MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ KIỂM SOÁT CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI KHO BẠC NHÀ NƯỚC. 3
1.1 Ngân sách Nhà nước và chi Ngân sách Nhà nước. 3
1.1.1 Khái niệm Ngân sách Nhà nước. 3
1.1.2 Khái niệm và đặc điểm chi Ngân sách Nhà nước. 3
1.1.3 Phân loại chi: 5
1.2 Công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN. 7
1.2.1 Nguyên tắc chung về kiểm soát chi NSNN. 7
1.2.2 Cấp phát thanh toán. 9
1.2.2.1 Điều kiện cấp phát thanh toán. 9
1.2.2.2 Phương thức cấp phát thanh toán 11
1.2.3 Kiểm soát chi NSNN và các hình thức kiểm soát chi NSNN. 13
1.2.4 Qui trình kiểm soát chi NSNN qua KBNN. 14
1.2.5 Mô hình tổ chức kho bạc Nhà nước của một số nước trên thế giới. 18
1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến kiểm soát chi NSNN qua KBNN. 21
1.3.1 Các vấn đề pháp lý liên quan đến quản lý, cấp phát, thanh toán và kiểm soát các khoản chi NSNN. 21
1.3.2 Yếu tố chủ quan từ KBNN. 23
1.3.3 Sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan liên quan đến qui trình thực hiện kiểm soát chi NSNN. 24
1.3.4 Các nhân tố khác. 24
1.4 Sự cần thiết phải thực hiện kiểm soát chi NSNN. 24
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI TẠI KBNN HOÀN KIẾM. 28
2.1 Khái quát chung về KBNN Hoàn Kiếm. 28
2.2 Thực trạng công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm. 30
2.2.1 Thực trạng chi NSNN tại KBNN nói chung và KBNN Hoàn Kiếm nói riêng trong những năm qua. 30
2.2.2 Công tác kiểm soát một số khoản chi chủ yếu. 37
2.2.2.1 Kiểm soát chi lương, phụ cấp lương. 37
2.2.2.2 Kiểm soát chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ làm việc 40
2.2.2.3 Kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng nhỏ. 44
2.2.2.3 Kiểm soát chi các khoản thông tin, liên lạc, hội nghị, công tác phí, chi nghiệp vụ chuyên môn và chi khác. 47
2.2.3.5 Kiểm soát thanh toán vốn đầu tư, xây dựng cơ bản. 49
2.3 Đánh giá về tình hình thực hiện kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm. 52
2.3.1 Những thành tựu đạt được. 52
2.3.2 Một số mặt còn hạn chế. 53
2.3.3. Nguyên nhân. 56
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC KIỂM SOÁT CHI NSNN TẠI KBNN HOÀN KIẾM 57
3.1 Những quan điểm và phương hướng cơ bản tiếp tục hoàn thiện công tác kiểm soát chi NSNN qua KBNN trên địa bàn quận Hoàn Kiếm. 57
3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm. 58
3.2.1 Kiểm soát chặt chẽ các điều kiện cấp phát, thanh toán. 58
3.2.2 Đổi mới thanh toán các khoản chi NSNN. 60
3.2.3 Đổi mới công tác cán bộ- tiêu chuẩn hoá cán bộ. 62
3.2.4 Công tác hạch toán kế toán và báo cáo quyết toán NSNN. 65
3.2.5 Hiện đại hoá công nghệ thông tin trong quản lý NSNN đặc biệt tin học hoá công tác kế toán NSNN. 66
3.2.6 Đổi mới và giải quyết tốt mối quan hệ giữa KBNN với các đơn vị trong ngành tài chính và các đơn vị có liên quan. 67
KẾT LUẬN 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
74 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4259 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát chi Ngân sách nhà nước tại Kho bạc nhà nước Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uản lý vốn tiền mặt, các ấn chỉ, chứng chỉ có giá trị như tiền, tài sản theo chế độ qui định và chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn tiền, tài sản đơn vị giao quản lý.
+ Mở tài khoản thanh toán bằng tiền mặt, chuyển khoản với các đơn vị và cá nhân theo chế độ qui định.
+ Thực hiện kế toán, thống kê, báo cáo, quyết toán các hoạt động của KBNN phát sinh trên địa bàn.
+ Thực hiện công tác tin học, tập hợp, quản lý dữ liệu theo sự phân công của KBNN tỉnh.
+ Quản lý cán bộ, tài sản, kinh phí nội bộ theo chế độ qui định.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quyết định của giám đốc KBNN tỉnh.
2.2 Thực trạng công tác kiểm soát chi NSNN tại KBNN Hoàn Kiếm.
2.2.1 Thực trạng chi NSNN tại KBNN nói chung và KBNN Hoàn Kiếm nói riêng trong những năm qua.
a) Một số bất cập trong công tác cấp phát, thanh toán chi NSNN trong những năm 1990- 1996.
Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện. Trong giai đoạn này, nhiệm vụ quản lý chi NSNN qua KBNN có sự thay đổi nhằm tăng cường quản lý các khoản chi NSNN qua KBNN, đảm bảo chi đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, góp phần phục vụ cho sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước. Tuy nhiên do sự cải tiến cơ chế quản lý tài chính nói chung vẫn chưa đồng bộ, việc chi ngân sách chủ yếu vẫn là xuất quỹ ngân sách nên tình trạng sử dụng công quỹ còn lãng phí, hiệu quả chưa cao, đã bộc lộ nhiều bất hợp lý:
Thứ nhất: Cơ quan tài chính, KBNN thiếu cơ sở pháp lý cần thiết để thực hiện kiểm tra, kiểm soát các khoản chi NSNN. Cơ quan tài chính ra lệnh cấp phát, KBNN thực hiện việc xuất quỹ ngân sách theo lệnh của cơ quan tài chính, đơn vị thụ hưởng thực hiện chi tiêu. Thực chất việc cấp phát NSNN qua KBNN là xuất quĩ NSNN. Cơ quan tài chính căn cứ vào nhu cầu chi tiêu của các đơn vị thụ hưởng ngân sách để bố trí theo các khoản chi, có phân chia chi tiết theo một số mục chi nhưng chỉ là hình thức, việc điều chỉnh giữa các mục chi do đơn vị tự động thực hiện dẫn đến tình trạng kiểm soát chi tiêu qua KBNN rất hạn chế, đặc biệt đối với việc mua sắm trang thiết bị, sửa chữa lớn, sửa chữa thường xuyên của các đơn vị dự toán. Trong thời kỳ này cơ chế đấu thầu chưa được triển khai thực hiện nên tình trạng sử dụng lãng phí, thất thoát kinh phí NSNN còn khá phổ biến.
Thứ hai: Trách nhiệm, quyền hạn của cơ quan tài chính, KBNN, cán bộ, ngành, đơn vị thụ hưởng ngân sách còn bị chồng chéo, chưa được phân chia cụ thể, rõ ràng; cơ chế quản lý và kiểm soát chi ngân sách còn bị phân tán ở nhiều đầu mối: Tài chính, KBNN, Ngân hàng Đầu tư và phát triển, Lao động Thương binh và xã hội. Vì vậy việc kiểm tra giám sát của KBNN còn rất hạn chế.
Thứ ba: Việc cấp phát ngân sách bằng lệnh chi tiền của cơ quan tài chính còn khá phổ biến ở các cấp ngân sách, đặc biệt là ngân sách cấp tỉnh, huyện. Trong trường hợp này tiền của NSNN được chuyển thẳng vào tài khoản tiền gửi của đơn vị dự toán, tồn quĩ ngân sách bị giảm trong khi đơn vị chưa sử dụng ngay số tiền đó. Điều đó một mặt gây căng thẳng giả tạo cho NSNN, mặt khác cơ quan Tài chính, KBNN rất khó khăn trong việc kiểm tra giám sát quá trình chi tiêu của đơn vị.
Đứng trước tình hình đó, Chính phủ đã có nhiều biện pháp tích cực nhằm cải thiện tình hình quản lý tài chính nói chung và quản lý NSNN nói riêng. Đặc biệt, do nhận thức được vị trí, vai trò của hệ thống KBNN trong việc kiểm tra, giám sát các khoản chi của NSNN, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định 861/TTg ngày30/12/1995 trong đó nhấn mạnh vai trò kiểm soát chi ngân sách qua KBNN.
Bộ tài chính đã giao cho KBNN và các đơn vị có liên quan nghiên cứu đề án kiểm soát chi NSNN. KBNN đã làm thí điểm công tác kiểm soát chi lương hưu và bảo hiểm xã hội của KBNN tỉnh Hà Nam (cũ); mở tài khoản cá nhân để kiểm soát, chi trả tiền lương tại KBNN thành phố Hà Nội, đồng thời trình Bộ ban hành qui chế đấu thầu mua sắm đồ dùng, trang thiết bị làm việc đối với các cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang, các đoàn thể, các doanh nghiệp trong nước…
Thông qua một số biện pháp trên, công tác quản lý chi nói chung và công tác kiểm soát chi ngân sách của KBNN nói riêng đã từng bước đi vào nề nếp. Tuy nhiên đây mới chỉ là những biện pháp tình thế, chưa giải quyết được vấn đề một cách toàn diện và căn bản. Thực tế đòi hỏi phải có một khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực NSNN một cách đồng bộ và phù hợp với thực tiễn sự phát triển kinh tế- xã hội trong tình hình mới.
b) Giai đoạn sau khi có Luật NSNN (từ năm 1997 đến 2002).
Tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua luật NSNN 1997, đây là văn bản pháp lý cao nhất về quản lý NSNN ở Việt Nam.
Theo tinh thần của Luật NSNN 1997, việc quản lý chặt chẽ và có hiệu quả các khoản chi NSNN là trách nhiệm của tất cả các nghành, các cấp, các cơ quan, đơn vị và cá nhân có liên quan đến việc quản lý và sử dụng nguồn kinh phí thuộc NSNN. Công tác kiểm soát, thanh toán chi trả các khoản chi NSNN của KBNN là công đoạn cuối cùng để hoàn thành qui trình kiểm soát chi NSNN. Đây là khâu chủ yếu có tầm quan trọng đặc biệt, giúp cho tiền vốn chi ra của NSNN được sử dụng vào các mục tiêu đã định một cách tiết kiệm và có hiệu quả nhất.
Theo qui định của Luật NSNN 1997, kinh phí chi thường xuyên của các đơn vị được cấp phát dưới hình thức hạn mức kinh phí và được quản lý tập trung thống nhất qua KBNN. Tuy nhiên hạn mức kinh phí cũng có nhược điểm là phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí còn có nhiều hạn chế, thiếu sót như cấp phát qua nhiều khâu mà thực chất là nhiều cấp quản lý ngân sách ( NSTW thường có từ 4-5 cấp quản lý kinh phí ngân sách) và trong thực tế thường có hiện tượng ban phát ân huệ và tất nhiên thiếu khách quan trong việc xem xét phân bổ kinh phí cho các đối tượng sử dụng kinh phí. Đây chính là kẽ hở để đơn vị sử dụng kinh phí NSNN không chú trọng nâng cao chất lượng dự toán chương trình. Họ không từ một thủ đoạn nào để làm sao rút được càng nhiều kinh phí càng có lợi cho họ. Và do đó, khi kiểm soát KBNN phát hiện ra có khi phân phối hạn mức kinh phí lớn hơn dự toán được duyệt. Do đó việc kiểm soát chi tại kho bạc nhà nước chỉ mang tính hình thức, chưa tạo ra được bước đột phá căn bản trong công tác kiểm soát chi ngân sách tại kho bạc nhà nước
c) Giai đoạn Luật NSNN từ 2002 đến nay.
Theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002, chi ngân sách được thực hiện khi có đủ điều kiện sau đây:
Đã có trong dự toán ngân sách được giao
Đúng chế độ tiêu chuẩn định mức do cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Đã được thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách hoặc người được uỷ quyền quyết định chi
Thông qua công tác kiểm soát chi, yêu cầu các đơn vị thủ hưởng ngân sách phải chấp hành đầy đủ các điều kiện theo đúng Luật NSNN 2002, do đó công tác lập, duyệt và phân bổ dự toán đã dần đi vào nề nếp. Tuy dự toán chi ngân sách chưa phân bổ được chi tiết 23 mục theo yêu cầu của văn bản hướng dẫn Luật và bước đầu chi phân bổ theo 11 mục chi chủ yếu nhưng đã giúp cho đơn vị dự toán, cơ quan tài chính và KBNN có căn cứ để điều hành và quản lý ngân sách có hiệu quả hơn và việc chấp hành các qui định về thời gian hàng năm đều có sự tiến bộ rõ rệt. Chi mua sắm, sửa chữa của các đơn vị đã được quản lý một cách chặt chẽ bằng cơ chế đấu thầu (đối với hợp đồng có giá trị trên 100 triệu đồng). Đối với các khoản chi thường xuyên khác thì thủ trưởng đơn vị sử dụng ngân sách phải tự chịu trách nhiệm, KBNN chi kiểm tra, thanh toán theo bảng kê chứng từ, chính vì vậy đã tạo ra tính chủ động cho đơn vị thụ hưởng ngân sách, tạo ra sự thông thoáng trong việc quản lý chi thường xuyên của đơn vị.
Kiểm soát chi NSNN, bước đầu đã quản lý được thu- chi ngân sách xã qua KBNN, từ chỗ toàn bộ các khoản thu chi của xã do xã tự quản không phản ánh qua tài khoản của KBNN sau khi Luật ngân sách có hiệu lực, xã đã trở thành một cấp ngân sách hoàn chỉnh, đại bộ phận các khoản thu chi của xã đã được qua KBNN kiểm soát, việc thu- chi cũng được quản lý chặt chẽ theo chế độ quản lý tài chính hiện hành, từ đó góp phần nâng cao kỷ luật và thực hiện công khai dân chủ về mặt tài chính, từng bước ổn định tình hình an ninh trật tự ở nông thôn.
Bên cạnh đó nhờ có công tác kiểm soát chi NSNN, các ngành, các cấp, các đơn vị sử dụng Ngân sách đã từng bước chấp hành các qui định của Luật, nâng cao ý thức quản lý, sử dụng tiết kiệm có hiệu quả, chấp hành cơ chế quản lý Tài chính, chi tiêu NSNN, góp phần thực hiện các pháp lệnh: Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, chống tham nhũng, phục vụ công cuộc Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước…
Cơ chế kiểm soát chi qua KBNN đã bước đầu xác định rõ và nêu cao vai trò, trách nhiệm,quyền hạn của các cơ quan Tài chính, KBNN, các đơn vị sử dụng Ngân sách trong quá trình chi tiêu NSNN. Mặt khác công tác kiểm soát chi của KBNN đã làm thay đổi căn bản cách nghĩ, thói quen sử dụng, chi tiêu NSNN, các cấp có thẩm quyền quan tâm hơn đến công tác phê duyệt và phân bổ dự toán chi NSNN. Nếu trước đây việc duyệt, phân bổ dự toán NSNN chỉ là những con số tổng hợp, thì nay đã đảm bảo dự toán chi tiết đến từng khoản mục chi cụ thể theo mục lục NSNN hiện hành. Việc duyệt và phân bổ dự toán NSNN ngày một tốt hơn về mặt thời gian. Các đơn vị dự toán NSNN đã lập dự toán chi tiết hơn, ngày càng sát hơn với nhu cầu chi tiêu thực tế; chấp hành tốt hơn công tác quản lý tài chính, đặc biệt là việc chấp hành biên chế quỹ lương được duyệt, nguyên tắc đấu thầu khi mua sắm, chấp hành đúng chế độ hoá đơn chứng từ, giảm hẳn tình trạng chi tiêu lãng phí, tuỳ tiện, sai chế độ… kinh phí NSNN. Thủ trưởng đơn vị sử dụng Ngân sách với tư cách là người chuẩn chi đã thấy được trách nhiệm của mình khi quyết định chi tiêu.
Thông qua kiểm soát chi NSNN, KBNN Hoàn Kiếm đã phát hiện nhiều khoản chi sai mục đích, không đúng chế độ tiêu chuẩn, định mức của đơn vị sử dụng NSNN. Kết thúc năm ngân sách, hạn mức kinh phí còn lại của các đơn vị đã bị huỷ bỏ do các khoản chi không đúng chế độ, định mức qui định.
Dưới đây là bảng báo cáo tóm tắt về tình hình từ chối thanh toán qua kiểm soát tại KBNN Hoàn Kiếm trong 3 năm 2003, 2004, 2005.
ò Bảng 1: Tình hình từ chối thanh toán qua kiểm soát tại KBNN Hoàn Kiếm 2003, 2004, 2005.
Đơn vị: Triệu đồng.
Diễn giải
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Đv TH sai quy định
35
28
21
80%
75%
Số món
39
30
22
76.9%
73.3%
Số tiền
1560
1117
465
71.6%
41.6%
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Theo số liệu bảng 1 cho thấy năm 2003 Kho bạc từ chối thanh toán 39 món với tổng số tiền là 1560 triệu đồng, năm 2004 từ chối thanh toán 30 món với tổng số tiền là 1117 triệu đồng, năm 2005 từ chối thanh toán 22 món với tổng số tiền là 465 triệu đồng. Như vậy số tiền từ chối thanh toán tại KBNN Hoàn Kiếm sau khi cán bộ kiểm soát thủ tục cấp phát thanh toán vốn có xu hướng giảm dần trong năm 2003 và giảm mạnh trong năm 2005. Điều này cho thấy tác dụng của công tác kiểm soát chi chặt chẽ tại KBNN Hoàn Kiếm đã nâng cao ý thức trách nhiệm thực hiện đúng chính sách, chế độ, thủ tục cấp phát thanh toán do Nhà nước và Bộ tài chính qui định, tạo ra một môi trường hoạt động lành mạnh, hiểu biết pháp luật của các cán bộ kế toán ở các đơn vị thụ hưởng ngân sách.
Bên cạnh đó, nhờ có công tác kiểm soát chi, cơ quan tài chính đã chủ động hơn trong việc điều hành NSNN, giảm bớt tình trạng căng thẳng giả tạo cho ngân sách. Tồn quĩ ngân sách các cấp luôn được đảm bảo, chủ động luôn đáp ứng các yêu cầu chi thường xuyên cũng như chi đột xuất. Đã từng bước ngăn chặn tình trạng rút kinh phí cuối năm của các đơn vị sử dụng NSNN, dẫn đến kết quả là các đơn vị buộc phải thực hiện chi tiêu theo kế hoạch dự toán được duyệt trong năm, không để dồn kinh phí chi tiêu vào những tháng cuối năm. Do vậy KBNN đã góp phần quản lý chi tiền mặt, quản lý phương tiện thanh toán, tăng cường sử dụng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán trực tiếp tới người cung cấp hàng hoá, dịch vụ, góp phần làm lành mạnh hoạt động hoá tiền tệ, thanh toán…
Dưới đây là bảng tóm tắt về tình hình chi NSNN qua KBNN Hoàn Kiếm trong 3 năm trở lại đây.
Qua bảng 2 ta thấy NSTW luôn chiếm một tỷ lệ khá cao trong tổng NSNN năm 2003 chiếm tới 71.7%, năm 204 chiếm 70.8%, năm 2005 chiếm 68.4% sở dĩ là như vậy vì Hoàn Kiếm là một quận trung tâm của thành phố, là nơi đặt các cơ quan trung ương, chỉ đạo của Đảng và Chính phủ. Còn ngân sách thành phố, ngân sách quận huyện, ngân sách xã phường đều tăng nhưng tăng chậm và ổn định. Cụ thể ngân sách thành phố trong năm 2003 và năm 2004 chiếm tới 11.2% so với tổng chi NSNN, năm 2005 chiếm 11.7% so với tổng chi NSNN. Ngân sách Quận huyện năm 2003 chiếm tới 14.2% so với tổng chi NSNN, năm 2004 chiếm tới 15% so với tổng chi NSNN, năm 2005 chiếm tới 16.5% so với tổng chi NSNN; Ngân sách xã phường năm 2003 chiếm tới 2.9% so với tổng chi NSNN, năm 2004 chiếm tới 3% so với tổng chi NSNN, năm 2005 chiếm tới 3.4 % so với tổng chi NSNN.
ò Bảng 2: Tình hình chi NSNN các cấp tại KBNN Hoàn Kiếm.
2003, 2004, 2005
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Chỉ tiêu
Tổng chi NSNN
NSTW
NSTP
NSQH
NSXP
2003
TH
695.743
499.091
78.521
98.901
19.230
%
100%
71.7%
11.2%
14.2%
2.9%
2004
TH
733.926
520.008
82.740
110.351
20.827
%
100%
70.8%
11.2%
15%
3%
2005
TH
%
791.002
100%
541.108
68.4%
92.695
11.7%
130.981
16.5%
26.216
3.4%
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
2.2.2 Công tác kiểm soát một số khoản chi chủ yếu.
2.2.2.1 Kiểm soát chi lương, phụ cấp lương.
Việc kiểm soát khoản chi lương được KBNN Hoàn Kiếm tổ chức thực hiện chặt chẽ theo qui trình (“Cẩm nang kiểm soát chi của NSNN”) từ đầu năm ngân sách, hàng quý, hàng tháng và khi phát sinh nghiệp vụ chi lương, phụ cấp. Cán bộ kiểm soát chi tại KBNN Hoàn Kiếm cũng đã tham gia cùng với cơ quan tài chính và cơ quan quản lý có thẩm quyền kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí NSNN về chi lương và phụ cấp lương, đối chiếu, so sánh và kiểm tra sự phù họp của các giấy tờ có liên quan, nếu có sự sai lệch thì tiến hành xác minh rõ.
Cụ thể, cán bộ kiểm soát tại KBNN khi phát sinh nhiệm vụ chi lương, phụ cấp lương đã tiến hành các yếu tố sau đây: bản đăng ký biên chế, quỹ lương. bản kê danh sách công nhân viên chức…
ò Bảng 3: Tình hình kiểm soát chi lương và phụ cấp tại kho bạc Hoàn Kiếm (2003, 2004, 2005).
Đơn vị: Triệu đồng.
Năm
Lương
Tiền công
Phụ cấp
Tổng
2003
95.320
8.987
15.450
119.757
2004
98.232
9.410
18.200
125.842
2005
104.755
10.086
20.146
134.987
2004/2003
103.05%
104.81%
117.7%
105.08%
2005/2004
106.6%
107.18%
110.69%
107.26
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005.
Qua quá trình kiểm soát chi lương và phụ cấp lương ở quận Hoàn Kiếm ta thấy một số vấn đề chính sau:
Hằng năm KBNN Hoàn Kiếm tiến hành kiểm soát khoảng 172 tỷ đồng tiền lương và phụ cấp đó là một khoản lớn, chiếm tỷ trọng không nhỏ trong các khoản chi thường xuyên trên địa bàn quận. Tuy nhiên kết quả kiểm soát cho thấy số trường hợp vi phạm quy định không được thanh toán rất nhỏ thường chiếm tỷ lệ trong khoảng 1% tổng số tiền bị từ chối thanh toán của KBNN Hoàn Kiếm. Sở dĩ có kết quả đó là do khoản chi lương đã được quy định rất rõ ràng về thủ tục như vậy khi các đơn vị thực hiện sẽ rất dễ dàng nhưng chặt chẽ về chế độ định mức nên đơn vị thụ hưởng ít bị sai sót và không có khả năng rút ruột NSNN. Kết quả này được thể hiện được thể hiện trong bảng dưới đây.
ò Bảng 4 : Tình hình từ chối thanh toán lương, phụ cấp tại KBNN Hoàn Kiếm (2003, 2004, 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Đơn vị thực hiện sai
6
4
3
Số món tiền
9
5
4
Số tiền
70 triệu
42 triệu
27 triệu
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005.
Bảng trên cũng cho thấy xu hướng giảm dần của đơn vị thực hiện chi sai hoặc thủ tục đã được cán bộ kiểm soát phát hiện được. Qua đó việc thực hiện nghiêm túc các qui định đã được các đơn vị chú trọng hơn.
Thông qua việc kiểm soát các khoản chi lương và phụ cấp tiền công, KBNN Hoàn Kiếm thường xuyên cung cấp kịp thời số liệu tình hình chi lương trên địa bàn giúp cơ quan tài chính, cơ quan chủ quản, chính quyền kịp thời nắm bắt diễn biến quỹ lương, số biên chế ngành đơn vị mình quản lý để điều chỉnh cho phù hợp.
Cụ thể kiểm soát các điều kiện thanh toán như sau:
Về nguồn vốn và hạn mức cho chi lương:
Trên địa bàn có trường hợp vốn cấp cho lương được cấp chậm, có khi vào cuối tháng hay cuối quý, ảnh hưởng đến việc trả lương cho cán bộ công nhân viên công tác trên địa bàn.
Việc cấp lương, do một số lý do khách quan và chủ quan có một số trường hợp cấp thiếu có khi đến vài biên chế buộc các đơn vị phải xin cấp bổ sung. Nhưng khi dự toán và hạn mức cho chi lương đã duyệt xong cấp trên chỉ còn cách cấp vào mục 134- chi khác trong khi đơn vị không thể lấy mục 134 để chi lương. Do vậy bản thân đơn vị lại tiếp tục linh hoạt trong chi tiêu để được thanh toán lương cho các cá nhân trong đơn vị.
Về công tác chi phụ cấp tại các đơn vị cho thấy tình hình tương tự giống với chi lương: dự toán được duyệt chi cho phụ cấp và thanh toán ngoài giờ cho cán bộ trên địa bàn quận thường thiếu, không đủ cấp cho đơn vị do vậy đơn vị thường xuyên phải xin cấp bổ sung hoặc thanh toán vào mục khác làm cho thực chi mục phụ cũng tăng nhiều so với dự toán.
Về kiểm soát chi tiền công tại KBNN Hoàn Kiếm cho thấy tình trạng thực chi tiền công thường lớn hơn so với dự toán nên lúc đề nghị thanh toán quỹ tiền công của đơn vị thiếu gây khó khăn cho đơn vị trong quá trình thanh toán tiền công cho công nhân hoặc gây nợ đọng tiền công trên chứng từ còn thực tế đơn vị khi muốn đảm bảo hoạt động được thông suốt đã sử dụng sai nguồn để chi, lấy nguồn khác để chi tiền công rồi cuối năm điều chỉnh từ mục thừa sang mục thiếu. Tuy việc điều chỉnh này là hợp pháp vì mục tiền công 101 không nằm trong mục không được điều chỉnh ( có 9 mục chi không được điều chỉnh là 100, 102, 103, 104, 110, 117, 118, 119, 145) nhưng đây cũng là một vấn đề cần được giải quyết trong thời gian tới.
Về việc thực hiện chứng từ, văn bản đề nghị thanh toán:
Thực tế cho thấy ít có trường hợp thiếu hay sai hồ sơ, chứng từ đề nghị thanh toán lương ( thông thường chỉ có 3-4 trường hợp thiếu hồ sơ chứng từ), hầu hết các đơn vị đều đảm bảo tốt qui trình, số trường hợp thiếu sót là do cán bộ một số đơn vị mới chuyển công tác hoặc chưa quen việc nên còn thiếu kinh nghiệm. Với những trường hợp trên cán bộ kiểm soát đã nhiệt tình hướng dẫn đơn vị hoàn thành thủ tục để sớm được thanh toán.
Tóm lại công tác kiểm soát chi lương đã được các đơn vị thụ hưởng cũng như KBNN Hoàn Kiếm thực hiện rất bài bản.
2.2.2.2 Kiểm soát chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ làm việc…
ò Đối tượng kiểm soát bao gồm:
Mục 110: Văn phòng phẩm.
Mục 144: Mua bằng sáng chế, mua bản quyền nhãn hiệu thương mại, mua phần mềm máy tính, các tài sản vô hình khác có phục vụ cho công tác chuyên môn.
Mục 145: Các loại tài sản cố định có giá trị từ 5 triệu đồng trở lên phục vụ công tác chuyên môn.
Ngoài ra, nhiệm vụ mua sắm này có thể phát sinh ở mục 119. Trong đó các mục 144, 145 thuộc chi đầu tư phát triển còn 110, 119 thuộc chi thường xuyên.
Tại KBNN Hoàn Kiếm, các nhiệm vụ chi này phát sinh qua các mục 110, 119, 145. Cán bộ kho bạc đã tiến hành kiểm soát chặt chẽ các mục trên cho cả 4 cấp ngân sách từ NSTW đến NSXP.
Quy trình kiểm soát các khoản chi này được cán bộ KBNN Hoàn Kiếm thực hiện nghiêm túc theo qui định chung (“Cẩm nang kiểm soát chi NSNN”), từ khâu nhận hồ sơ xin thanh toán, kiểm tra điều kiện thanh toán đến chi trả cho các đơn vị thụ hưởng NSNN.
ò Bảng 5: Tình hình kiểm soát chi mua sắm trang thiết bị dụng cụ phương tiện làm việc (2003, 2004, 2005)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Mục 110
8.545
8.720
9.127
102.04%
104.66%
Mục 145
82.120
85.230
87.137
103.78%
102.23%
Mục 144
3.090
3.282
3.544
106.21%
107.98%
Mục 119
215.303
238.001
250.206
110.54%
105.128%
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Bảng trên cho thấy tình hình chi các khoản chi mua sắm trang thiết bị, dụng cụ làm việc trong 3 năm gần đây có xu hướng tăng. Mục 110- văn phòng phẩm ta thấy năm 2004 tăng 2.04% so với năm 2003, còn năm 2005 tăng 4.67% so với năm 2004. Mục 145- Mua sắm tài sản dùng cho công tác chuyên môn thì năm 2004 tăng 3.78% so với năm 2003, năm 2005 tăng 2.23% so với năm 2004. Mục 144- Mua tài sản vô hình năm 2004 tăng 6.2% so với năm 2003, năm 2005 tăng 7.98% so với năm 2004; Mục 119-Chi phí nghiệp vụ chuyên môn của từng ngành năm 2004 tăng 10.5% so với năm 2003, năm 2005 tăng 5.128% so với năm 2004; Thực tế trên có thể giải thích vì Hoàn Kiếm là một quận lớn có nhiều cơ quan trung ương quan trọng của Chính Phủ nên nhu cầu chi tiêu mua sắm các trang thiết bị bao giờ cũng nhiều hơn các quận khác.
Mặt khác tình hình từ chối thanh toán mua sắm trang thiết bị qua KBNN Hoàn Kiếm (2003, 2004, 2005) đã giảm tương đối được thể hiện trong bảng sau đây:
ò Bảng 6: Tình hình từ chối thanh toán mua sắm trang thiết bị máy móc qua KBNN Hoàn Kiếm (2003, 2004, 2005)
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
Đơn vị thực hiện sai
20
15
11
Số món
22
18
13
Số tiền
1.235 triệu
925 triệu
345 triệu
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005.
Thông qua công tác kiểm soát các khoản chi mua sắm đồ dùng, trang thiết bị, phương tiện, dụng cụ làm việc tại quận Hoàn Kiếm cho thấy đây là mục chi có nhiều vấn đề nhất, lý do vì chế độ, tiêu chuẩn của các khoản chi này còn có nhiều điều kiện để các đơn vị thụ hưởng NSNN có thể lách luật; thủ tục hoàn thành đề nghị chi còn phức tạp nên các đơn vị hay có tình trạng đối phó để nhanh chóng được thanh toán; số tiền thanh toán cho các mục chi này thường lớn là mục tiêu cho các đơn vị chi sai mà nhiều khi KBNN không thể kiểm soát được hết.
Về hồ sơ chứng từ thanh toán:
Một số đơn vị không hoàn thành đủ số hồ sơ cần thiết, hoặc không kê khai đầy đủ để được thanh toán tại KBNN buộc KBNN phải hướng dẫn cụ thể về thủ tục mới tiến hành cấp phát được, điều này làm ảnh hưởng đến hoạt động của các đơn vị. Ví dụ như khoản mua sắm trong hợp đồng nếu không ghi rõ nguồn gốc xuất xứ của nguồn hàng thì cán bộ kiểm soát không thanh toán, vì theo qui định chỉ khi mua hàng hoá đã có sản xuất trong nước hoặc mua hàng xuất khẩu mà trong nước không sản xuất được hoặc được sự cho phép của cơ quan chủ quản thì mới được thanh toán, ngoài ra thì không thanh toán mua sắm nhập ngoại khác.
Đối với các tài sản giá trị từ 200 triệu đồng trở lên thì phải có chào hàng (đấu thầu), trong khi nhiều đơn vị lại không thực hiện đúng, muốn được thanh toán qua KBNN, đơn vị đã tách ra thành nhiều khoản chi nhằm lách qui định, tránh thủ tục đấu thầu tốn kém và mất nhiều thời gian.
Một số đơn vị làm đầy đủ thủ tục để được thanh toán các khoản chi mua sắm nào đó, trong khi đó tại đơn vị thì lại dùng vào mục đích khác. Hiện nay chưa có văn bản nào qui định trách nhiệm cho KBNN được quyền kiểm tra số thiết bị, máy móc mua về có xác thực theo hoá đơn đề nghị thanh toán hay không, do vậy, việc chi tiêu này có hiệu quả và đúng đắn hay không thì phụ thuộc khá nhiều vào sự tự giác và nghiêm chỉnh của cán bộ đơn vị mà đứng đầu là người chuẩn chi. Vấn đề này cần được xem xét trong quá trình thanh tra tài chính làm việc tại các đơn vị nhằm hỗ trợ thêm cho công tác kiểm soát chi tại KBNN.
Thời gian gần đây, các khoản chi được thực hiện ngày càng chặt chẽ hơn. Chính nhờ sự cố gắng phấn đấu thực hiện nghiêm chỉnh của KBNN Hoàn Kiếm cùng với sự phối hợp của cơ quan tài chính, cơ quan đơn vị có liên quan nên đã tạo ra kết quả như trên, đồng thời còn nâng cao ý thức chấp hành luật NSNN và tinh thần trách nhiệm của các đơn vị thụ hưởng NSNN.
2.2.2.3 Kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng nhỏ.
ò Đối tượng kiểm soát bao gồm các khoản chi sửa chữa thường xuyên (mục 117) và các khoản chi sửa chữa lớn (mục 118) như sửa chữa tài sản cố định, cải tạo xây dựng nhỏ, chi mua trang thiết bị kỹ thuật chuyên dụng, máy vi tính, thiết bị phòng cháy, chữa cháy, công trình văn hoá, công viên, thể thao, các công trình cơ sở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi.
ò Bảng 7 : Tình hình kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng nhỏ.
(2003, 2004, 2005)
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
2003
2004
2005
2004/2003
2005/2004
Tổng cộng
37.202
39.757
45.822
1.06
1.15
SC và XD thường xuyên
11.002
12.232
14.888
111.1%
121.7%
Tỷ trọng
29.5%
30.7%
32.5%
SC lớn TSCĐ
26.200
27.525
30.934
105.05%
112.38%
Tỷ trọng
70.5%
69.3%
67.5%
Nguồn : Báo cáo tình hình hoạt động của Kho bạc Hoàn Kiếm năm 2003,2004,2005
Việc kiểm soát chi sửa chữa và xây dựng đã được tiến hành như sau:
Đối với giai đoạn kiểm soát trước khi chi KBNN Hoàn Kiếm đã tiến hành kiểm soát dự toán năm, quý được duyệt, thiết kế dự toán được phê duyệt, các hồ sơ đấu thầu ( với công trình hạn mục từ 500 triệu đồng trở lên), các hợp đồng kinh tế giữa đơn vị sử dụng và đơn vị thi công làm căn cứ xác thực cho việc thực hiện thi công.
Riêng đối với các khoản sửa chữa xây dựng nhỏ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 36279.doc