Luận văn Nâng cao chất lượng đào tạo người điều khiển phương tiện đường thủy nội địa tại Việt Nam

DANH MụC CÁC CHữ VİếT TắT.İ

DANH MụC CÁC BảNG. İİ

DANH MụC CÁC HÌNH. İİ

MỞ ĐẦU .4

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN

VÀ THỰC TIỄN VỀ VIỆC NÂNG CAO CLĐT NGHỀ ĐIỀU KHIỂN PHƯƠNG

TIỆN ĐTNĐ.6

1.1 TổNG QUAN TÌNH HÌNH NGHİÊN CứU LİÊN QUAN ĐếN Đề TÀİ.6

1.1.1 Những công trình có liên quan đến đề tài đã được công bố .6

1.1.2. Những khoảng trống cần nghiên cứu.7

1.2 CƠ Sở LÝ LUậN Về NÂNG CAO CLĐT NGườİ ĐKPT ĐTNĐ .8

1.2.1 Một số khái niệm .8

1.2.2 Sự cần thiết nâng cao chất lượng công tác đào tạo người điều khiển

phương tiện.15

1.2.3 Nội dung nâng cao chất lượng công tác đào tạo người ĐKPT.15

1.3 KİNH NGHİệM CủA MộT Số QUốC GİA Về ĐÀO TạO NGườİ ĐKPT ĐTNĐ VÀ BÀİ

HọC CHO VİệT NAM.

1.3.1. Kinh nghiệm trong nước . 30

1.3.1 Kinh nghiệm quốc tế . 31

1.3.2 Bài học cho Việt Nam . 32

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. CÁCH TİếP CậN.

2.2. PHưƠNG PHÁP NGHİÊN CứU .

2.2.1. Phương pháp chung.

2.1.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể .

pdf24 trang | Chia sẻ: anan10 | Lượt xem: 775 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao chất lượng đào tạo người điều khiển phương tiện đường thủy nội địa tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g trên đường thủy chủ yếu là người dân lao động có trình độ văn hóa thấp. Vì vậy để phù hợp với thực tiễn, cơ quan quản l{ nhà nước tại Việt Nam đã phân tách ra hai lĩnh vực quản l{ đào tạo khác nhau là đào tạo hàng hải và đào tạo đường thủy. Về cơ bản hai hình thức đào tạo có phần tương đồng nhưng tiêu chuẩn đầu ra của đào tạo đường thủy được hạ thấp cho phù hợp với thực tiễntình hình KT -XH ở Việt Nam hiện nay. Luận văn nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực hàng hải đáp ứng yêu cầu chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” của tác giả Nguyễn Xuân Phương chỉ nghiên cứu các giải pháp nhằm nâng cao CLĐT nguồn nhân lực hàng hải tuy nhiên cũng cho ta cái nhìn tổng quan về tình hình phát triển nghề ĐKPT ĐTNĐ trong tương lai. Cục ĐTNĐ VN (2010), Báo cáo Tổng kết công tác ATGT năm 2010. Báo cáo tổng kết công tác ATGT hàng năm được Cục ĐTNĐ VN xây dựng, tổng hợp từ số liệu ATGT hàng tháng do phòng chuyên môn của Cục thống kê và số liệu tình hình tai nạn giao thông ĐTNĐ do Cục Cảnh sát giao thông đường thủy cung cấp. Báo cáo cho ta cái nhìn toàn cảnh về tình hình tai nạn giao thông trong cả nước, nguyên nhân xảy ra tai nạn giao thông ĐTNĐ mà trong đó phải kể đến nguyên nhân do người ĐKPT ĐTNĐ chưa có GCNKNCM chiếm tỷ lệ khá lớn. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm khắc phục tình trạng mất ATGT ĐTNĐ trong thời gian tới. Cục ĐTNĐ VN (2011), Đề án 88 về Công tác đăng ký và đào tạo thuyền viên, người lái phương tiện. Đề án 88 về nâng cao công tác đăng k{ và đào tạo thuyền viên, người lái phương tiện thủy nội 7 địa là công trình nghiên cứu do Cục ĐTNĐ VN xây dựng trên cơ sở thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 24/8/2011 của Chính phủ về tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm bảo đảm trật tự ATGT. Đề án 88 phản ánh thực trạng công tác đào tạo thuyền viên, người lái phương tiện hiện nay và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao số lượng người điều khiển PTĐTNĐ có GCNKNCM, giảm thiểu tai nạn giao thông ĐTNĐ chứ chưa có các giải pháp và nghiên cứu chuyên sâu về nâng cao công tác quản l{ hoạt động đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ. Đặng Lợi (2012), Đào tạo phát triển nguồn nhân lực vận tải ĐTNĐ khu vực Nam Bộ đến năm 2020 (Thuyền trưởng phương tiện thủy nội địa). Luận văn thạc sĩ đề tài Đào tạo phát triển nguồn nhân lực vận tải ĐTNĐ khu vực Nam Bộ đến năm 2020 (Thuyền trưởng phương tiện thủy nội địa) của tác giả Đặng Lợi là công trình nghiên cứu về công tác đào tạo thuyền trưởng phương tiện thủy nội địa. Tác giả tập trung đi sâu nghiên cứu mô hình, nội dung và giáo trình đào tạo thuyền trưởng phương tiện thủy nội địa, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực vận tải tại khu vực Nam Bộ. Nhìn chung công trình nghiên cứu của tác giả Đặng Lợi có quy mô nghiên cứu hẹp và chỉ nghiên cứu chuyên sâu vào mô hình đào tạo thuyền trưởng chứ chưa có cái nhìn bao quát, tổng thể về công tác quản l{ hoạt động đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ tại Việt Nam. 1.1.3. Những khoảng trống cần nghiên cứu Từ những tổng quan nghiên cứu trên, tính đến thời điểm hiện tại vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu vào lĩnh vực quản l{ hoạt động đào tạo và nâng cao CLĐT người ĐKPT ĐTNĐ tại Việt Nam. Việc phát triển ngành vận tải nói chung và vận tải đường thủy nói riêng ở mỗi quốc gia đều là một nhiệm vụ trọng tâm của việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nền kinh tế đất nước, đảm bảo ANQP và đòi hỏi phát triển trước một bước. Thực tế cho thấy số người điều khiển chưa có GCNKNCM còn chiếm tỷ lệ cao đã ảnh hưởng lớn đến công tác giữ gìn, bảo đảm trật tự ATGTĐTNĐ và đang diễn biến rất phức tạp, gây bức xúc trong dư luận xã hội, tác động xấu đến uy tín, trách nhiệm của các cơ quan quản l{ nhà nước, một trong những nguyên nhân chính gây mất trật tự ATGT và tai nạn giao thông do người ĐKPT thiếu hiểu biết, nhận thức về ATGT kém, không tuân thủ quy tắc giao thông, đưa phương tiện đi sai luồng, đâm vào chướng ngại vật, bãi cạn hoặc các công trình, chở quá tải, khả năng xử l{ tình huống của người điều khiển yếu kém, sử dụng phương tiện không đúng mục đích dẫn đến các vụ tai nạn nghiêm trọng, thảm khốc gây thiệt hại về người, tài sản của nhà nước và nhân dân. Điển hình là vụ đắm đò ở Quế Trung - Quế Sơn, Cà Tang - Quảng Nam, Quảng Hải - Quảng Trạch - Quảng Bình, Chôm Lôm, Con Cuông - Nghệ An, Tu Vũ - Phú Thọ, Cửa Lục - Quảng Ninh, vụ tai nạn đối với tàu Diễm Tính tại Cà Mau, vụ đắm tàu Trường Hải 06 trên vịnh Hạ Long, tàu Dìn K{ trên sông Sài Gòn. Gần đây là các vụ tai nạn nghiêm trọng như: ngày 06/3/2016 trên 8 sông Kinh Môn thuộc địa bàn tỉnh Hải Dương, tàu Thành Luân 28 lưu thông theo hướng Hải Dương - Hải Phòng đã va đâm làm gãy dầm bê tông cốt thép dự ứng lực 24m của cầu An Thái (nối thị trấn Phú Thái, huyện Kim Thành với thị trấn Kinh Môn, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương); ngày 20/3, sà lan chở 800 tấn cát do hai tài công người miền Tây chưa có bằng lái điều khiển đã đâm sập cầu Ghềnh, tai nạn khiến cầu sập, tuyến đường sắt Bắc - Nam bị đứt mạch . Số lượng người ĐKPT có trình độ cao thấp, các cơ sở đào tạo mới chỉ tập trung vào số lượng, còn CLĐT nhìn chung chưa cao. Điều này đòi hỏi Cục ĐTNĐ VN là cơ quan quản l{ chuyên ngành phải khẩn trương xây dựng khung pháp l{ đủ mạnh, xây dựng quy chế phối hợp, tăng cường kiểm tra đối với hoạt động đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến CLĐT chưa cao như lực lượng cán bộ quản l{ còn mỏng, sự ràng buộc trách nhiệm của các CSDN còn yếu, tâm l{ phổ cập việc cấp GCNKNCM cho người ĐKPT; kinh phí hỗ trợ cho hoạt động thanh kiểm tra còn ít,Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản l{, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm quản l{ hoạt động đào tạo chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ năng lực của người ĐKPT gây ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng vận tải, tình hình an toàn trật tự giao thông, ảnh hưởng gián tiếp đến sự phát triển KT - XH của đất nước. Lĩnh vực đào tạo người điều khiển PTTNĐ hiện nay đã được xã hội hóa, các tổ chức cá nhân tham gia vào công tác đào tạo chiếm số lượng lớn, chủ yếu là tự phát chứ chưa có quy hoạch đồng bộ. Nguyên nhân do công tác lập kế hoạch đào tạo chưa có sự thống nhất, thiếu tính liên kết giữa các cơ sở đào tạo với nhau. Cơ chế thu chi của các cơ sở cũng tự phát, cạnh tranh dễ dẫn đến tiêu cực đòi hỏi cần có những quy định khung mang tính định hướng của cơ quan quản l{ nhà nước có thẩm quyền. 1.2 Cơ sở lý luận về nâng cao CLĐT ngƣời ĐKPT ĐTNĐ 1.2.1 Một số khái niệm *Đường thủy nội địa Là luồng, âu tàu, các công trình đưa phương tiện qua đập, thác trên sông, kênh, rạch hoặc luồng trên hồ, đầm, phá, vụng, vịnh, ven bờ biển, ra đảo, nối các đảo thuộc nội thủy của một Quốc gia được tổ chức quản l{, khai thác GTVT. (Quốc hội khóa XI, 2004. Luật Giao thông đường thủy nội địa. Hà Nội) *Vận tải Theo nghĩa rộng, vận tải là một quy trình kỹ thuật nhằm di chuyển vị trí của con người và vật phẩm trong không gian. Theo nghĩa hẹp (dưới giác độ kinh tế), vận tải là sự di chuyển vị trí của hành khách và hàng hoá trong không gian khi thoả mãn đồng thời 2 tính chất: là một hoạt động sản xuất vật chất và là một hoạt động kinh tế độc lập. 9 *Người ĐKPT thủy nội địa Phương tiện thủy nội địa là tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên ĐTNĐ. (Quốc hội khóa XIII, 2014. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy. Hà Nội) Thuyền viên là người làm việc theo chức danh quy định trên phương tiện không có động cơ trọng tải toàn phần trên 15 tấn hoặc phương tiện có động cơ tổng công suất máy chính trên 15 sức ngựa hoặc phương tiện có sức chở trên 12 người.( Quốc hội khóa XIII, 2014. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy. Hà Nội) Người lái phương tiện là người trực tiếp ĐKPT không có động cơ trọng tải toàn phần đến 15 tấn hoặc phương tiện có động cơ tổng công suất máy chính đến 15 sức ngựa hoặc phương tiện có sức chở đến 12 người hoặc bè.(Quốc hội khóa XIII, 2014. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy. Hà Nội) Như vậy, đối với ngành ĐTNĐ những người thực hiện ĐKPT được phân làm các chức danh khác nhau căn cứ theo công suất động cơ hoặc sức chở hoặc bè. Tại Luận văn này tác giả gọi chung thành khái niệm người ĐKPT ĐTNĐ. Từ những khái niệm nêu trên có thể đưa ra định nghĩa về người ĐKPT ĐTNĐ như sau: Người ĐKPT ĐTNĐ là người có chức danh thuyền viên và người lái phương tiện tàu, thuyền và các cấu trúc nổi khác, có động cơ hoặc không có động cơ, chuyên hoạt động trên ĐTNĐ. GCNKNCM thuyền trưởng là giấy chứng nhận đủ khả năng đảm nhiệm chức danh thuyền trưởng trên PTĐTNĐ (Quốc hội khóa XIII, 2014. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Giao thông đường thủy. Hà Nội) GCNKNCM người điều khiển PTTNĐ bao gồm GCNKNCM thuyền trưởng, các chứng chỉ khả năng chuyên môn điều khiển PTTNĐ. GCNKNCM thuyền trưởng được phân thành hạng nhất, hạng nhì, hạng ba và hạng tư: “1. Thuyền viên có GCNKNCM thuyền trưởng hạng nhất được đảm nhiệm chức danh thuyền tr- ưởng của các loại phương tiện sau đây: a) Tàu khách có sức chở trên 100 người; b) Phà có trọng tải toàn phần trên 150 tấn; c) Phương tiện chở hàng có trọng tải toàn phần trên 500 tấn; d) Đoàn lai có trọng tải toàn phần trên 1000 tấn; đ) Phương tiện không thuộc loại quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều này có tổng công suất máy chính trên 400 cv. 10 2. Thuyền viên có GCNKNCM thuyền trưởng hạng nhì được đảm nhiệm chức danh thuyền tr- ưởng của các loại phương tiện sau đây: a) Tàu khách có sức chở từ trên 50 người đến 100 người; b) Phà có trọng tải toàn phần từ trên 50 tấn đến 150 tấn; c) Phương tiện chở hàng có trọng tải toàn phần từ trên 150 tấn đến 500 tấn; d) Đoàn lai có trọng tải toàn phần từ trên 400 tấn đến 1000 tấn; đ) Phương tiện không thuộc loại quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều này có tổng công suất máy chính từ trên 150 cv đến 400 cv. 3. Thuyền viên có GCNKNCM thuyền trưởng hạng ba được đảm nhiệm chức danh thuyền trưởng của các loại phương tiện sau đây: a) Tàu khách có sức chở từ trên 12 người đến 50 người; b) Phà có trọng tải toàn phần đến 50 tấn; c) Phương tiện chở hàng có trọng tải toàn phần từ trên 15 tấn đến 150 tấn; d) Đoàn lai có trọng tải toàn phần đến 400 tấn; đ) Phương tiện không thuộc loại quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 3 Điều này có tổng công suất máy chính từ trên 15 cv đến 150 cv. 4. Thuyền viên có GCNKNCM thuyền trưởng hạng tư được đảm nhiệm chức danh thuyền trưởng của các loại phương tiện sau: a) Phương tiện chở khách ngang sông có sức chở đến 50 người; b) Phương tiện chở hàng có trọng tải toàn phần đến 50 tấn; c) Phương tiện có công suất máy chính đến 50 cv. 5. Thuyền viên có GCNKNCM thuyền trưởng hạng cao hơn được đảm nhiệm chức danh thuyền trưởng của loại phương tiện được quy định cho chức danh thuyền trưởng hạng thấp hơn. 6. Thuyền viên có GCNKNCM thuyền trưởng được đảm nhiệm chức danh thuyền phó của loại phương tiện được quy định cho chức danh thuyền trưởng cao hơn một hạng.” (Bộ Giao thông vận tải, 2014. Thông tư số 56/2014/TT-BGTVT quy định thi, kiểm tra, cấp, cấp lại, chuyển đổi GCNKNCM, CCCM thuyền viên, người lái phương tiện thủy nội địa và đảm nhiệm chức danh thuyền viên phương tiện thủy nội địa. Hà Nội) *Đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ Đào tạo, hoạt động đào tạo Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, Đào tạo là quá trình tác động đến một con người làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng kỹ xảo... một cách có hệ thống để chuẩn bị cho 11 người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định, góp phần của mình vào sự phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền văn minh của loài người. Đào tạo cùng với nghiên cứu khoa học và dịch vụ phục vụ cộng đồng, là hoạt động đặc trưng của các cơ sở đào tạo. Đó là hoạt động chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những kinh nghiệm, những tri thức, những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động tự lập và góp phần xây dựng bảo vệ đất nước. Đào tạo là hoạt động mang tính phối hợp giữa các chủ thể dạy học (người dạy và người học), là sự thống nhất hữu cơ giữa hai mặt dạy và học tiến hành trong một cơ sở giáo dục, mà trong đó tính chất, phạm vi, cấp độ, cấu trúc, quy trình của hoạt động được quy định một cách chặt chẽ, cụ thể về mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, đánh giá kết quả đào tạo, cũng như thời gian và đối tượng đào tạo cụ thể. Xét từ góc độ chuyển giao kinh nghiệm, tri thức, kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp chuyên môn, bồi dưỡng những phẩm chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế lao động cho người học, đào tạo được cấu thành bởi các yếu tố cấu trúc gồm mục tiêu, nội dung, chương trình, phương pháp, phương tiện và hình thức tổ chức hoạt động đào tạo. Quá trình chuyển giao năng lực nghề nghiệp được thực hiện trong hoạt động cùng nhau của thầy và trò trong môi trường dạy học xác định. Xét từ góc độ này đào tạo gồm các thành tố: 1) hoạt động dạy của giảng viên; 2) hoạt động học của sinh viên; 3) môi trường đào tạo (môi trường, vật chất, môi trường tinh thần, môi trường văn hóa). Xét từ góc độ quá trình thực hiện nhiệm vụ theo chức năng của nhà trường, đào tạo bao gồm các khâu: 1) đầu vào: đánh giá nhu cầu đào tạo, xây dựng các chương trình đào tạo, xây dựng các điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện các chương trình đào tạo, tuyển sinh; 2) các hoạt động đào tạo: dạy học, thực tập, giáo dục, nghiên cứu khoa học...3) đầu ra: kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục và dạy học, xét công nhận tốt nghiệp, cấp phát văn bằng, chứng chỉ, kiểm định và đảm bảo CLĐT. Đào tạo nghề nghiệp là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp cần thiết cho người học để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau khi hoàn thành khóa học hoặc để nâng cao trình độ nghề nghiệp. Đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ là việc dạy các kỹ năng thực hành, nghề hay kiến thức liên quan đến lĩnh vực ĐKPT thủy nội địa, để người học lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng nghề một cách có hệ thống, chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. 12 Vậy, hoạt động đào tạo có thể được coi là một hệ thống bao gồm các khâu đầu vào, quá trình đào tạo và đầu ra cùng vận động trong mối quan hệ qua lại mật thiết với nhau. *CLĐT người ĐKPT ĐTNĐ? Các quan niệm về chất lượng Chất lượng luôn là vấn đề quan trong nhất của tất cả các CSDN, và việc phấn đấu nâng cao CLĐT bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kz cơ sở đào tạo đại học nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy nhưng chất lượng vẫn là một khái niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo lường, và cách hiểu của người này cũng khác với cách hiểu của người kia. Chất lượng có một loạt định nghĩa trái ngược nhau và rất nhiều cuộc tranh luận xung quanh vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn khác nhau mà nguyên nhân của nó là thiếu một cách hiểu thống nhất về bản chất của vấn đề. Dưới đây là 6 quan điểm về chất lượng trong giáo dục đại học. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào”: Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng chất lượng một CSDN phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của CSDN đó. Quan điểm này được gọi là “quan điểm nguồn lực” có nghĩa là: Nguồn lực = chất lượng. Theo quan điểm này, một CSDN tuyển được học viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là CSDN có chất lượng cao. Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động của quá trình đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong một thời gian dài CSDN. Thực tế, theo cách đánh giá này, quá trình đào tạo được xem là một “hộp đen”, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và phỏng đoán chất lượng “đầu ra”. Sẽ khó giải thích trường hợp một CSDN có nguồn lực “đầu vào” dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào tạo hạn chế ; hoặc ngược lại, một trường có những 161 nguồn lực khiêm tốn, nhưng đã cung cấp cho học viên một chương trình đào tạo hiệu quả. Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu ra”: Một quan điểm khác về CLĐT cho rằng “đầu ra” của quá trình đào tạo có tầm quan trọng hơn nhiều so với “đầu vào” của quá trình đào tạo. “Đầu ra” chính là sản phẩm của quá trình đào tạo được thể hiện bằng mức độ hoàn thành công việc của học viên tốt nghiệp hay khả năng cung cấp các hoạt động đào tạo của CSDN đó. Có 2 vấn đề cơ bản có liên quan đến cách tiếp cận này. Một là, mối liên hệ giữa “đầu vào” và “đầu ra” không được xem xét đúng mức. Trong thực tế mối liên hệ này là có thực, cho dù đó không phải là quan hệ nhân quả. Một trường có khả năng tiếp nhận các học viên xuất sắc, không có nghĩa là học viên của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc. Hai là, cách đánh giá “đầu ra” của các CSDN rất khác nhau. Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị gia tăng”: Quan điểm thứ 3 về CLĐT cho rằng một CSDN có tác động tích cực tới học viên khi nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển về trí tuệ và cá nhân của học viên. “ Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ đi giá trị của “đầu vào”, kết 13 quả thu được: là “giá trị gia tăng” mà CSDN đã đem lại cho học viên và được đánh giá là CLĐT. Nếu theo quan điểm này về CLĐT, một loạt vấn đề phương pháp luận nan giải sẽ nảy sinh: khó có thể thiết kế một thước đo thống nhất để đánh giá chất lượng “đầu vào” và “đầu ra” để tìm ra được hiệu số của chúng và đánh giá chất lượng của CSDN đó. Hơn nữa không thể dùng một bộ công cụ đo duy nhất cho tất cả các CSDN. Vả lại, cho dù có thể thiết kế được bộ công cụ như vậy, giá trị gia tăng được xác định sẽ không cung cấp thông tin gì cho chúng ta về sự cải tiến quá trình đào tạo trong từng CSDN. Quan điểm Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”: Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường đại học phương Tây, chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng CSDN trong quá trình thẩm định công nhận CLĐT. Điều này có nghĩa là CSDN nào có đội ngũ giảng viên đông, có uy tín khoa học cao thì được xem là CSDN có chất lượng cao. Điểm yếu của cách tiếp cận này là ở chỗ, cho dù năng lực học thuật có thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá những cuộc cạnh tranh của các trường CSDN để nhận tài trợ cho các công trình nghiên cứu trong môi trường bị chính trị hoá. Ngoài ra, liệu có thể đánh giá được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy và nghiên cứu khi xu hướng chuyên ngành hoá ngày càng sâu, phương pháp luận ngày càng đa dạng. Chất lượng được đánh giá bằng “Văn hoá tổ chức riêng”: Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các CSDN phải tạo ra được “Văn hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một CSDN được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao CLĐT. Quan điểm này bao hàm cả các giả thiết về bản chất của chất lượng và bản chất của tổ chức. Quan điểm này được mượn từ lĩnh vực công nghiệp và thương mại nên khó có thể áp dụng trong lĩnh vực giáo dục đào tạo nghề. Quan điểm cuối cùng là: Chất lượng được đánh giá bằng “Kiểm toán” Quan điểm này về CLĐT xem trọng quá trình bên trong CSDN và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định. Nếu kiểm toán tài chính xem xét các tổ chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính hợp l{ không, thì kiểm toán chất lượng quan tâm xem các CSDN có thu thập đủ thông tin phù hợp và những người ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay không, quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp l{ và hiệu quả không. Quan điểm này cho rằng nếu một cá nhân có đủ thông tin cần thiết thì có thể có được các quyết định chính xác, và chất lượng giáo dục đào tạo được đánh giá qua quá trình thực hiện, còn “Đầu vào” và “Đầu ra” chỉ là các yếu tố phụ. Điểm yếu của cách đánh giá này là sẽ khó l{ giải những trường hợp khi một CSDN có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể có những quyết định chưa phải là tối ưu. Từ những quan điểm trên có thể hiểu CLĐT trong lĩnh vực đào tạo nghề người ĐKPT ĐTNĐ là chất lượng đầu ra sau quá trình đào tạo: thể hiện qua năng lực, trình độ, phẩm chất, nhận thức của 14 người học nhận được sau quá trình đào tạo. Bộ tiêu chí đánh giá CLĐT bao gồm: - Chất lượng đầu ra của người học: Người học sau quá trình đào tạo nắm vững kỹ năng nghề, có trình độ, tay nghề phù hợp với lĩnh vực được đào tạo. - Có đạo đức tốt, yêu ngành, yêu nghề và nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đào tạo nghề. - Người học sau quá trình đào tạo phù hợp với nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và với sự phát triển của ngành nghề trong tương lai. *Nâng cao CLĐT người ĐKPT ĐTNĐ Nâng cao CLĐT người ĐKPT ĐTNĐ là quá trình nhà quản l{ tác động đến công tác đào tạo theo hướng cải thiện các yếu tố đào tạo nhằm cải thiện CLĐT phù hợp với yêu cầu đặt ra. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao CLĐT người ĐKPT ĐTNĐ: Theo tác giả gồm có 4 nhân tố chính. Đó là: Môi trường pháp lý: Môi trường pháp l{ ảnh hưởng rất lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Nếu cơ chế chính sách, hệ thống pháp luật thuận lợi thì hoạt động đào tạo cũng được thúc đẩy và phát triển, ngược lại nếu cơ chế chính sách chưa phù hợp thì sẽ không có cơ sở để nâng cao chất lượng đào tạo. Các chương trình đào tạo tiên tiến cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao CLĐT. Đồng thời sự ổn định về chính trị, sự nhất quán về quan điểm chính sách sẽ tạo điều kiện cho công tác đào tạo phát triển. Môi trường kinh tế: Nếu kinh tế phát triển, thuận lợi, nhu cầu vật chất trong quá trình đào tạo được đáp ứng sẽ góp phần thúc đẩy việc nâng cao chất lượng đào tạo. Trong 1 nền kinh tế yếu kém thì muốn phát huy, thúc đẩy đào tạo cũng không có điều kiện thực hiện. Môi trường văn hóa xã hội: Vì đặc thù của ngành ĐT là truyền nghề, người dân có nhu cầu học nghề có trình độ văn hóa tương đối thấp, lại sinh sống chủ yếu ở sông nước, nông thôn vì vậy thay đổi nhận thức là vấn đề cốt lõi, ảnh hưởng lớn đến việc nâng cao chất lượng đào tạo. Nếu người dân thờ ơ, không quan tâm đến việc đào tạo cũng như vẫn giữ thói quen cũ, điều khiển phương tiện không có bằng hoặc có bằng chỉ để đối phó với cơ quan quản l{ thì việc nâng cao chất lượng giáo dục là rất khó. Nhóm nhân tố thứ 4 và theo em là quan trọng nhất chính là Cục ĐTNĐ Việt Nam - cơ quan quản l{ nhà nước chuyên ngành về hoạt động đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ. Chính cơ chế chính sách sẽ quyết định hướng phát triển của hoạt động đào tạo. Cục ĐTNĐ VN cần xây dựng cơ chế chính sách, kế hoạch phù hợp, có tính khả thi cao, đồng thời xây dựng bộ máy quản l{ đủ năng lực, trình độ và có cơ chế kiểm tra giám sát triệt để. Có vậy thì mới góp phần nâng cao chất lượng đào tạo người ĐKPT ĐTNĐ. 15 1.2.2 Sự cần thiết nâng cao CLĐT người điều khiển phương tiện ĐTNĐ Xuất phát từ những yêu cầu cấp bách về thực trạng mạng lưới các CSDN, đội ngũ phương tiện và thuyền viên, công tác bảo đảm trật tự ATGT ĐTNĐ, công tác quản l{, đào tạo thuyền viên, người lái phương tiện thủy nội địa thì việc tăng cường công tác đào tạo người điều khiển phương tiện thủy nội địa hiện nay là hết sức cấp thiết, tối quan trọng, mang tính thời sự, có { nghĩa khoa học và thực tiễn cao, góp phần chuẩn hoá công tác đào tạo, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền giáo dục nước nhà. Thực tế ngày nay đã chứng minh nhân tố quyết định sự phát trển của một quốc gia không phải là tài nguyên thiên nhiên mà là nhân tố con người. Đất nước nào có nguồn nhân lực chất lượng cao, thạo nghề sẽ phát triển nhanh và bền vững. - Về mặt xã hội: Giáo dục và đào tạo nói chung, đào tạo nghề nói riêng có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước, nó tạo ra đội ngũ lao động kỹ thuật, là một bộ phận quan trọng trong lực lượng lao động quốc gia. Đào tạo nghề sẽ phát triển nguồn nhân lực, nâng cao chỉ số phát triển con người (Human Development Index - HDI), khai thác tối đa nguồn lực con người cho tăng trưởng kinh tế, đào tạo nghề góp phần thay đổi cơ cấu lao động (theo trình độ, theo ngành nghề, theo vùng miền ) từ đó tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế, thu hút các nguồn đầu tư từ bên ngoài, giải quyết việc làm cho người lao động. Đầu tư cho đào tạo và giáo dục là những khoản đầu tư chiến lược chủ chốt cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững của đất nước. - Về phía tổ chức sử dụng nhân lực, đào tạo phát triển nguồn nhân lực là để đáp ứng được yêu cầu công việc của tổ chức, nghĩa là đáp ứng được nhu cầu tồn tại và phát triển của tổ chức. Đó là một hoạt động

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf00050008108_6234_2006108.pdf
Tài liệu liên quan