Theo khoản 5 điều 474 của Bộ Luật dân sự quy định: Trong trường hợp mà
khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi nợ
gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhànước công bố tương
ứng với thời hạn tại thời điểm trả nợ.
Điều 476 thì lại quy định: Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không
được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhànước công bố đối với
loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi
nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhànước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời
điểm trả nợ. Theo các quy định này thì lãi suất huy động và lãi suất cho vay (vay
và cho vay) của các tổ chức tín dụng được ấn định trên cơ sở và ràng buộc chặt
chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhànước công bố.
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3445 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong hợp đồng tín dụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và phù hợp với pháp luật về phương án sản xuất kinh doanh,
phương án sử dụng vốn, chứng từ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu tài sản bảo
đảm hoặc quyền sử dụng đối với bất động sản. Còn việc thẩm định các phương án
sản xuất kinh doanh đó là việc của người cho vay chứ không phải là nghĩa vụ của
người vay. Vì thế trong chừng mực nào đó tổ chức tín dụng bắt buộc người vay
trả các chi phí nêu trên là không hợp lý và cũng không phù hợp với quy định của
pháp luật. Chẳng hạn; tại khoản 2 điều 8 Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày
29/12/1999 về bảo đảm tiền vay cho tổ chức tín dụng: “Đối với tài sản bảo đảm
tiền vay không phải là quyền sử dụng đất thì việc xác định giá trị tài sản bảo đảm
tiền vay do các bên thỏa thuận hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác
định trên cơ sở giá trị thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại
giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách
kế toán và các yếu tố về giá khác”. Từ quy định này ta thấy, rõ ràng đối với những
loại tài sản là động sản nếu không thỏa thuận được giá trị thì các bên có quyền
thuê tổ chức thứ ba đứng ra định giá tiền thuê này cũng do các bên thỏa thuận trả.
Do đó, nếu khách hàng vay không chấp nhận việc định giá của tổ chức tín dụng
thì lúc đó chi phí cho việc định giá mới được đặt ra cho khách hàng vay.
Thứ ba, tổ chức tín dụng và khách hàng thỏa thuận giải ngân một lần và
khách hàng sẽ hoàn trả vốn cộng lãi suất hàng tháng, thì việc tổ chức tín dụng tự
động ứng trước tiền lãi mà đáng lẽ ra khách hàng phải trả vào một khoản thời gian
sau nữa. Rõ ràng đây là cách hành xử trái quy định của pháp luật vi phạm nghĩa
vụ đã cam kết trong hợp đồng. Mặt khác, với việc không quy định cụ thể thời gian
giải ngân có thể là một hạn chế lớn của hợp đồng tín dụng. Ta biết rằng giải ngân
là nghĩa vụ cơ bản nhất của người cho vay trong trường hợp này tổ chức tín dụng
có giải ngân thì các nghĩa vụ khác của khách hàng mới phát sinh. Về lý thuyết thì
như vậy nhưng thực tiễn nếu tổ chức tín dụng giải ngân chậm so với thời gian cam
kết trong hợp đồng thì tổ chức tín dụng có bị phạt do vi phạm hợp đồng này hay
không? Vì việc giải ngân chậm cũng ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của họ
thậm chí có thể bị thiệt hại do sự chậm trễ đó gây ra. Ngoài ra nếu khách hàng vay
tiếp tục thực hiện hợp đồng thì khả năng sử dụng tiền vay không đúng mục đích
như thỏa thuận ban đầu là rất cao và đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro hoạt động tín dụng ngân hàng hay nói chính xác hơn nhiều tranh
chấp hợp đồng tín dụng có nguồn gốc từ các lý do trên.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 29
Tóm lại, giải ngân là nghĩa vụ cơ bản nhất của tổ chức tín dụng. Tuy nhiên
trên thực tế nghĩa vụ này không được các tổ chức tín dụng thực hiện một cách đầy
đủ biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau mà khách hàng vay không phát hiện
hoặc cho rằng mình đang cần vốn nên sẳn sàng chấp nhận cách giải quyết đó của
tổ chức tín dụng. Đây là yếu tố dẫn đến tranh chấp trong quan hệ này là khách
hàng vay và tổ chức tín dụng liên quan đến hợp đồng tín dụng giữa hai bên.
1.2.2 Vấn đề tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng liên quan đến
thanh toán nợ gốc và lãi suất.
Về mặt pháp lý ở nước ta vấn đề tranh chấp hợp đồng tín dụng nói chung
luôn là vấn đề phức tạp. Nó phức tạp không chỉ từ chính các chủ thể tham gia
trong quan hệ đó mà còn từ chính các quy định của pháp luật trong việc điều
chỉnh các quan hệ đó cụ thể là pháp luật về hợp đồng để sao cho hợp đồng được
thiết lập chặt chẽ, đúng luật và hiệu quả khi nó được áp dụng thực tế. Giải quyết
được vấn đề này chắc chắn tranh chấp hợp đồng tín dụng sẽ được hạn chế tối đa.
Về bản chất hợp đồng tín dụng giữa một bên là tổ chức tín dụng (bên cho
vay) và bên còn lại là khách hàng vay (bên đi vay) chính là hợp đồng vay tài sản
mà đối tượng vay ở đây là một lượng tiền tệ nhất định. Hợp đồng tín dụng giữ vai
trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội. Do hợp đồng tín dụng có tác động rất
lớn đến đời sống kinh tế- xã hội. Có rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật được
ban hành để điều chỉnh những vấn đề liên quan đến hợp đồng tín dụng như: Bộ
Luật dân sự 2005, Luật các tổ chức tín dụng đã được sửa đổi, bổ sung 2004, Luật
Ngân hàng Nhà nước các văn bản dưới Luật trực tiếp quy định cho hoạt động tín
dụng như: Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 về bảo đảm tiền vay của
tổ chức tín dụng; Thông tư số 06/2000/TT-NHNN1 ngày 04-04-2000 của Ngân
hàng Nhà Nước hướng dẫn thi hành nghị định 178; Nghị định số 85/2002/NĐ-CP
ngày 25-10-2002 sửa đổi, bổ sung nghị định 178; quyết định số 1627/2001/QĐ-
NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày 31-12-2001 về việc
ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Gần đây văn
bản này tiếp tục bị sửa đổi, bổ sung một số điều bởi quyết định số 127/2005/QĐ-
NHNN ngày 03-02-2005 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà Nước. Thông tư số
03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BTC-BCA-TCĐC ngày 23-04-2001 hướng dẫn việc
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng….
Mặc dù có rất nhiều quy định điều chỉnh cho hoạt động tín dụng nhưng tranh chấp
hợp đồng tín dụng vẫn xảy ra từ chính các quy định này, chẳng hạn:
Nguyên nhân của tranh chấp hợp đồng tín dụng do không hoàn thành
nghĩa vụ trả nợ, lãi suất do từ các các quy định của Bộ Luật Dân Sự 2005.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 30
Theo khoản 5 điều 474 của Bộ Luật dân sự quy định: Trong trường hợp mà
khi đến hạn bên vay không trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi nợ
gốc và lãi nợ quá hạn theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương
ứng với thời hạn tại thời điểm trả nợ.
Điều 476 thì lại quy định: Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không
được vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với
loại cho vay tương ứng. Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi
nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại thời
điểm trả nợ. Theo các quy định này thì lãi suất huy động và lãi suất cho vay (vay
và cho vay) của các tổ chức tín dụng được ấn định trên cơ sở và ràng buộc chặt
chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Theo quy định tại khoản 9, điều 12 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
thì lãi suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các
tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Tổng hợp các quy định trên ta thấy rằng: Lãi suất cho vay trong hạn lớn
hơn lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố và chỉ không được vượt quá
150%, trong khi đó lãi suất áp dụng đối với khoản vay quá hạn theo quy định tại
khoản 5 điều 474 thì tối đa chỉ bằng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công
bố. Qua đó ta thấy, quy định về lãi suất của Bộ luật dân sự không còn phù hợp với
nguyên tắc trên thị trường tín dụng là các khoản vay quá hạn phải bị phạt với mức
lãi suất cao hơn so với các khoản vay trong hạn. Do đó, nếu các tổ chức tín dụng
áp dụng lãi suất nợ quá hạn bằng lãi suất cơ bản thì vô hình trung tạo điều kiện
cho khách hàng chậm trả nợ vay ngân hàng để hưởng mức lãi suất nợ quá hạn
thấp hơn so với lãi suất trong hạn. Khách hàng uy tín trả đúng hạn thì lại trả lãi
suất cao hơn khách hàng trả nợ quá hạn.
Mặt khác, quy định về lãi suất như thế này chỉ được áp dụng đối với hợp
đồng vay tài sản là không hợp lý gây nhiều khó khăn vướng mắc cho việc huy
động và cho vay của các tổ chức tín dụng. Theo các Ngân hàng đây là một kiểu
ràng buộc lãi suất mang tính mệnh lệnh hành chính gây khó khăn cho hoạt động
tín dụng của các tổ chức tín dụng.
Quy định trên nếu áp dụng trong giao dịch bên ngoài ngân hàng thì có thể
góp phần hạn chế tối đa tình trạng cho vay nặng lãi trong xã hội, song nếu áp
dụng trong lĩnh vực ngân hàng có thể nảy sinh nhiều bất cập.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 31
Theo các quy định về lãi suất như trên, thì lãi suất huy động và lãi suất cho
vay (vay và cho vay) của các tổ chức tín dụng được ấn định trên cơ sở và ràng
buộc chặt chẽ về mặt pháp lý với lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố.
Theo quy định tại khoản 9 Điều 12 của Luật Ngân hàng Nhà nước thì Lãi
suất cơ bản là lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức
tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.
Loại ý kiến đề nghị xem xét lại các quy định nói trên của Bộ Luật Dân sự
cho rằng, Điều 476 áp dụng đối với lãi suất cho vay trong hạn lớn hơn lãi suất cơ
bản do Ngân hàng Nhà nước công bố và không vượt quá 150%; Trong khi đó, lãi
suất áp dụng đối với các khoản vay quá hạn theo quy định tại khoản 5 Điều 474
thì tối đa chỉ bằng lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố. Qua đó cho
thấy, quy định về lãi suất của Bộ luật Dân sự không phù hợp với nguyên tắc trên
thị trường tín dụng là các khoản vay quá hạn phải bị phạt với lãi suất cao hơn so
với các khoản vay trong hạn. Do đó, nếu các tổ chức tín dụng áp dụng lãi suất nợ
quá hạn bằng lãi suất cơ bản thì khách hàng vay sẽ có xu hướng chậm trả nợ vay
ngân hàng để hưởng mức lãi suất nợ quá hạn thấp hơn so với lãi suất vay trong
hạn và điều này có thể ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng và hiệu quả hoạt
động của các tổ chức tín dụng.
Trên thực tế, lãi suất cho vay của các Ngân hàng thương mại được hình
thành trên cơ sở thỏa thuận với khách hàng, cộng với chi phí và tỷ lệ rủi ro. Áp tỷ
lệ nhất định như Bộ Luật Dân Sự vô hình trung tạo ra một kiểu lãi suất trần,
khống chế đầu ra của các tổ chức tín dụng, ngược với chủ trương tự do hoá lãi
suất mà Ngân hàng Nhà nước thực hiện.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất hình thành trên cơ sở cung cầu và
cạnh tranh tự do. Quy định như vậy quá gò bó, có thể gây xung đột về mặt lãi
suất13.
Cụ thể hơn, lãi suất cơ bản được Ngân hàng Nhà nước công bố hằng tháng,
hiện giữ mức 8,25%/năm. Nếu chiếu theo quy định trong Bộ luật Dân Sự 2005,
những trường hợp cho vay với lãi suất trên 12,375%/năm sẽ gặp rắc rối trước
pháp luật. Khi tranh chấp xảy ra, các tổ chức tín dụng có thể không thu được tiền
lãi từ hợp đồng tín dụng có mức lãi suất cho vay vượt quy định và thỏa thuận cho
vay có thể bị vô hiệu hoá.
13 Tổng giám đốc Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB) Vũ Viết Ngoạn cho
biết.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 32
Lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại, nhất là khối cổ phần, đang
ngấp nghé mức 12-13%/năm, cá biệt có trường hợp lên tới 14%/năm thậm chí lớn
hơn.
Mặt khác, trong các hợp đồng tín dụng, ngân hàng và khách hàng thường
thỏa thuận một mức phạt nhất định nếu chậm trả lãi và gốc, tối đa có thể lên tới
150% lãi suất cho vay. Song quy định về lãi suất cho vay trong Bộ luật Dân Sự
không nêu rõ đã bao gồm lãi suất phạt hay chưa.
Hiện mỗi ngân hàng đều có hàng chục sản phẩm tín dụng khác nhau, với
các kỳ hạn ngắn, trung và dài. Bộ luật Dân Sự thì quy định lãi suất cho vay không
được cao hơn 150% so với lãi suất cơ bản của loại vay tương ứng. Trong khi đó,
Ngân hàng Nhà nước chỉ có duy nhất một loại lãi suất cơ bản và chỉ là mức lãi
suất gợi ý cho vay tốt nhất, chứ không áp dụng cụ thể cho loại hình vay nào.
Tóm lại, quy định của pháp luật về lãi suất cho vay như thế là không phù
hợp với chủ trương tự do hóa lãi suất cho vay mà ngân hàng đang phấn đấu thực
hiện và có thể vi phạm cơ chế lãi suất tự do thỏa thuận mà chính phủ chỉ đạo các
Ngân hàng thực hiện từ tháng 06/2002 đến nay. Đây có thể là một trong những
vấn đề gây khó khăn nhất trong hoạt động tín dụng mà vướng mắc này có có thể
dẫn đến tranh chấp về lãi suất giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay một khi tổ
chức tín dụng đưa ra lãi suất cho vay quá cao so với lãi suất được quy định trong
Bộ Luật Dân Sự. Các chuyên gia pháp lý cho rằng về lâu dài chắn chắn điều 476
phải được sửa đổi. Hiện tại Quốc Hội cũng đang lấy ý kiến về việc sửa đổi điều
Luật này.
1.2.3 Vấn đề tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng liên quan đến
thỏa thuận về bảo đảm thanh toán và xử lý nợ tín dụng.
Ta biết rằng việc bảo đảm thanh toán là một biện pháp nhằm hạn chế tối đa
rủi ro cho các tổ chức tín dụng trong trường hợp khách hàng vay không thể trả nợ.
Đây cũng là một trong những điều kiện quyết định việc cho vay của các tổ chức
tín dụng. Tuy nhiên, để cho vay và mức cho vay cụ thể là bao nhiêu thì còn tùy
thuộc vào giá trị của tài sản bảo đảm thanh toán. Để xác định được giá trị tài sản
bảo đảm thì phải định giá theo quy định của pháp luật.
* Định giá tài sản bảo đảm và thủ tục đăng ký tài sản bảo đảm
Việc định giá tài sản bảo đảm còn nhiều bất cập; quy định của pháp luật
cũng còn sơ sài mà ta biết rằng, giá trị tài sản thế chấp quyết định hạn mức vốn
vay, nếu hai bên không thống nhất được giá trị tài sản thế chấp thì hợp đồng tín
dụng và hợp đồng thế chấp sẽ không được hình thành. Cái khó trong việc xác định
tài sản thế chấp là phải xác định tài sản thế chấp sao cho vừa đáp ứng được nhu
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 33
cầu của khách hàng vừa đảm bảo thu hồi đủ nợ cho tổ chức tín dụng một khi tài
sản thế chấp được đem ra xử lý. Các quy định về định giá tài sản thế chấp luôn
được sửa đổi để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các tổ chức tín dụng và khách
hàng vay nhưng vẫn khó thực hiện trên thị trường biến động về giá này. Đặc biệt,
là sự biến động về giá trên thị trường bất động sản, sự định giá sát thực tế mức độ
nào còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố, từ giá trị hiện tại đường phố diện tích, cấu
trúc, cấp nhà, cơ sở hạ tầng phục vụ (nếu có)…) đến giá trị tương lai trong việc
thay đổi quy hoạch và nâng cấp cơ sở hạ tầng. Những yếu tố luôn thay đổi theo
thời gian và ảnh hưởng trực tiếp đến giá bất động sản, có khi tại thời điểm cho vay
tổ chức tín dụng định giá cao vì giá thị trường cao nhưng khi xử lý tài sản bảo
đảm để thu hồi nợ thì thấp hơn khoản đã chi cho vay chưa kể đến lãi suất và tiền
phạt nợ quá hạn.
Theo nghị định 178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay cho tổ chức tín dụng
thì có quy định cách xác định giá trị tài sản bảo đảm. Việc quy định giá trị tài sản
bảo đảm có thể do thỏa thuận của hai bên hoặc theo tổ chức định giá chuyên
nghiệp. Thế nhưng, người có tài sản đem thế chấp vẫn chưa được hưởng quyền
xác định giá trị tài sản thế chấp theo thị trường. Do cán bộ tín dụng khi định giá
tài sản thế chấp trước hết vẫn căn cứ vào bản giá địa phương nơi có tài sản, sau đó
tùy từng trường hợp áp dụng hệ số tăng thêm. Mà bảng giá được niêm yết tại địa
phương mặc dù đã được nâng lên rất cao so với trước đây nhưng vẫn chưa sát với
giá thị trường, không nói là thấp hơn rất nhiều lần. Hay trường hợp này đất vừa
được quy hoạch thành khu vực đô thị hóa nhưng chủ sử dụng đất nông nghiệp
chưa kịp chuyển đổi thì giá thị trường hiện thời là rất cao nhưng tổ chức tín dụng
vẫn căn cứ vào giá đất nông nghiệp để xác định mức cho vay làm ảnh hưởng đến
quyền lợi của bên vay.
Ngoài ra theo nghị định 85/2002/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định
178/1999/NĐ-CP thì Chính phủ đã giao quyền tự chủ cho phía tổ chức tín dụng
quyết định, xem xét mức cho vay. Việc này phần nào dẫn đến tình trạng tổ chức
tín dụng định giá theo cảm tính hoặc cố nâng giá lên để cho vay theo ý muốn chủ
quan.
Tất cả vấn đề trên là những vướng mắc có thể dẫn đến tranh chấp liên quan
đến hợp đồng tín dụng, việc mâu thuẫn về định giá tài sản thế chấp thông thường
trước khi các bên đi đến ký kết hợp đồng tín dụng hoặc cũng có thể sau khi các
bên đã ký kết hợp đồng tín dụng.
Ta biết rằng quy định về tài sản bảo đảm là rất quan trọng đối với hợp đồng
tín dụng nó có ý nghĩa bảo đảm an toàn cho tổ chức tín dụng một khi khách hàng
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 34
không thể trả thì tổ chức tín dụng sẽ tiến hành xử lý khối tài sản bảo đảm đó để
thu hồi nợ. Tuy nhiên, thực tiễn quy định về bảo đảm tài sản và xử lý tài sản bảo
đảm vẫn còn nhiều điểm bất cập làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể
tham gia vào hợp đồng tín dụng từ đó dẫn đến mâu thuẫn và tranh chấp lại xảy ra.
Chẳng hạn:
Những vấn đề trong thủ tục công chứng, thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm
và việc xử lý tài sản nợ vay đã và đang ảnh hưởng trực tiếp không nhỏ đến quan
hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường
cạnh tranh gay gắt, hầu như mọi hoạt động của tổ chức tín dụng đều lấy tiêu chí
“nhanh”, “gọn” để thu hút khách hàng. Đặc biệt, trong hoạt động tín dụng, nếu
mọi thủ tục được giải quyết nhanh chóng để Ngân hàng cung ứng vốn kịp thời, có
thể mở ra nhiều cơ hội thành công cho khách hàng trong làm ăn, kinh doanh.
Nhiều cán bộ tín dụng cho biết, một số Phòng công chứng chỉ thực hiện hợp
đồng thế chấp, cầm cố tài sản hình thành từ vốn vay sau khi tài sản đã hình thành.
Trong khi đó, đặc điểm của loại hình này là tài sản hình thành từ vốn vay, tức là
tài sản hình thành trong tương lai. Điều này cũng xuất phát từ việc thế chấp, bảo
lãnh bằng tài sản gắn liền với đất hình thành trong tương lai tại Thông tư liên tịch
03/2003/TTLT/BTP-BTNMT ngày 04/07/2003 chưa có quy định cụ thể về vấn đề
này. Nhưng nếu thực hiện như các Phòng công chứng hiện nay thì quyền lợi của
các Ngân hàng sẽ không được bảo đảm trong thời gian tài sản đang hình thành.
Chưa kể, khi công chứng hợp đồng tín dụng, một số Phòng công chứng bắt buộc
ghi cụ thể số hợp đồng tín dụng vào trong hợp đồng đảm bảo tiền vay dẫn đến làm
gián đoạn việc cung cấp vốn Ngân hàng cho khách hàng, gây khó khăn cho Ngân
hàng và khách hàng trong quan hệ tín dụng, đặc biệt là với hình thức tín dụng theo
hạn mức. Theo đó, khi hợp đồng tín dụng hết thời hạn phải thay bằng hợp đồng
tín dụng mới. Điều này không phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh là phải
liên tục thường xuyên. Việc công chứng các phụ kiện hợp đồng đảm bảo tiền vay
nhằm tăng tài sản để tăng hạn mức vay vốn cũng không được các cơ quan công
chứng chấp nhận mà yêu cầu Ngân hàng làm một hợp đồng đảm bảo mới. Trong
khi, khách hàng còn dư nợ Ngân hàng nên không thể giải chấp hợp đồng bảo đảm
cũ để lập hợp đồng bảo đảm mới.
* Xử lý tài sản bảo đảm và thu hồi nợ
Khi các bên ký kết hợp đồng tín dụng thì quyền và nghĩa vụ của các bên bắt
đầu có hiệu lực pháp luật. Các bên phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện các
cam kết của mình. Nếu có một bên vi phạm thì bên kia có quyền yêu cầu chấm
dứt hành vi vi phạm đó hoặc bồi thường thiệt hại do sự vi phạm đó gây ra.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 35
Như vậy, khi các bên xây dựng các điều khoản cơ bản của hợp đồng tín
dụng thì đòi hỏi các bên phải tự nguyện và tôn trọng các cam kết đó. Trong trường
hợp người vay họ vi phạm hợp đồng tín dụng thì phải có trách nhiệm khắc phục
những vi phạm đó. Nếu họ không tự nguyện khắc phục thì phía tổ chức tín dụng
có quyền yều cầu chấm dứt hợp đồng bằng cách thu hồi nợ trước hạn. Tuy nhiên,
với người đi vay với tư cách là con nợ mang nặng trọng trách là sử dụng nguồn
vốn đúng mục đích, hiệu quả thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ cho tổ chức tín dụng,
họ luôn hiểu rằng họ có trả nợ thì sau này tổ chức tín dụng mới có thể tiếp tục cho
vay, vì khách hàng vay đã có “chữ tín” với tổ chức tín dụng. Mặt khác, khi họ
được ngân hàng cho vay đa phần là phải có tài sản bảo đảm tiền vay, để giải
phóng khối tài sản bảo đảm tại tổ chức tín dụng thì khách hàng bắt buộc phải thực
hiện đúng nghĩa vụ của mình là trả nợ gốc và lãi suất (nếu có).
Thế nhưng điều đáng nói là bên còn lại thì thiếu linh hoạt trong quá trình xử
lý vấn đề, mà cứ cứng nhắc giải quyết hoặc ép buộc bên gặp khó khăn phải thực
hiện dù biết rằng bên bị buộc thực hiện không dễ dàng gì thực hiện được các cam
kết trong thời điểm này. Chẳng hạn;
Thứ nhất, trong quá trình thực hiện hợp đồng tín, bên vay (khách hàng vay)
sử dụng số tiền đúng mục đích như đã cam kết trong hợp đồng. Nhưng do yếu tố
khách quan xảy ra mà bên vay không lường trước được sự việc làm cho quá trình
sản xuất kinh doanh phải đình trệ như hàng hoá không bán được, hoa màu bị sâu
bệnh năng suất thấp lại mất giá làm cho khách hàng vay rơi vào tình trạng mất khả
năng thanh toán hợp đồng vay. Trong trường hợp này thay vì tổ chức tín dụng
đứng ra xem xét, đánh giá nguyên nhân khách quan của sự việc, thấy rõ bản chất
của sự việc để điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ hoặc khoanh nợ lại, tạo điều
kiện cho khách hàng vay tái sản xuất để thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ của mình
cho tổ chức tín dụng. Thay vào đó tổ chức tín dụng lại gấp rút yêu cầu khách hàng
giải quyết, thường thì tổ chức tín dụng đưa ra “thời hạn cuối cùng” cho khách
hàng vay trả nợ. Thời hạn cuối cùng mà tổ chức tín dụng đưa ra để buộc khách
hàng vay thanh toán các các khoản nợ vay. Nếu sau thời hạn cuối cùng này mà
khách hàng vay không thanh toán được nợ thì tổ chức tín dụng sẽ áp dụng các
biện pháp để thu nợ. Có thể, đó là các biện pháp đã được thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng hoặc các biện pháp thu hồi hồi nợ theo quy định của pháp luật. Cụ
thể, theo Thông tư số 03/2001/TTLT/NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày
23/04/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các
tổ chức tín dụng.
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 36
Tuy nhiên, khi đã vướng phải những lý do trên thì thời hạn cuối cùng mà
phía cho vay đề ra là không khả thi và cũng không thể thực hiện được. Từ đó, tổ
chức tín dụng cho rằng khách hàng vay đã vi phạm nghiêm trọng hợp đồng và yêu
cầu thu hồi nợ. Rõ ràng đây là cách thu hồi nợ không hợp lý mà cũng chẳng hợp
tình. Nhưng trường hợp như thế đã xảy ra tại nhiều nơi và khiến tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng tín dụng.
Thứ hai, đa số các loại hợp đồng tín dụng điều là hợp đồng mẫu đã được các
tổ chức tín dụng soạn sẳn nên chắc chắn sẽ có những quy định mang lại lợi thế rất
lớn cho tổ chức tín dụng và ngược lại đó là những bất lợi và khả năng xảy ra rủi ro
rất cao cho khách hàng vay.
Trong hợp đồng tín dụng mẫu thường có những điều khoản tạo điều kiện cho
tổ chức tín dụng thu hồi nợ trong mọi trường hợp bất kể xuất phát từ nguyên nhân
khách quan hay chủ quan của bên đi vay trong việc không đảm bảo nghĩa vụ trả
nợ. Ví dụ: Một điều khoản về quyền thu hồi nợ trong hợp đồng tín dụng trung và
dài hạn theo mẫu của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam như sau:
“ Điều 12: Quyền và nghĩa vụ của Ngân hàng
Khoản 7: Chấm dứt việc cho vay theo hợp đồng này và thu hồi nợ trước hạn đối
với toàn bộ dư nợ vay của hợp đồng này khi xảy ra một trong các sự kiện sau:
- Bên vay vi phạm các cam kết hoặc các nghĩa vụ quy định tại: (1) Hợp đồng
này; hoặc (2) các hợp đồng khác mà bên vay ký kết với ngân hàng; (3)
hoặc các văn bản khác mà bên vay gửi đến ngân hàng.
- Bên vay cung cấp cho ngân hàng các thông tin sai lạc về tình hình tài
chính và hoạt động kinh doanh của bên vay, về việc vay vốn và sử dụng
vốn vay.
- Bên vay có nguy cơ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn của bên vay theo hợp đồng này và các thỏa thuận khác bên vay
chủ động nộp hoặc bị các chủ thể khác nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản
doanh nghiệp; bên vay ngừng hoặc đe doạ ngừng toàn bộ hoặc một phần
đáng kể hoạt động của bên vay; Bên vay trong quá trình giải quyết các thủ
tục giải thể chia tách hợp nhất hoặc sáp nhập vào các tổ chức khác.
- Có các vụ kiện hoặc quyết định của toà án hoặc trọng tài trong hoặc ngoài
nước chống lại bên vay và người điều hành của bên vay mà theo ý kiến của
Ngân hàng các sự kiên đó có khả năng dẫn đến thay đổi đáng kể đến môi
trường kinh doanh, hoạt động, tài sản hoặc tài chính của bên vay, hoặc
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của bên vay cho Ngân hàng;
Luận văn tốt nghiệp GVHD: Lê Huỳnh Phương Chinh
SV: Huỳnh Trung Hiếu Trang 37
- Bất kỳ hành động hay sự kiện nào khác với sự kiện trên xảy ra mà theo ý
kiến của ngân hàng có khả năng dẫn đến thay đổi bất lợi đáng kể đến môi
trường kinh doanh, hoạt động, tài sản hoặc tài chính của bên vay, hoặc
ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của bên vay cho Ngân hàng”.
Theo những quy định của điều khoản này thì khách hàng vay là người bất lợi
nhất nếu khách hàng gặp bất kỳ sự kiện nào mà theo ý kiến của ngân hàng cho
rằng sự kiện đó ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh, tài sản hoặc tài chính của
người vay hoặc ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nợ thì Ngân hàng tiến hành
thu hồi nợ. Một điều khoản thể hiện sự chủ quan của Ngân hàng cho thấy tổ chức
tín dụng quá áp đặt và khách hàng vay là người buộc phải tuân thủ theo cách đấy.
Xét về vị thế của người cho vay thì những phân tích trên đây không trái với tâm lý
của
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nhằm hạn chế tranh chấp trong hợp đồng tín dụng.pdf