Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty tài chính Bưu Điện

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

DANH MỤC CÁC BẢNG

MỤC LỤC. 3

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ. 7

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ . 8

DANH MỤC CÁC BẢNG. 9

MỞ ĐẦU . 1

CHƯƠNG 1 . 3

LÝ LUẬN CHUNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH . 3

CỦA DOANH NGHIỆP. 3

1.1. Khái quát về Công ty Tài chính . 3

1.1.1. Khái niệm và phân loại Công ty Tài chính. 3

1.1.2. Đặc điểm của Công ty Tài chính . 9

1.1.3. Vai trò của Công ty Tài chính . 10

1.2. Năng lực cạnh tranh của Công ty Tài chính. 12

1.2.1. Khái niệm cạnh tranh và năng lực cạnh tranh. 12

1.2.2. Các phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh . 14

1.2.2.1. Phương pháp đánh giá năng lực cạnh tranh theo mô hình kim cương 14

1.2.2.2. Phương pháp phân tích theo chuỗi giá trị .16

1.3. Chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của Công ty Tài chính. 16

1.3.1. Các chỉ tiêu về năng lực tài chính. 17

1.3.2. Các yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của công ty tài chính. 21

1.4. Nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Công ty Tài chính. 25

pdf115 trang | Chia sẻ: lanphuong92 | Lượt xem: 525 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty tài chính Bưu Điện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
do những nỗ lực của Công ty trong các hoạt động kinh doanh ở những tháng đầu năm 2012, điều này làm cho quy mô vốn tự có tăng mặc dù tài sản “Có” rủi ro vẫn còn khá cao do tỷ lệ nợ xấu của một số khoản vay tăng lên. Mặc dù hiện nay tỷ lệ này của PTF tương đối an toàn song Công ty cũng không nên chủ quan vì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu biến động liên tục tùy theo tình hình kinh doanh của Công ty. Trong thời gian tới Công ty cần có các biện pháp nhằm giữ vững tỷ lệ này, từ đó đảm bảo an toàn trong kinh doanh và đối phó với những rủi ro trên thị trường tài chính đầy biến động. 2.2.1.3. Mức sinh lời Lợi nhuận của PTF trong những năm gần đây đều có sự tăng trưởng, điều đó chứng tỏ hoạt động của Công ty đã có bước tiến triển rõ nét, cụ thể lợi nhuận trước thuế năm 2011 tăng 25,80 tỷ đồng tương đương với 155.48% so với năm 2010. Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 43 Năm 2011 lợi nhuận trước thuế của Công ty tăng vọt nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động kinh doanh của công ty được đẩy mạnh nhờ các chính sách tài chính – tiền tệ chặt chẽ để kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết 11/NQ-CP của Chính phủ. Tuy nhiên sang đến năm 2012 lợi nhuận trước thuế của Công ty giảm mạnh, cụ thể lợi nhuận trước thuế năm 2012 giảm 45,49 tỷ đồng tương đương với - 107.06% so với năm 2011. Nguyên nhân chính của sự sụt giảm này là do ảnh hưởng chung của cuộc suy thoái tài chính toàn cầu và cùng với tình trạng nợ xấu tăng vọt khiến cho lợi nhuận kinh doanh của hầu hết các tổ chức tín dụng năm 2012 đều bị giảm mạnh. Công ty Tài chính Bưu Điện cũng không nằm ngoài xu thế đó, ảnh hưởng xấu của kinh tế trong nước và quốc tế đến thị trường tài chính – chứng khoán là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụt giảm lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty, nhất là hoạt động kinh doanh ngoại hối. Tuy nhiên mức lợi nhuận mà PTF đạt được trong những năm gần đây cũng là một kết quả rất đáng khích lệ, phản ánh nỗ lực cạnh tranh của công ty đang vươn lên trong môi trường cạnh tranh và hội nhập. Biểu đồ 2.1: Lợi nhuận trước thuế của PTF từ năm 2010 – 2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán PTF từ năm 2010 – 2012) Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 44 Đồng thời để đánh giá chính xác hơn hiệu quả kinh doanh của Công ty chúng ta xét chỉ tiêu cơ bản ROE Công thức: ROE = Lợi nhuận sau thuế/ Vốn tự có bình quân Biểu đồ 2.2: Lợi nhuận trên vốn tự có của PTF từ năm 2010 – 2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF từ năm 2010 – 2012) Số liệu trên biểu đồ cho thấy ROE của PTF trong 2 năm 2010 và 2011 tăng đều, điều này chứng tỏ lợi nhuận tạo ra trên vốn chủ của Công ty ngày càng tăng và việc sử dụng vốn chủ ngày càng có hiệu quả. Năm 2010 và 2011, do lợi nhuận tăng và vốn tự có không thay đổi ở mức 500 tỷ đồng, chỉ tiêu ROE của công ty có xu hướng tăng. Tuy nhiên sang đến năm 2012 như đã phân tích ở trên do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và ảnh hưởng xấu của thị trường tài chính – tiền tệ trong nước nên lợi nhuận sau thuế của Công ty giảm mạnh, điều này khiến cho ROE của Công ty năm 2012 giảm xuống còn –0,52%. Đây là một trở ngại khá lớn cho Công ty trong việc tạo niềm tin cho khách hàng trong thời gian tới, điều này đòi hỏi Công ty cần có các biện pháp quản lý tốt để nâng cao hiệu quả kinh doanh nhằm giữ cho chỉ tiêu ROE không biến động quá lớn trong điều kiện quy mô lợi nhuận còn thấp như hiện nay. Bảng 2.5. So sánh ROE của một số công ty tài chính 2010 - 2012 Năm Công ty TNHH Tổng công ty tài Công ty tài chính cổ Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 45 MTV Tài chính Bưu điện chính cổ phần Dầu khí phần Vinaconex- Viettel 2010 2.10% 9.49% 11.74% 2011 5.24% 5.86% 16.38% 2012 -0.52% 0.81% 10.19% (Nguồn: www.pvfc.vn/, www.vvf.com.vn, www.ptfinance.com.vn) Qua bảng 2.5 cho thấy mức sinh lời của PTE khiêm tốn hơn so với 2 công ty tài chính còn lại, khả năng sinh lời trên mỗi đồng vốn của PTE kém hơn, do vậy công ty chưa sử dụng tối đa hiệu quả đồng vốn của cổ đông, trong tương lai công ty cần cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô. 2.2.2. Sản phẩm và dịch vụ cung ứng Qua hơn 10 năm hoạt động kể từ ngày thành lập, đến nay các sản phẩm và dịch vụ của PTF cung cấp tới khách hàng đã tương đối đa dạng, cụ thể các sản phẩm dịch vụ bao gồm 2.2.2.1. Các sản phẩm dịch vụ Hoạt động Huy động vốn Sau khi Quyết định số 519/QĐ-NHNN ngày 26/05/2003 về việc bổ sung, chỉnh sửa một số nội dung trong Giấy phép hoạt động của PTF được ban hành thì Công ty Tài chính Bưu Điện mới được mở rộng phạm vi hoạt động ra bên ngoài VNPT. Tuy nhiên, do Điều lệ tổ chức và hoạt động của PTF chưa được sửa đổi nên từ năm 1999 đến hết năm 2003 hoạt động huy động vốn của PTF hầu hết là để tạo nguồn vốn phục vụ nhu cầu đầu tư của VNPT. Theo quy định thì PTF được huy động vốn bằng các hình thức như: nhận tiền gửi có kỳ hạn từ 1 năm trở lên; phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác; vay các tổ chức tài chính và nhận vốn uỷ thác đầu tư. Tuy PTF được huy động vốn dưới nhiều hình thức như trên nhưng thực tế từ năm 1999 đến năm 2003, do khó khăn về đầu ra của PTF và một số vướng mắc khác khiến PTF đã không thực hiện huy động vốn thông qua hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn và phát hành giấy tờ có giá. Bên cạnh nguồn Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 46 vốn tự có mà phần lớn là vốn điều lệ được cấp từ ban đầu, PTF hầu như chỉ huy động vốn bằng hình thức nhận uỷ thác đầu tư từ các tổ chức tài chính. Trong những năm gần đây, do sự phát triển của thị trường tài chính cũng như sự nỗ lực từ phía công ty, hoạt động huy động vốn đã phát triển đa dạng hơn. Cụ thể từ năm 2010 –2012, nguồn vốn huy động của Công ty đa dạng hơn thể hiện ở bảng sau: Đơn vị: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu 2010 2011 2012 % tăng, giảm năm 2011 so với 2010 % tăng, giảm năm 2012 so với 2011 I Tiền gửi và vay TCTD khác 1197.20 1769.75 1888.92 47.82% 6.73% 1 Tiền gửi của các TCTD khác 947.86 1480.96 1515.33 56.24% 2.32% 2 Vay TCTD trong nước 249.34 288.79 373.59 15.82% 29.36% II Tiền gửi của TCKT, dân cư 9.79 27.69 31.48 182.87% 13.68% III Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư 1018.17 961.18 1024.06 -5.60% 6.54% IV Tài sản nợ khác 56.81 69.20 57.58 21.81% -16.79% 1 Các khoản lãi phí phải trả 44.74 45.26 36.87 1.16% -18.54% 2 Tài sản nợ khác 12.07 23.94 20.71 98.35% -13.49% V Vốn và các quỹ 572.79 579.12 565.17 1.10% -2.41% 1 Vốn của TCTD 519.80 509.80 503.80 -1.92% -1.18% 2 Quỹ của TCTD 44.94 40.71 40.98 -9.41% 0.66% 3 Lợi nhuận chưa phân phối/ Lỗ luỹ kế 8.05 27.79 -2.99 245.22% -110.76% Tổng cộng 2854.77 3406.94 3567.21 19.34% 4.70% Bảng 2.3. Tổng hợp nguồn vốn của PTF từ năm 2010 - 2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF từ năm 2010 – 2012) Quan sát số liệu tại bảng 2.3, ta có thể thấy vốn uỷ thác đầu tư là nguồn vốn thực sự quan trọng, có vai trò quyết định đối với hoạt động tín dụng của PTF. Tuy Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 47 nhiên, để được các tổ chức tín dụng, các tổ chức kinh tế và các cá nhân uỷ thác đầu tư thì điều kiện tiên quyết là các dự án nhận vốn đầu tư phải thực sự có hiệu quả và điều kiện thứ hai không kém phần quan trọng là PTF phải chứng minh được năng lực và uy tín của mình. Thực tế những năm qua, với lượng vốn nhận uỷ thác đầu tư hàng năm tương đối lớn chứng tỏ PTF là tổ chức tín dụng có uy tín, được các tổ chức và cá nhân tin tưởng uỷ thác vốn. Số dư vốn uỷ thác mà PTF huy động từ 31/12/2010 đến 31/12/2012 chiếm tỷ trọng so với tổng nguồn vốn lần lượt là 25,94%; 9,77%; 30,17% Biểu đồ 2.3 Tình hình huy động vốn uỷ thác đầu tư của PTF từ năm 2010 –2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF từ năm 2010 – 2012) Các đơn vị có vốn uỷ thác đầu tư lớn tại PTF là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - chi nhánh Bình Định, chiếm trên 60% tổng vốn uỷ thác do hạn mức tín dụng của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là rất lớn và đã được Ngân hàng Nhà nước cho phép cho vay VNPT vượt hạn mức quy định. Đối với 3 NHTM Quốc doanh là Ngoại thương, Công thương, Nông nghiệp thì hạn mức tín dụng đối với VNPT cũng không còn nhiều, mặt khác các Ngân hàng này vẫn cho vay trực tiếp đối với các đơn vị của VNPT do vậy việc uỷ thác đầu tư qua PTF là Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 48 không đáng kể. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng liên doanh và Công ty Tài chính cũng thực hiện uỷ thác đầu tư cho PTF. Thực tế từ các năm 1999 –2003, nguồn vốn huy động chủ yếu của PTF là vốn nhận uỷ thác đầu tư, tuy nhiên từ năm 2004 trở lại đây thì nguồn huy động từ tiền gửi và vay của các tổ chức tín dụng cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể trong cơ cấu nguồn vốn huy động. Biểu đồ 2.4. Tình hình huy động vốn từ tiền gửi và vay của các TCTD khác tại PTF từ năm 2010 –2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán PTF từ năm 2010 – 2012) Số liệu bảng trên cho thấy từ 31/12/2010 đến 31/12/2012 số dư tiền gửi và vay của các tổ chức tín dụng lần lượt là 1.197,2 – 1.769,75 – 1.888,92 tỷ đồng, trong đó chủ yếu là tiền gửi của các TCTD khác. Số dư tiền gửi của các tổ chức tín dụng tăng qua các năm một lần nữa khẳng định uy tín của PTF đối với khách hàng. Hoạt động tín dụng Nhìn chung, đối với các Công ty Tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay thì ngoài việc gửi tiền tạm thời nhàn rỗi tại các tổ chức tín dụng, mua sắm tài sản cố định phục vụ cho hoạt động của Công ty thì các hoạt động sử dụng vốn của Công ty Tài chính bao gồm hoạt động tín dụng và hoạt động đầu tư tài Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 49 chính, nhưng thực tế thì phần lớn nguồn vốn của các Công ty Tài chính đều được sử dụng cho hoạt động tín dụng. Công ty Tài chính Bưu Điện là một trong số các Công ty Tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế và cũng có những đặc điểm tương tự như đã nêu trên. Điều này được thể hiện rất rõ qua các số liệu nêu tại bảng dưới đây: Bảng 2.4. Tổng hợp tình hình sử dụng vốn tại PTF từ năm 2010 –2012 Đơn vị: Tỷ đồng TT Chỉ tiêu 2010 2011 2012 % tăng, giảm năm 2011 so với 2010 % tăng, giảm năm 2012 so với 2011 1 Tiền mặt, vàng bạc, đá quý 1197.20 1769.75 1888.92 47.82% 6.73% 2 Tiền gửi NHNN 947.86 1480.96 1515.33 56.24% 2.32% 3 Tiền, vàng gửi tại các TCTD khác và cho vay các TCTD 249.34 288.79 373.59 15.82% 29.36% 4 Chứng khoán kinh doanh 9.79 27.69 31.48 182.87% 13.68% 5 Cho vay khách hàng 1018.17 961.18 1024.06 -5.60% 6.54% 6 Chứng khoán đầu tư 56.81 69.20 57.58 21.81% -16.79% 7 Góp vốn đầu tư dài hạn 44.74 45.26 36.87 1.16% -18.54% 8 Tài sản cố định 12.07 23.94 20.71 98.35% -13.49% 9 Tài sản có khác 572.79 579.12 565.17 1.10% -2.41% Tổng cộng 519.80 509.80 503.80 -1.92% -1.18% (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF các năm 2010–2012) Các hoạt động cho vay của Công ty Tài chính Bưu Điện trong giai đoạn 2010 - 2012 như sau: ™ Cho vay các tổ chức kinh tế, cá nhân trong nước Đây là hoạt động được các cơ quan Nhà nước, VNPT coi là quan trọng và là hoạt động “bề nổi” của Công ty. Theo quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của PTF trước đây thì đối tượng cho vay của PTF là các đơn vị thành viên của VNPT, các doanh nghiệp mà VNPT góp vốn và các doanh nghiệp khác, việc cho vay các Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 50 doanh nghiệp ngoài VNPT phải có ý kiến chấp thuận của Hội đồng quản trị VNPT. Do vậy, hoạt động cho vay của PTF từ năm 1999 - 2003 chỉ gồm các đơn vị thành viên trong VNPT, bao gồm các đơn vị hạch toán phụ thuộc (70 đơn vị) và các đơn vị hạch toán độc lập (16 đơn vị). Tới đầu năm 2004 với tác động của Nghị định 79/2002/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính và được sự chấp thuận của VNPT nên PTF đã bắt đầu thực hiện cho vay các đơn vị ngoài VNPT nhưng số lượng không đáng kể. Mặt khác, do bị hạn chế bởi hạn mức tín dụng là 15% vốn tự có (khoảng 75 tỷ đồng) đối với một khách hàng - VNPT và 80 đơn vị hạch toán phụ thuộc của VNPT được coi là một khách hàng. Do vậy, ngoài hình thức cho vay trực tiếp ngắn hạn - trung hạn - dài hạn bằng nguồn vốn tự có, PTF đã thực hiện cho vay bằng vốn tài trợ uỷ thác đầu tư là chủ yếu và cho vay gián tiếp thông qua hình thức đồng tài trợ với các tổ chức tín dụng khác. Tuy nhiên, một thuận lợi rất lớn của PTF trong hoạt động cho vay là sự hiểu biết của PTF về các đơn vị trong ngành, do đó PTF nắm bắt rất rõ về các dự án vay vốn của các đơn vị nên công việc thẩm định dự án khá thuận lợi, thời gian ngắn và PTF có thể đưa ra các quyết định cho vay một cách nhanh chóng nhưng vẫn đảm bảo chính xác và an toàn. Ngoài ra, khi các đơn vị thành viên của VNPT vay vốn của PTF thì đều được VNPT phát hành các chứng từ bảo lãnh vì thế đã giảm được nhiều thủ tục cho các đơn vị. Đây chính là những lợi thế của PTF trong hoạt động cho vay so với các ngân hàng thương mại đồng thời cũng là lợi thế của PTF trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 51 202.25 311.37 390.72 0 50 100 150 200 250 300 350 400 2010 2011 2012 Biểu đồ 2.5. Tình hình dư nợ cho vay khách hàng tại PTF từ năm 2010 – 2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF các năm 2010–2012) Dư nợ tín dụng của PTF có sự tăng trưởng đều qua các năm, tổng dư nợ cho vay khách hàng của PTF các năm 2010 - 2012 tương ứng là 202,25 tỷ đồng – 311,37 tỷ đồng – 390,72 tỷ đồng. Năm 2011 tăng 53,95% so với năm 2010 và năm 2012 tăng 25,48% so với năm 2011. Trong những năm đầu mới đi vào hoạt động thì các dự án vay vốn của PTF hầu hết là các dự án đã được VNPT phân nguồn vay, các năm sau đó các dự án mà đơn vị tự đăng ký vay qua PTF ngày càng tăng. Đây được xem là một dấu hiệu tốt đối với hoạt động cho vay của PTF, thể hiện sự cố gắng nỗ lực của Công ty trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường. Từ khi mới thành lập cho đến năm 2003 trong dư nợ cho vay của PTF thì cho vay bằng vốn tài trợ uỷ thác đầu tư chiếm tỷ trọng lớn nhất, cụ thể các năm 2000- 2003 tương ứng là 86,08% - 89,64% - 96,80% - 94,88%, do khách hàng vay chủ yếu của PTF là các đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của VNPT, hạn mức tín dụng giai đoạn đó của Công ty Tài chính Bưu Điện là 10,5 tỷ đồng là quá nhỏ bé so với nhu cầu vốn đầu tư của các đơn vị. Với vai trò là tổ chức tài chính trung gian trong VNPT, có chức năng huy động và cho vay phục vụ nhu cầu đầu tư của VNPT và các đơn vị thành viên, PTF đã tìm cách tháo gỡ các khó khăn hạn chế bằng cách thực hiện hình thức cho vay bằng nguồn vốn tài trợ uỷ thác đầu tư. Tuy nhiên từ năm 2004 đến nay, tỷ trọng cho vay trực tiếp đến các đơn vị trong VNPT của PTF tăng dần qua các năm thể hiện qua số liệu sau Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 52 Biểu đồ 2.6. Cơ cấu dư nợ cho vay các TCKT của PTF năm 2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF các năm 2010 –2012) Năm 2012 dư nợ cho vay trực tiếp của PTF đối với các tổ chức kinh tế trong và ngoài VNPT là 125,7 tỷ đồng, chiếm 80,01% trong cơ cấu cho vay các tổ chức kinh tế. Bên cạnh đó cho vay đồng tài trợ 20,6 tỷ đồng chiếm 13,11%, còn lại là cho vay bằng vốn tài trợ uỷ thác. Hoạt động Đầu tư tài chính Đầu tư tài chính được coi là hoạt động trọng tâm của PTF nhằm mục tiêu xây dựng PTF trở thành công cụ đầu tư tài chính cho VNPT. Chính vì vậy, ngay từ những ngày đầu mới thành lập, PTF đã thành lập Phòng Đầu tư - Chứng khoán để xây dựng các quy trình đầu tư, nghiên cứu các văn bản pháp lý về đầu tư, nghiên cứu và phân tích các cơ hội đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ thông qua các khoá đào tạo cơ bản về chứng khoán, luật chứng khoán và phân tích đầu tư chứng khoán. Theo quy định tại Điều lệ tổ chức và hoạt động của PTF (ngày 25/09/1998) thì PTF được góp vốn, mua cổ phần của các đơn vị thành viên VNPT bằng nguồn vốn tự có của mình nhưng không được vượt quá 30% vốn tự có của PTF. Tuy nhiên, theo Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Công ty Tài chính thì PTF được góp vốn, mua cổ phần của 80.10% 13.11% 6.88% Cho vay trực tiếp Cho vay uỷ thác Cho vay đồng tài trợ Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 53 các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác, được đầu tư các dự án theo hợp đồng, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh vàng. Hoạt động đầu tư tài chính của PTF được hiểu bao gồm đầu tư trực tiếp và đầu tư theo uỷ thác, đặc biệt là uỷ thác đầu tư của VNPT. Trong đó, bao gồm các hoạt động đầu tư vào công trái, trái phiếu Chính phủ, trái phiếu ngân hàng, trái phiếu địa phương, trái phiếu doanh nghiệp; ngoài các hoạt đầu tư vào chứng khoán vốn như cổ phiếu của các doanh nghiệp trong và ngoài VNPT, các tổ chức tín dụng, đầu tư góp vốn vào các dự án, kinh doanh chứng khoán trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán và trên thị trường OTC. Trong giai đoạn đầu thành lập, hoạt động chủ yếu của PTF trong lĩnh vực này là mua gom công trái và mua cổ phần của một số doanh nghiệp cổ phần hoá trong VNPT, những hoạt động này tuy lợi ích kinh tế mang lại chưa cao nhưng đánh dấu một bước trưởng thành về mặt chuyên môn nghiệp vụ của các cán bộ trong công ty. Trong vài năm gần đây hoạt động đầu tư tài chính của PTF thực sự sôi động, cụ thể tình hình đầu tư tài chính của PTF từ năm 2010 đến 2012 như sau: Biểu đồ 2.7 Tình hình đầu tư tài chính của PTF từ năm 2010 – 2012 (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm toán của PTF các năm 2010 –2012) Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 54 Một số hoạt động đầu tư của Công ty từ năm 2010 như đầu tư vào trái phiếu đô thị Thành phố Hồ Chí Minh kỳ hạn 5 năm 1 tỷ đồng, đầu tư vào kỳ phiếu Ngân hàng phát triển Nhà đồng bằng sông Cửu Long kỳ hạn 6 tháng 2 tỷ đồng; đầu tư thêm vào cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá trong Ngành Bưu chính Viễn thông với tổng mệnh giá là 1 tỷ đồng; đồng thời mở rộng kinh doanh và đầu tư các loại cổ phiếu niêm yết trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán, bao gồm cả các cổ phiếu trong và ngoài Ngành. Ngoài ra, PTF đã xây dựng nhiều phương án đầu tư góp vốn vào các dự án, bao gồm cả các dự án trong và ngoài Ngành, như dự án Trung tâm Thương mại Cầu Giấy, dự án xây dựng Toà nhà Hội Tem Việt Nam, dự án thành lập Trường Đại học dân lập Công nghệ Đông Á, dự án thành lập Trường Đại học Dân lập Lương Thế Vinh, dự án thành lập Công ty Cổ phần chuyển phát nhanh Trong năm 2010, PTF tiếp tục mở rộng hoạt động kinh doanh chứng khoán trên Trung tâm Giao dịch Chứng khoán và thu được kết quả đáng khích lệ, thực hiện đầu tư vào các cổ phiếu trên thị trường OTC nhưng chỉ bao gồm cổ phiếu của các công ty cổ phần trong Ngành, như Công ty cổ phần Thiết kế Đà Nẵng, Công ty cổ phần Thiết kế Bưu điện Hà Nội, Công ty Tư vấn Xây dựng và Phát triển Bưu điện theo hình thức mua đấu giá và đã trúng thầu với mức giá thấp so với các mức giá đồng trúng thầu; đầu tư góp vốn thành lập Trường Đại học Dân lập Lương Thế Vinh với tư cách là thành viên sáng lập, tham gia Hội đồng quản trị. Bên cạnh đó, PTF vẫn thực hiện đầu tư vào các chứng từ có giá như kỳ phiếu Ngân hàng, trái phiếu Chính phủ. Ngoài ra, PTF còn tiếp tục tham gia vào các dự án đầu tư trong và ngoài Ngành, chuẩn bị sẵn sàng đầu tư khi dự án được phê duyệt. Giai đoạn 2010 - 2012 là năm hoạt động đầu tư của PTF thực sự khởi sắc trong đầu tư vào chứng khoán kinh doanh và chứng khoán đầu tư. Đầu tư vào chứng khoán kinh doanh tăng gần 200 tỷ đồng từ năm 2010 đến năm 2012, trong khi đó đầu tư vào chứng khoán đầu tư vẫn giữ được mức cao ở khoảng 280 tỷ đồng. Năm 2012, PTF có các khoản đầu tư tài chính vào 11 CTCP và Quỹ lớn là: CTCP Thủy điện Quế Phong, CTCP Nước sạch - Môi trường VN, CTCP ĐT&PT Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 55 Năng lượng VN, Quỹ Đầu tư Tăng trưởng VN -VF2, CTCP Nhựa Sam Phú, Quỹ Đầu tư CK Sài Gòn A2, CTCP Dịch vụ Số liệu Toàn cầu, CTCP Dịch vụ Hạ tầng mạng, CTCP Công nghệ & Truyền thông, CTCP ĐT&PT Dịch vụ Hạ tầng VT, CTCP Cáp và VLVT – SACOM. Thực tế các năm qua cho thấy lượng vốn đầu tư tài chính của PTF là tương đối lớn, tuy nhiên nếu công ty xác định đây là hoạt động chính và là lợi thế cạnh tranh so với các tổ chức tín dụng khác thì mức đầu tư này cũng chưa tương xứng. Nguyên nhân của sự hạn chế này là do bị hạn chế về nguồn vốn huy động, về đối tượng và phạm vi đầu tư. PTF không thực hiện huy động vốn bằng hình thức nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá, do vậy nguồn vốn để đầu tư cũng bị hạn chế, mặt khác hiện nay Công ty hầu như chỉ đầu tư góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp trong Ngành, trong khi các doanh nghiệp này thường có vốn điều lệ thấp, lượng cổ phiếu phát hành cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp là không nhiều và nhu cầu đầu tư của các tổ chức và cá nhân thì lớn gấp nhiều lần so với lượng cổ phiếu phát hành. Hoạt động tư vấn Song song với các hoạt động tín dụng, hoạt động đầu tư tài chính thì hoạt động tư vấn cũng là một trong những hoạt động trọng tâm của PTF, mang lại nguồn doanh thu lớn cho PTF và là môi trường đào tạo, nâng cao kiến thức chuyên sâu cho các cán bộ nhân viên của PTF. Ngay từ những ngày đầu mới thành lập, lãnh đạo PTF đã tập trung đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện cung cấp các dịch vụ tư vấn, bao gồm tư vấn đổi mới doanh nghiệp, tư vấn quản lý doanh nghiệp, tư vấn thẩm tra quyết toán xây dựng cơ bản, tư vấn đầu tư, tư vấn lập dự án, tư vấn về kế toán và tài chính doanh nghiệp, tư vấn huy động và sử dụng vốn, gọi chung là các dịch vụ tư vấn về ngân hàng, tài chính, tiền tệ và đầu tư. Hiện nay, với đội ngũ cán bộ chuyên cung cấp các dịch vụ tư vấn là 35 người, không kể các chuyên viên đầu tư cũng đảm nhận chức năng tư vấn về đầu tư, PTF đã ký kết được nhiều hợp đồng cung cấp dịch vụ tư vấn cho khách hàng trong những năm vừa qua. Cụ thể là, đến nay PTF đã và đang tư vấn cổ phần hoá cho Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 56 khoảng 50 doanh nghiệp bao gồm cả doanh nghiệp trong và ngoài Ngành, trong đó Công ty Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam là doanh nghiệp ngoài ngành, có giá trị tổng tài sản lớn vài trăm tỷ đồng. Trong số các công ty được tư vấn có một số công ty thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp tài sản và một số công ty thực hiện xác định giá trị doanh nghiệp theo phương pháp chiết khấu dòng tiền, đây là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp ít được sử dụng tại Việt Nam, khó xác định một cách chuẩn xác, do vậy đòi hỏi cán bộ tư vấn phải đáp ứng về kiến thức và khả năng phân tích mới có thể thực hiện được. Hoạt động này đã góp phần thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp trong VNPT, đồng thời việc đẩy mạnh cổ phần hoá cũng có tác động tích cực ngược lại đối với PTF, tạo cho Công ty có thêm cơ hội để thực hiện đầu tư tài chính, cụ thể là đầu tư vào cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hoá. Bên cạnh đó, PTF cũng đã ký kết được 16 hợp đồng tư vấn quản lý với các doanh nghiệp trong và ngoài Ngành, trong mỗi hợp đồng ký kết bao gồm nhiều sản phẩm tư vấn như tư vấn xây dựng Điều lệ tổ chức và hoạt động, tư vấn xây dựng quy chế hoạt động của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, quy chế điều hành của Tổng giám đốc, quy chế tài chính, quy chế chi tiêu nội bộ, quy chế lương, quy chế tuyển dụng, quy chế thi đua-khen thưởng; 02 hợp đồng soát xét báo cáo tài chính; 01 hợp đồng về tư vấn lập quy trình đầu tư xây dựng cơ bản, 03 hợp đồng tư vấn lập dự án thành lập Công ty, 01 hợp đồng về tư vấn quản lý cổ đông trong công ty cổ phần; 03 hợp đồng tư vấn phát hành cổ phiếu, chứng chỉ nhận nợ CBCNV... Đồng thời, PTF đã ký hợp đồng thẩm tra quyết toán các công trình xây dựng cơ bản với VNPT, nghiên cứu xây dựng quy chế quản lý vốn của VNPT tại các công ty liên doanh và cổ phần, xây dựng phương án phát hành trái phiếu ra công chúng của VNPT, xây dựng các phương án đầu tư góp vốn, mua cổ phần cho VNPT, cùng tham gia các tổ đàm phán của VNPT trong các dự án đầu tư ra nước ngoài. Các hoạt động kinh doanh khác Theo quy định thì PTF được thực hiện nhiều hoạt động kinh doanh khác như bảo lãnh hoặc đại lý phát hành giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp, thực hiện dịch Nguyễn Thị Thanh Hằng – 2011A QTKD 57 vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng, kinh doanh trên thị trường tiền tệ, cung cấp các dịch vụ tài chính khác Tuy nhiên, thực tế thì các hoạt động kinh doanh khác của PTF chủ yếu vẫn chỉ là hoạt động bảo lãnh, hoạt động bảo lãnh là một hoạt động tương đối an toàn và mang lại doanh thu cao (phí dịch vụ khoảng 3 tỷ đồng – 4tỷ đồng/năm). Song một thực tế là các sản phẩm dịch vụ bảo lãnh còn quá đơn điệu do đó khách hàng hiện nay phần lớn vẫn chỉ là các đơn vị thành viên của VNPT. Ngoài ra là hoạt động ngân quỹ, PTF thực hiện gửi tiền tại 08 ngân hàng và đến nay, tiền gửi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf000000272799_175_1951769.pdf
Tài liệu liên quan