôi có nhận xét chung rằng: phải đặc biệt quan tâm chăm sóc, nuôi dưỡng trâu bò mẹ và bê nghé ở giai đoạn 16-30 ngày tuổi, ở giai đoạn này khả năng đáp ứng miễn dịch của bê nghé với yếu tố bất lợi môi trường, các yếu tố gây bệnh là rất kém, bê nghé rất dễ bị nhiễm bệnh đặc biệt là các bệnh về đường tiêu hoá, gây rối loạn tiêu hoá và gây tiêu chảy. 3.1.3. Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt Kết quả xác định tỷ lệ bê nghé mắc tiêu chảy theo tính biệt được chúng tôi trình bày ở bảng 3.3. Bảng 3.3: Tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé theo tính biệt Địa phƣơng (huyện, thị xã) Tính biệt Số bê nghé kiểm tra (con) Số bê nghé tiêu chảy (con) Tỷ lệ (%) TX Tuyên Quang - Đực 153 29 18,95 - Cái 144 28 19,44 ∑ 297 57 19,19 Yên Sơn - Đực 154 30 19,48 - Cái 162 35 21,60 ∑ 316 65 20,57 Hàm Yên - Đực 137 36 26,27 - Cái 156 34 21,79 ∑ 293 70 23,89 Tính chung - Đực 444 99 21,39 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 52 - Cái 462 93 20,99 ∑ 906 192 21,19 Bảng 3.3 cho thấy: kết quả theo dõi được lặp lại 3 lần ở 3 huyện, thị đều không theo một quy luật nhất định nào: ở Thị xã Tuyên Quang, bê nghé cái tiêu chảy nhiều hơn bê nghé đực (19,44% và 18,95%), huyện Yên Sơn tỷ lệ bê nghé cái tiêu chảy là 21,60%, bê nghé đực là 19,48%, song ở huyện Hàm Yên thì bê nghé đực lại tiêu chảy nhiều hơn bê nghé cái (tỷ lệ là 26,27% và 21,79%). Tính chung cả 3 huyện, thị tỷ lệ tiêu chảy ở bê nghé đực và cái tương đương nhau, (bê nghé đực tiêu chảy là 21,39%, bê nghé cái là 20,99%). Như vậy, tỷ lệ bê nghé đực và cái tiêu chảy có sự khác nhau không rõ ràng. Chúng tôi cho rằng, tiêu chảy là hiện tượng bệnh lý có liên quan đến nhiều yếu tố, có thể do sự tác động của yếu tố khí hậu, thời tiết thay đổi đột ngột, thức ăn kém phẩm chất, kéo theo sự xuất hiện và phát triển của các vi khuẩn gây bệnh, làm rối loạn hệ vi khuẩn đường ruột, gây hiện tượng loạn khuẩn và gây tiêu chảy; đặc biệt là tác động của các loại ký sinh trùng gây bệnh đường tiêu hoá, trong đó giun đũa Neoascaris vitulorum có vai trò rất quan tr

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc318.pdf