CẢM TẠ i
TÓM LƯỢT ii
MỤC LỤC iv
DANH SÁCH BẢNG vii
DANH SÁCH HÌNH x
Chương 1: GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 1
Chương 2: LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 3
2.1. Đặc điểm tự nhiên của thành phố Long Xuyên 3
2.2. Hiện trạng sử dụng đất 4
2.3. Tình hình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn thành phố Long Xuyên 4
2.4. Một số mô hình canh tác trong mùa lũ 6
Chương 3: PHƯƠNG TIỆN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 9
3.1. Phương tiện nghiên cứu 9
3.2. Phương pháp nghiên cứu 9
3.3. Phân tích thống kê 9
Chương 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 10
4.1. Phân bố mẫu điều tra ở các phường, xã của Thành Phố 10
4.2. Đặc điểm chung của nông hộ điều tra
81 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1083 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Một số mô hình trồng trọt trong mùa lũ tại thành phố Long Xuyên năm 2004, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ững chương trình tập
huấn kỹ thuật có tỷ lệ là 93,3%, chiếm khá cao so với mô hình trồng rau màu là 53,3%.
Trong khi mô hình trồng rau nhút vì chưa có chương trình nào tổ chức tập huấn về kỹ
thuật canh tác loại cây này nên chỉ có 20,0% chủ hộ tham gia lớp tập huấn nhưng chủ
yếu chỉ là phổ biến kỹ thuật trồng màu và nuôi cá (Bảng 13).
Theo các hộ nông dân đã tham gia tập huấn thì những kỹ thuật được đưa vào
giảng dạy trong nông dân là: kỹ thuật nhân giống, làm lúa giống, IPM, thâm canh lúa
tổng hợp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, cách sử dụng phân, thuốc bảo vệ thực vật, kỹ
thuật trồng rau, sản xuất rau an toàn, Các chương trình này được thực hiện bởi một số
tổ chức như Trạm bảo vệ thực vật, Trạm khuyến nông thành phố Long Xuyên, Trung
tâm hỗ trợ nông dân tỉnh, Hợp tác xã, Viện lúa Đồng Bằng Sông Cửu Long, Sở Nông
Nghiệp, Trường đại học Cần Thơ,
34
4.3.2. Khả năng tiếp cận thị trường của nông hộ
Quyết định của nông hộ trong việc lựa chọn loại cây trồng để sản xuất, phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau được thể hiện trong Bảng 14.
Bảng 14: Tỷ lệ (%) chủ hộ đồng ý chọn các yếu tố để sản xuất và thông tin giá bán
Đơn vị tính: %
Chỉ tiêu Lúa vụ 3 Rau màu Rau nhút
*Các yếu tố
Giá cao 60,0 33,3 33,3
Dễ bán 86,7 86,7 80,0
Có sẵn giống 26,7 13,3 40,0
Hợp đồng với người bán 13,3 13,3 20,0
Kỹ thuật sản xuất 46,7 26,7 33,3
Điều kiện đất đai và nước tốt 46,7 46,7 86,7
*Thông tin giá bán
Thăm dò giá cả ở chợ 0,0 73,3 73,3
Hỏi hàng xóm 53,3 60,0 60,0
Hỏi những người thương buôn 66,7 0,0 0,0
Phần đông các hộ nông dân canh tác lựa chọn loại cây trồng để sản xuất vì nó dễ
bán (có đến 86,7% hộ đồng ý ở mô hình canh tác lúa và rau màu, 80,0% hộ đồng ý ở mô
hình trồng rau nhút). Yếu tố điều kiện đất đai và nước tốt thích hợp cho canh tác cũng
được đa số các hộ nông dân trong 3 mô hình đồng ý, mô hình trồng lúa và trồng rau màu
cùng có 46,7% và mô hình trồng rau nhút là 86,7% hộ đồng ý.
Thông tin giá cả thị trường mà các hộ nông dân canh tác lúa biết được chủ yếu là
từ những người thương buôn chiếm 66,7% và từ hàng xóm là 53,3%. Còn mô hình trồng
rau màu và rau nhút, người dân thăm dò giá cả ở chợ là chủ yếu (chiếm 73,3%) (Bảng
14). Nông dân bán sản phẩm của mình chủ yếu là do được giá và quen biết trước.
35
4.4. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa vụ 3 của các hộ nông dân ở
Thành phố Long Xuyên năm 2004
4.4.1. Kỹ thuật canh tác
Qua điều tra, các giống lúa được nông dân ở thành phố Long Xuyên sử dụng
trong vụ 3 là OM1490 chiếm tỷ lệ 33,33%, Jasmine chiếm tỷ lệ 40,0% và một số giống
khác cùng có tỷ lệ thấp (6,67%) như: 1723OM351, OM2517, OM3536, AG24 (Bảng
15).
Bảng 15: Các giống lúa sử dụng trong canh tác lúa vụ 3 tại thành phố Long Xuyên năm
2004
Giống lúa Số hộ Tỉ lệ (%)
Jasmine 6 40,00
OM1490 5 33,33
1723OM351 1 6,67
OM3536 1 6,67
AG24 1 6,67
OM2517 1 6,67
Tổng số 15
Các giống lúa có thời gian sinh trưởng từ 90 đến 110 ngày, đa số đều là giống
lúa thơm, giống lúa chất lượng cao được nông dân sản xuất chủ yếu là làm giống cho vụ
sau và bán giống cho nông dân khác ở xung quanh. Điều này phù hợp với nhận định của
Mai Thành Phụng (2004) là sản xuất lúa thơm hay nhân giống, bán giống thích hợp cho
sản xuất lúa vụ Thu Đông.
Theo Mai Thành Phụng (2004) thì mật độ sạ từ 100 – 120 kg giống/ha là tốt nhất
(tối đa là 140 kg/ha). Mật độ này tương đương với lượng giống sử dụng của nông dân đã
điều tra trong canh tác lúa vụ 3 ở thành phố Long Xuyên (lượng giống sử dụng trung
bình cho 1 ha diện tích đất canh tác là 124 kg). Với mật độ sạ hợp lý như thế sẽ cho năng
suất và hiệu quả kinh tế cao hơn sạ dày, dễ chăm sóc và ít sâu bệnh. Phần lớn nông dân
sử dụng giống nhà và giá giống trung bình là 3.900 đồng/kg (Bảng 16).
Chuẩn bị đất trước khi gieo trồng như cày, xới, được thực hiện bằng máy
(100%), trang bằng đất có 93,3% hộ trang bằng máy và 6,7% hộ trang đất bằng bò; bờ
ruộng cũng được tu sửa lại chủ yếu được thực hiện bằng tay. Hiện nay máy sạ hàng đang
36
rất phổ biến trong nông dân, giúp giảm lượng giống sử dụng, hạn chế sâu bệnh, cỏ dại
trên đồng ruộng và tăng năng suất lúa. Theo kết quả điều tra có 53,3% hộ sạ lúa bằng
máy sạ hàng; 46,7% hộ sạ lúa bằng tay. Thời điểm nông dân bắt đầu sạ lúa hoặc kéo
hàng là từ tháng 6 đến tháng 7 dương lịch. Khoảng từ 18 ngày sau khi sạ nông dân tiến
hành cấy dặm và tiến hành bơm nước hay xả nước vào ruộng khoảng 6 ngày sau khi sạ
(Bảng 16).
Bảng 16: Các hoạt động trong canh tác lúa vụ 3 của nông dân tại thành phố Long Xuyên
năm 2004
Phương pháp canh tác
(%) hộ
áp dụng Số lượng
Mật độ sạ (kg/ha) 124
Giá giống (đồng/kg) 3.900
Cày, xới đất máy 100
Trang đất máy 93,3
bò 6,7
Sạ lúa kéo hàng 53,3
tay 46,7
Cấy dặm tay 18 NSKS
Bơm nước máy, tay 6 NSKS
Bón phân tay 7 - 12 NSKS
Số đợt bón phân/vụ 3 đến 5 đợt
Xịt thuốc tay 36 NSKS
Số lần xịt thuốc/vụ 1 - 2 lần
Diệt mầm phun thuốc 82,65
Thu hoạch tay 90 - 110 NSKS
Năng suất 5,28 tấn/ha
Phơi lúa 82,35
Sấy lúa 17,65
Ghi chú: NSKS: Ngày sau khi sạ
Nông dân bón phân cho lúa dao động trong khoảng thời gian từ 7 – 12 ngày sau
khi sạ, trung bình nông dân bón từ 3 đến 5 đợt phân/vụ. Đối với phân urê, kali và DAP,
được hầu hết các hộ nông dân sử dụng cho lúa, còn NPK chỉ có 33,3% hộ sử dụng loại
phân này. Trong đó, lượng phân urê sử dụng là 197,3 kg/ha, lượng kali là 89,7 kg/ha,
lượng NPK và DAP sử dụng ở mức trung bình từ 145 kg/ha và 105,1 kg/ha (Bảng 17).
37
Ngoài ra, còn có một số nông dân sử dụng thêm các loại phân khác như KNO3, phân gà,
phân lân.
Bảng 17: Các loại phân bón sử dụng trong canh tác lúa vụ 3 của nông dân ở thành phố
Long Xuyên năm 2004
Sử dụng phân bón Urê Kali NPK DAP Phân khác
Hộ có sử dụng (%) 100 80,0 33,3 93,3 11,8
Hộ không sử dụng (%) 0,0 20,0 66,7 6,7 88,2
Hàm lượng sử dụng (kg/ha)
Trung bình (kg/ha) 197,3 89,7 145,0 105,1 119,3
Nhỏ nhất (kg/ha) 110 30 70 50 8
Lớn nhất (kg/ha) 400 216 300 192 250
Số lần sử dụng/vụ 3,3 1,8 1,8 1,9 1,3
Giá (đồng/kg) 4.145 3.600 4.193 4.900 8.833
Khoảng từ 36 ngày sau khi sạ, nông dân bắt đầu phun thuốc để diệt sâu và trị
bệnh trên lúa. Trung bình phun 1 đến 2 lần/vụ để trị các loại sâu. Một số loại thuốc sâu
được nông dân sử dụng là: Padan, Actara, Motox, Basudin, Regent đỏ (xanh), Sunrice,
Kinalux, Peran,
Qua điều tra cho thấy nông dân cũng phun từ 1 đến 2 lần/vụ để trị bệnh trên lúa,
trong đó số hộ nông dân phun 1 lần chiếm 63,33 và phun 2 lần chiếm 36,67%. Một số
loại thuốc bệnh được nông dân sử dụng như: Tilt super, Rabcide, Fuan, Arrin, Beam,
Adavin, Flash, Tridozole, Folicur, Kasai,
Để diệt và hạn chế các loại cỏ, nông dân cũng tiến hành phun một số thuốc như:
Sofit, Vibuta, Nominee, Sirius, Lincher, Ekill, Số hộ nông dân phun 1 lần chiếm tỷ lệ
cao (93,33%) và phun 2 lần là 6,67%. Đa số các hộ nông có phun thuốc diệt mầm, chiếm
tỷ lệ 82,65% (Bảng 16).
Cắt lúa bằng tay là phương pháp thu hoạch lúa chủ yếu ở các hộ nông dân điều
tra; chỉ có 17,65% hộ sấy lúa sau thu hoạch, còn lại các hộ nông dân khác tiến hành phơi
lúa (Bảng 16).
38
4.4.2. Hiệu quả kinh tế
Trong mô hình canh tác lúa vụ 3 đã điều tra, tổng chi phí mà các hộ nông dân
phải bỏ ra là 5,30 triệu đồng/ha. Trong đó bao gồm chi phí vật tư là 2,80 triệu đồng/ha;
gồm khoản chi về phân, thuốc và giống chiếm tỷ lệ cao nhất trong các khoản chi phí
khác đầu tư cho sản xuất lúa (52,83%). Tiền công chi trả cho những hoạt động thuê
mướn lao động là 1,94 triệu đồng/ha/vụ chiếm 36,60%; bao gồm các chi phí như: chuẩn
bị đất, gieo sạ, cấy dặm, bơm thoát nước, làm cỏ, thu hoạch (cắt, gom, vác, vận chuyển),
phơi sấy,
Bảng 18: Hiệu quả kinh tế trong canh tác lúa vụ 3 tại thành phố Long Xuyên năm 2004
Chỉ tiêu (triệu đồng/ha/vụ) Tỷ lệ (%)
Chi phí vật tư 2,80 52,83
Chi phí lao động thuê 1,94 36,60
Chi phí lao động gia đình 0,56 10,57
Tổng chi 5,30
Tổng thu 12,81
Lãi thuần 7,51
Hiệu quả đồng vốn 1,58
Chi phí lao động mà gia đình bỏ ra để tham gia vào sản xuất lúa được quy ra tiền
là 0,56 triệu đồng/ha/vụ. Gồm các hoạt động như: chuẩn bị đất, bơm thoát nước, bón
phân, xịt thuốc, phơi lúa, chiếm tỷ lệ 10,57%, tỷ lệ này thấp nhất trong các khoản chi
phí khác đầu tư trong sản xuất lúa (Bảng 18).
Năng suất trung bình của các hộ canh tác lúa đạt 5,28 tấn/ha; giá bán trung bình
2.397 đồng/kg (thời gian bán từ tháng 8 đến tháng 10 dương lịch), chủ yếu nông dân bán
cho bạn hàng hoặc hàng xóm xung quanh. Tổng thu mà các hộ nông dân có được sau
trồng lúa vụ 3 là 12,81 triệu đồng trong khi tổng chi là 5,30 triệu đồng/ha, nên lợi nhuận
trung bình có được là 7,51 triệu đồng/ha/vụ (Bảng 18). Như vậy, khi các hộ nông dân
trồng lúa bỏ ra 1 đồng vốn bao gồm chi phí vật tư và chi phí lao động thuê thì thu lại
được 1,58 đồng, cho thấy hiệu quả kinh tế của đồng vốn trong canh tác lúa không cao
(Bảng 18).
39
4.5. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác rau màu tại thành phố Long
Xuyên năm 2004
4.5.1. Kỹ thuật canh tác
Trong tất cả các hộ điều tra ở mô hình trồng rau màu, có 73,33% hộ canh tác đơn
một loại rau và có 26,67% hộ canh tác nhiều loại rau trên cùng diện tích canh tác.
Bảng 19: Các hoạt động trong canh tác rau màu của nông dân tại thành phố Long Xuyên
năm 2004
Công việc
Phương pháp
thực hiện
(%) nông hộ
thực hiện
Xử lý đất thuốc 20,0
vôi, tro 40,0
bón lót 26,67
Bón phân phun lên lá 6,67
pha nước tưới 60,0
rải lên líp 6,67
phun, tưới, rải 26,67
Thời gian cách ly đạm trước khi thu hoạch 7 ngày
Tưới nước máy bơm 33,33
thùng tưới 66,67
Làm cỏ tay 100,0
Giai đoạn xuất hiện cỏ 7 - 15 NSKT
Số lần làm cỏ/vụ 1 - 3 lần
Số lần phun thuốc sâu/vụ (lần) 4,36
Giai đoạn xuất hiện sâu 5 - 20 NSKT
Số lần phun thuốc bệnh/vụ (lần) 2,58
Giai đoạn xuất hiện bệnh 7 - 20 NSKT
Thời gian cách ly thuốc bảo vệ thực vật trước
khi thu hoạch 7 ngày
Ghi chú: NSKT: Ngày sau khi trồng
Gồm các loại rau màu như: sà lách, cải ngọt, cải xanh, rau muống, rau dền, cải
bẹ xanh, Thời gian sinh trưởng của những loại rau này từ 28 đến 30 ngày và diện tích
canh tác trung bình của nông hộ là 0,08 ha (Bảng 9).
Trước khi trồng rau màu đất sẽ được xử lý bằng nhiều biện pháp khác nhau
nhằm tạo môi trường thuận lợi cho cây rau phát triển sau này. Trong các hộ điều tra có
20,0% hộ xử lý đất bằng thuốc và 40,0% hộ xử lý đất bằng vôi và tro (Bảng 19).
40
Các biện pháp xử lý đất nhằm để tiêu diệt cỏ dại cũng như các mầm bệnh còn
lưu tồn trong đất có ảnh hưởng đến cây trồng. Bên cạnh đó, họ còn rải thêm vôi và tro
vào đất trước khi trồng, phân bón cũng được rải vào (bón lót) nhằm để tăng hàm lượng
dưỡng chất trong đất, cung cấp dinh dưỡng từ từ cho cây. Theo Phạm Hồng Cúc và ctv
(2001) thì cây rau có thời gian sinh trưởng ngắn nhưng lại cho năng suất cao. Do đó, để
thỏa mãn nhu cầu dinh dưỡng của cây cần kết hợp bón lót và bón thúc nhiều lần, nhưng
trong các hộ trồng rau màu đã điều tra duy chỉ có một số ít hộ tiến hành bón lót bằng vôi
và phân cho đất và tỷ lệ này có 26,67% (Bảng 19).
Bảng 20: Lượng phân bón sử dụng trong canh tác rau màu của nông dân tại thành phố
Long Xuyên năm 2004
Loại phân
Hộ có sử dụng
(%)
Hộ không sử
dụng (%)
Hàm lượng sử dụng
(kg/1000 m2)
Urê 100 0,0 21,50
Super lân 13,33 86,67 22,50
Kali 40,0 60,0 11,93
DAP 73,33 26,67 13,67
Qua điều tra cho thấy nông dân trồng rau màu áp dụng nhiều cách bón phân như:
pha phân vào nước rồi phun lên rau, có 6,67% hộ áp dụng; hoặc pha phân vào nước rồi
tưới hay tạt, có đến 60,0% hộ sử dụng cách này vì cách làm đơn giản mà ít tốn thời gian;
hai cách phun và tưới phân nhằm để cung cấp nhanh chất dinh dưỡng; bón phân bằng
cách rải có 6,67% hộ áp dụng và 26,67% hộ áp dụng kết hợp tưới với rải, tưới với phun
và gồm cả 3 cách tưới, rải, phun (Bảng 19).
Một số loại phân được các hộ nông dân sử dụng là phân urê, super lân, kali,
DAP, phân bón lá và một số phân khác. Số hộ nông dân có sử dụng phân urê, kali và
DAP chiếm tỷ lệ cao. Trong đó, có 100% hộ có sử dụng urê với hàm lượng 21,50
kg/1000 m2, cao hơn so với lượng urê sử dụng trong canh tác lúa; 13,33% hộ có sử dụng
super lân với liều lượng là 22,5 kg/1000 m2; 40,0% hộ có sử dụng Kali với liều lượng
11,93 kg/1000 m2; 73,33% hộ có sử dụng phân DAP với liều lượng 13,67 kg/1000 m2
(Bảng 20). Ngoài ra, các hộ nông dân canh tác rau màu còn sử dụng thêm phân bón lá và
41
phân chuồng. Thời gian cách ly đạm trước khi thu hoạch của các hộ nông dân này là 7
ngày. Nhìn chung, lượng phân bón sử dụng trong canh tác rau màu cao hơn so với canh
tác lúa trên đơn vị diện tích vì cây rau có thời gian sinh trưởng ngắn nhưng lại cho năng
suất cao hơn lúa.
Tưới nước là một trong những biện pháp chủ yếu đảm bảo năng suất cho cây
trồng. Theo kết quả Bảng 19, trong các nông hộ điều tra có 33,33% hộ tưới rau bằng máy
và có 66,67% hộ tưới rau bằng thùng. Đa số nông dân sử dụng phương pháp tưới phun là
chủ yếu, bình quân tưới 2 lần/ngày vào các buổi sáng sớm và chiều mát.
Cỏ cạnh tranh nước và chất dinh dưỡng với cây trồng, giúp sâu bệnh có nơi ẩn
nấp mà phá hoại cây rau nên làm giảm năng suất cây trồng. Vì thế, làm cỏ là một trong
những biện pháp kỹ thuật không thể thiếu trong quá trình canh tác rau màu. Phương tiện
làm cỏ chủ yếu của các hộ nông dân trồng rau màu là bằng tay, số lần làm cỏ từ 1 – 3
lần/vụ, nhưng một số hộ cho biết là họ làm cỏ rất thường xuyên trong quá trình chăm
sóc, thời gian làm cỏ tập trung từ 7 đến 15 ngày sau khi trồng. Một số loại cỏ thường
xuất hiện trong quá trình trồng rau là cỏ gạo, cỏ đuôi phụng, cỏ cứt lợn, cỏ chát, cỏ bông,
cỏ chét, rau sam, rau đắng,
Một số loại sâu thường xuất hiện trên rau màu ở các nông hộ điều tra là: sâu keo,
sâu xanh da láng, sâu dù, sâu tơ và rầy đen, bọ nhảy, Chúng thường xuất hiện từ 5 đến
20 ngày sau khi trồng và tập trung nhiều nhất là ở giai đoạn 15 ngày sau khi trồng. Để trị
các loại côn trùng gây hại này nông dân tiến hành phun thuốc để diệt, trung bình số lần
phun của những hộ trồng rau màu là 4,36 lần/vụ, họ thường phun thuốc vào buổi chiều
mát và chỉ phun thuốc khi có sự xuất hiện của sâu hại. Một số thuốc được nông dân sử
dụng để diệt sâu như Perkill, Atabron, Pegasus, Bassa, Actara, Peran, Regent đỏ, Thời
gian cách ly thuốc bảo vệ thực vật trước khi thu hoạch của các hộ nông dân trung bình là
7 ngày, khoảng thời gian này có thể vẫn còn dư lượng thuốc lưu tồn trên rau. Bởi theo
Nguyễn Thị Hường (2004) thì việc sử dụng thuốc trừ sâu phân hủy nhanh ít nhất là 10
ngày sau khi phun thuốc mới có thể thu hoạch rau để ăn.
Bên cạnh đó còn có một số loại bệnh như đốm lá, vàng lá, thúi gốc, phấn
trắng, Một số loại thuốc được nông dân sử dụng trị bệnh cho rau màu như Tilt super,
42
Vali, Padan, Rovral, Anvil, Trung bình nông dân phun 2,58 lần/vụ và các loại bệnh
này thường xuất hiện từ 7 đến 20 ngày sau khi trồng (Bảng 19).
Cây rau màu chủ yếu được bán cho người bán sỉ và bán lẻ ở chợ và giá cả các
loại rau được nông dân thăm dò ở chợ và hỏi hàng xóm xung quanh là chủ yếu.
4.5.2. Hiệu quả kinh tế
Trong mô hình canh tác rau màu đã điều tra, chi phí vật tư các hộ nông dân này
phải chi là 0,48 triệu đồng/1000 m2/vụ; trong đó gồm chi phí về phân, thuốc và giống
(Bảng 21).
Đa số các hộ nông dân canh tác rau màu đã điều tra có diện tích canh tác nhỏ,
nên các hoạt động sản xuất như: xử lý đất, bón phân, tưới nước và các hoạt động chăm
sóc hàng ngày đều do những thành viên trong gia đình làm. Vì vậy, không có phần chi
phí để trả cho hoạt động thuê mướn mà chỉ có chi phí lao động gia đình được quy ra tiền
mặt bình quân là 1,23 triệu đồng/1000 m2/vụ chiếm tỷ lệ 71,93%, cao hơn so với chi phí
vật tư (Bảng 21).
Tổng thu mà các hộ nông dân trồng rau màu có sau 1 vụ trồng là 3,23 triệu
đồng/1000 m2, nếu trừ đi khoản chi phí cho vật tư và cả công lao động gia đình thì lợi
nhuận trung bình mà các hộ nông dân này đạt được là 15,2 triệu đồng/ha/vụ (Bảng 21).
Bảng 21: Hiệu quả kinh tế trong canh tác rau màu tại thành phố Long Xuyên năm 2004
Chỉ tiêu (triệu đồng/1000 m2/vụ) Tỷ lệ (%)
Chi phí vật tư 0,48 28,07
Chi phí lao động thuê 0,0 0,0
Chi phí lao động gia đình 1,23 71,93
Tổng chi 1,71
Tổng thu 3,23
Lãi thuần 1,52
Hiệu quả đồng vốn 3,17
Khi các hộ nông dân trồng rau màu bỏ ra 1 đồng vốn thì thu lại được 3,17 đồng,
nên hiệu quả của đồng vốn trong mô hình canh tác rau màu khá cao. Qua Bảng 21 cho
thấy chi phí lao động gia đình bỏ ra có tỷ lệ 71,93% cao hơn rất nhiều so với chi phí vật
tư chiếm 28,07%. Chính vì thế mà Phạm Hồng Cúc và ctv (2001) cho rằng sản xuất rau
43
màu giúp tăng ngày công lao động cho nông thôn vì sản xuất rau đòi hỏi nhiều lao động
hơn so với sản xuất lúa và cây lương thực khác.
Cây rau màu là loại cây có tổng chi phí khá cao, gấp 3,23 lần so với tổng chi phí
trong canh tác lúa và yêu cầu kỹ thuật cũng cao hơn rất nhiều. Do đặc tính cây ngắn
ngày, sâu bệnh nhiều đối tượng và tấn công mọi lúc với nhiều loại sâu có tính kháng
thuốc cao (từ khi trồng đến khi thu hoạch) nên người dân tốn thời gian chăm sóc nhiều,
lấy công lao động làm lời nhưng hiệu quả kinh tế thường cao hơn so với lúa.
4.6. Kỹ thuật và hiệu quả kinh tế trong canh tác rau nhút tại thành phố Long
Xuyên trong mùa lũ năm 2004
4.6.1. Kỹ thuật canh tác
Trong tất cả các hộ trồng rau nhút đã điều tra thì có hộ đã bắt đầu trồng sớm nhất
là từ năm 1972 cho đến nay và có hộ chỉ mới trồng trong mùa lũ năm 2004 vừa qua.
Diện tích canh tác rau nhút trung bình ở các hộ điều tra là 0,37 ha.
Bảng 22: Các hoạt động trong canh tác rau nhút của nông dân tại thành phố Long Xuyên
năm 2004
Khoản mục Đơn vị (m) Tỷ lệ (%)
* Khoảng cách trồng
Giữa các bụi 1,05
Giữa các hàng 1,13
* Mực nước thích hợp 0,61
Cao nhất 1,0
Thấp nhất 0,2
* Thuốc bảo vệ thực vật
Có sử dụng 93,33
Không sử dụng 6,67
* Phân bón
Có sử dụng 60,0
Không sử dụng 40,0
* Thu hoạch
4 lần/tháng 33,33
8 – 12 lần/tháng 40,0
30 lần/tháng 26,67
44
Qua điều tra có 93,33% hộ canh tác cây rau nhút quanh năm và 6,67% hộ chỉ
canh tác cây rau nhút trong mùa lũ (từ tháng 7 đến tháng 11 dương lịch). Các hộ canh tác
rau nhút cho biết cây rau nhút dễ trồng, dễ bán và cũng nhẹ công chăm sóc hơn một số
loại rau khác. Do đất của họ thấp, trầm thủy nên thích hợp cho việc trồng loại cây này,
hơn nữa trồng có lời và có tiền chi tiêu quanh năm do thời gian thu hoạch giữa các đợt
ngắn (cách một tuần là có thể thu hoạch được 1 lần).
Đối với vùng đất cồn luôn ngập nước thì có thể cung cấp thêm đất vào ruộng rau
nếu cần, làm cho đất bằng phẳng, dọn sạch cỏ cũng như rong rêu trong nước. Đối với đất
ruộng thì tiến hành cày, xới xong phơi khô rồi cho nước vào. Đồng thời đắp đê hay tu
sửa bờ bao để giữ nước lại cho rau nhút phát triển (có thể bón lót thêm vôi hay phân).
Giống cây rau nhút theo mô tả của các hộ trồng thì có một số đặc điểm như sau:
Cọng rau phải giao lóng, tươi tốt, nhánh không quá già, dú dài, mập cây, không bị lặt râu
và dài khoảng 5 tấc.
Đa số các hộ nông dân đều cấy rau bằng cách dùng tay cắm cọng rau hoặc dùng
chân đạp cọng rau cho dính xuống đất. Khoảng cách giữa các bụi là 1,05 m và các hàng
cách nhau 1,13 m; mực nước cao thích hợp cho việc trồng rau nhút là 0,61 m; trong đó
cao nhất là 1 m và thấp nhất là 0,2 m (Bảng 22).
Nguồn nước cung cấp cho ruộng rau ra vào tự nhiên theo thủy triều, khi nước
ròng thì đắp bờ giữ nước lại, nếu nước trong ruộng rau quá thấp thì phải bơm nước vào.
Các hoạt động như bón phân, xịt thuốc được tiến hành từ 3 đến 4 lần trên tháng,
thông thường sau khi thu hoạch nông dân sẽ tiến hành xịt phân và thuốc. Phân và thuốc
sẽ được pha loãng vào trong nước rồi xịt lên rau. Qua điều tra cho thấy có 40,0% hộ canh
tác rau nhút không sử dụng phân bón và 6,67% hộ không sử dụng thuốc bảo vệ thực vật,
còn lại các hộ khác đều có sử dụng phân và thuốc (Bảng 22).
Phân bón và kích thích tố được nông dân sử dụng gồm: urê, NPK, DAP, Bioted
603, phân tiêu xanh, 3 lá xanh, Atonik,
Một số loại sâu bệnh thường xuất hiện trong quá trình trồng rau nhút là: sâu
cuốn lá, sâu xanh, sâu đen, sâu ống, sâu đục thân, sâu keo, và một số bệnh cây như
bệnh vàng lá, thúi dây và bệnh chết cây. Để diệt sâu cũng như trị bệnh cho rau thì nông
45
dân sử dụng một số loại thuốc như: Super demax số 3, Sát trùng đan, Tuprong, Hải Ngọc
Xanh, Motos, Atabron 5 EC, thuốc hôi, Nếu trong ruộng rau nhút có xuất hiện rong
hay bèo thì phải vớt bỏ hay xả nước cũ ra và thay nước khác vào.
Rau nhút được các hộ nông dân thu hoạch bằng cách cắt phần đọt non phía trên,
nhưng khi mực nước trong ruộng rau quá cao, nông dân phải bơi xuồng đi cắt và dùng
cách này thời gian cắt sẽ nhanh hơn so với không sử dụng xuồng. Một số hộ thu hoạch 4
lần/tháng chiếm tỷ lệ 33,33% và một số hộ ngày nào cũng thu hoạch (30 ngày/tháng)
chiếm 26,67%, còn lại là các hộ thu hoạch từ 8 đến 12 ngày/tháng chiếm 40,0% (Bảng
22).
Rau nhút không bán bằng cách cân ký mà người ta bó thành từng bó, bó lớn có
40 cọng thường bán cho bạn hàng là chủ yếu và bó nhỏ 5 cọng thường bán lẻ cho các
khu chợ nhỏ trong xã.
* Trở ngại trong quá trình trồng rau nhút
Một số ruộng rau nhút do đất hơi cao nên nước khó vào và cũng khó giữ nước lại
nên một số hộ phải tốn thêm một phần chi phí để bơm nước vào hay sử dụng cao su bao
lại để giữ nước.
Giá bán không ổn định nhất là mùa lũ do rau nhút nhiều nên giá rẻ. Hơn nữa rau
thường bị sâu bệnh nhiều trong mùa mưa, nước quay làm cho rau bị sâu và ít đọt. Thời
tiết lạnh cũng làm cho cây rau hạn chế ra đọt, đồng thời khi mưa nhiều cũng ảnh hưởng
đến cây rau nhút, làm cho đọt bị chùn lại và trở nên già, làm giảm năng suất cây rau. Các
loại thuốc bảo vệ thực vật được người dân sử dụng trên rau nhút rất đa dạng, phần đông
là bắt chước theo người dân khác ở xung quanh.
46
4.6.2. Hiệu quả kinh tế
Đối với mô hình canh tác rau nhút trong mùa lũ đã điều tra thì chi phí vật tư
trung bình mà các hộ nông dân phải chi là 4,05 triệu đồng/ha; trong đó cũng bao gồm các
chi phí về phân, thuốc và giống (Bảng 23).
Bảng 23: Hiệu quả kinh tế trong canh tác rau nhút tại thành phố Long Xuyên
trong mùa lũ năm 2004
Chỉ tiêu (triệu đồng/ha) Tỷ lệ (%)
Chi phí vật tư 4,05 30,71
Chi phí lao động thuê 2,75 20,85
Chi phí lao động gia đình 6,39 48,45
Tổng chi 13,19
Tổng thu 28,34
Lãi thuần 15,15
Hiệu quả đồng vốn 2,23
Đa số các hộ nông dân canh tác rau nhút đã điều tra có diện tích canh tác nhỏ
(cao hơn diện tích canh tác rau) nhưng hoạt động sản xuất lại đòi hỏi cần nhiều lao động
làm trong thời gian ngắn như thu hoạch (cần nhiều lao động để cắt và lặt rau cho kịp
buổi chợ). Vì vậy, chi phí để trả cho các hoạt động thuê mướn là 2,75 triệu đồng/ha;
công lao động gia đình được quy ra tiền là 6,39 triệu đồng/ha, chiếm tỷ lệ 48,45% cao
hơn các khoản chi khác trong canh tác rau nhút, bao gồm các hoạt động như: làm đất, vệ
sinh đồng ruộng, trồng rau, chăm sóc và thu hoạch. Vì thế, tổng chi phí trong canh tác
rau nhút mùa lũ năm 2004 là 13,19 triệu đồng/ha và tổng thu là 28,34 triệu đồng/ha, như
vậy, lợi nhuận trung bình mà những hộ nông dân này đạt được là 15,15 triệu đồng/ha
(Bảng 23).
Khi các hộ nông dân trồng rau nhút bỏ ra 1 đồng vốn bao gồm chi phí vật tư và
chi phí lao động thuê thì thu lại được 2,23 đồng. Như vậy, hiệu quả của đồng vốn trong
canh tác rau nhút là tương đối cao (nhưng thấp hơn so với hiệu quả đồng vốn trong canh
tác rau màu đã điều tra) (Bảng 23).
47
4.7. Hiệu quả kinh tế của mô hình trồng nấm rơm
Trong mô hình canh tác nấm đã điều tra, chi phí vật tư trung bình mà các hộ
nông dân phải chi là 133.357 đồng/100 m mô (Bảng 24), gồm các chi phí cho mua rơm,
mua meo giống, thuốc bảo vệ thực vật, Tiền công chi trả cho hoạt động thuê mướn lao
động là 58.339 đồng/100 m mô; bao gồm các chi phí như chuyểm rơm về, chất mô,
chiếm tỷ lệ thấp nhất trong các khoản chi phí sản xuất nấm (19,83%) và cao nhất là chi
phí vật tư chiếm 45,34%.
Chi phí lao động mà gia đình bỏ ra để tham gia vào sản xuất nấm mất 102.453
đồng/100 m mô; gồm các hoạt động được quy ra tiền như: chuẩn bị đất, chăm sóc, thu
hoạch, bán nấm,
Trung bình các hộ trồng nấm thu hoạch 2,17 đợt/vụ đạt năng suất 1,24 kg/m mô;
giá bán trung bình 6.673 đồng/kg chủ yếu bán cho bạn hàng hay hàng xóm xung quanh.
Lợi nhuận mà hộ nông dân trồng nấm rơm thu được là 549.064 đồng/100 m mô và hiệu
quả của đồng vốn bao gồm chi phí vật tư và chi phí lao động thuê trong canh tác nấm
rơm là 2,86.
Bảng 24: Hiệu quả kinh tế trong mô hình canh tác nấm rơm
Chỉ tiêu (đồng/100 m mô) Tỷ lệ (%)
Số đợt thu hoạch 2,17 đợt/vụ
Năng suất 1,24 kg/m mô
Giá bán 6.673 đồng/kg
Chi phí vật tư 133.357 45,34
Chi phí lao động thuê 58.339 19,83
Chi phí lao động gia đình 102.453 34,83
Tổng chi 294.149
Tổng thu 843.213
Lãi thuần 549.064
Hiệu quả đồng vốn 2,86
Tóm lại, việc trồng nấm trong mùa lũ giúp nông dân có thể tận dụng được thời
gian nhàn rỗi và tận dụng khoảng đất trống trong sân, vườn. Nguồn nguyên liệu rẻ và dồi
dào với chi ph
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XT1215.pdf