Một điều mà trong các tác phẩm của mình Tạ Duy Anh đã sử dụng ngôn ngữ rất dung dị, đời thường, bên cạnh đó ngôn ngữ của truyện ngắn Tạ Duy Anh luôn luôn thể hiện bề mặt thô nhám của đời sống bình thường. Đó là thứ ngôn ngữ đời thường nhưng có phần dung tục. Ngôn ngữ này người ta còn gọi là ngôn ngữ “đen”thứ ngôn ngữ suồng sã. Đó là cách nhà văn viết theo kiểu hiện thực để làm người đọc hiểu hơn về tính đa thể của cuộc sống con người.
75 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3346 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy Anh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lỏng lẽo, sơ hở, khi người dân hiền lành cam phận và cấp trên quan lieu là bọn này có cơ hội “kiếm chác” tốt nhất. Đó chính là nhân vật đóng vai trò nguyên đơn kiện ông già dạy thú, nhân vật này đã tận dụng được mọi cơ chế để tăng tiến và long tin cậy của cấp trên và dần lao vào một căn bệnh mà loài người vẫn gọi là thành tích, công thức, nhân vật này đã hành động và nói năng theo đúng công thức của nhà lãnh đạo và kết cục là anh ra rơi vào một căn bệnh không hiểu tiếng người.
Con người với bản chất là ích kỷ, thờ, thường ngoảnh mặt đi, “không dính” vào những vụ lôi thôi có thể gây phiền hà chi mình cũng như chình hắn, con người vụ lợi, ưa nói xấu nên sẳn sang bôi nhọ, phết hồ vào những điều hắn biết, vì sợ sệt, vì quyền lợi, vì vô tình, vì ác ý…Vì tất cả những lý do có thể mượng tượng được. Cho nên anh có thể là anh mà cũng có thể là người khác, không ai nhận diện được ai cũng như chẳng ai tự nhận diện được mình.
Chúng tôi cho rằng phê phán quan niệm duy lí qua các mẫu người trên cũng chính là để đi đến quan niện đầy đủ hơn, hợp lí hơn về con người bởi nó góp phần thức tỉnh chân lí mà trước hết thức tỉnh trước quy luật muôn thuở của cuộc sống đó là quy luật tự nhiên.
1.2.2. Điểm nhìn của nhân vật
Nhân vật văn học là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất giúp nhà văn khái quát các tính cách xã hội và mảnh đời sống gắn liền với nó tài năng của nhà văn là gắn cái điểm nhìn của nhân vật vào trong tác phẩm với những sáng tạo. Thế giới nhân vật trong sáng tác của ông có một ý nghĩa đặc biệt. Chính ở đây Tạ Duy Anh đã cho thấy một khả năng của nhân vật đặc biệt. Qua thế giới nhân vật rõ hơn những kiến giải của nhà văn về con người (con người là ai? Vì sao nó đau khổ? vì sao nó tha hóa?) cũng như ghi nhận nỗ lụa thể nghiệm cách viết để đem đến cho bạn đọc một kinh nghiệm thẩm mỹ mới của nhà văn.
Điểm nhìn của nhân vật đóng một vai trò quan trọng trong tác phẩm Tạ Duy Anh mang những đặc trưng riêng. Gắn với quan niệm về hiện thực và con người điểm nhìn nhân vật cũng là phương tiện biểu hiện bà soi chiếu trung thực thế giới tinh thần của nó. Trong thế giới của nhân vật chúng đối thoại với nhau. Điểm nhìn và ngôi kể liên tục dich chuyển, thay đổi. Các nhân vật chình đều có khả năng thay thế chỗ nhà văn trong việc kể chuyện. Mỗi cá nhân như một “nguyên tử” được dặt vô số các giao điểm. Nó tự kể chuyện mình kể về cái nhìn của mình với người khác. Trong tác phẩm “Xưa kia chị đẹp nhất làng” ta nhận thấy ở đây có thể thay thế bằng rất nhiều điểm nhìn và cách điểm nhìn khác nhau. Có khi là điểm nhìn của một người trần thuật đầy tính triết lí, có khi là điểm nhìn của người mẹ trẻ, có lúc là điểm nhìn của đứa bé nhưng cũng có khi điểm nhìn lại được đặt trong chình nhân vật cgh Túc...Tạ Duy Anh đã tạo cho người đọc một cảm giác đầy đủ khi theo dõi diễn biến một câu chuyện bằng các điểm nhìn khác nhau ở cả bên trong và bên ngoài.
Từ điểm nhìn của nhân vật con người luôn bị ám ảnh bởi nỗi cô đơn và hoài nghi trước cuộc sống. Con người cảm thấy lạc loài, họ sống khép kín, mất khả năng giao tiếp, không thể hòa hợp với thế giới xung quang. Họ khủng hoảng niềm tin và đức tin về cả tương lai và thế giới...Cô đơn là kết quả của sự hoài nghi trước cuộc sống. Con người cô đơn trong bức tường thành cá nhân mà họ chứ ai khác dựng lên. Nhà văn không dặt nhân vật ủa mình trong mối quan hệ với cộng đồng và có cùng nhận thức về cuộc sống mà ngược lại,con người luôn mâu thuẩn, xung đột gay gắt với xã hội và chính sự cô lập giữa mọi người đã dẫn đến kết thúc bi thảm của nhân vật trong cuộc chiến sống còn. Giữa hiện thực xã hội còn bề bộn lo toan và hoài nghi ấy, con người với một niềm hi vọng nhỏ bé của mình vẫn miệt mài trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Khát vọng và tham vọng luôn thúc đẩy con người hoàn thiện, dựa trên cái siêu tôi. Trạng thái nhân vật vì thế mà vô cùng phức tạp, biến chuyển không ngừng. Mỗi con người, mỗi số phận, mỗi lớp nhân vật đều biểu trưng rõ nét cho tính cách hai mặt trong chiều sâu tâm khảm.
Nếu đối thoại là một cách để nhân vật tự bộc lộ tính cách thì nhân vật trong sự đối mặt của nó với người khác thì độc thoại là khu vực ngôn ngữ nhại cảm đẻ nhân vật tự nói lên chính mình. Đối thoại trở thành thủ pháp nghệ thuật hiệu quả khi diễn tả quá trình tự ý thức của nhân vật,cho phép đi sâu vào thế giới nội tam đầy bí ẩn của nhân vật.
“ Tôi đến ngồi bên chiếc tràng kỷ nhãn bóng, dối diện với bố tôi:
Mười năm anh đi những đâu?
Anh thấy nó rộng hay hẹp
.....
Chưa vượt biên chứ?
Tôi vẫn im lặng, bắt gặp cái nhìn chia sẻ tù sau cánh cửa của em gái tôi. Tiếng bố tôi vản đều đều:
Mười năm anh học được cái gì mang về?
Có học được nhiều thứ. Nhưng thứ quý nhất mà cuộc đời con là biết tự định đoạt lấy mình.
Nghe nam nhi đấy. Giỏi!”[4, tr.42]
Qua cách đối thoại trên ta thấy ông bố dùng những lời lẻ sắc lạnh để nói với con trai mình sau mươi năm xa cách. Có thể thấy tính cách của ông rất cứng rắn không nói là độc đoán.
Điểm nhìn nhân vật còn là lời độc thoại thường gắn với kiểu nhân vật tự ý thức, với những trạng thái tâm lý tử tưởng căng thẳng. Có thể thấy nhiều tác phẩm Tạ Duy Anh có điểm song trùng giữa “tôi”_nhân vật_người kể chuyện và hình bóng cái tôi tác giả. Sự chuyển hóa, hòa nhập này khiến mạch tự sự như những lời tự bạch của nhân vật.
Lời độc thoại nội tâm của Khổ thể hiện những luồng tư tưởng, tình cảm trái chiều rất tạp trong cùng một con người. Chân dung nhân vật hiện lên qua gương mặt khắc khoải day dứt, căng thẳng suy nghĩ. Lão luôn suy nghĩ làm sao cho cuộc sống đỡ khổ “Lại những đem Lão Khổ thức trắng. Lão đã từng chăn vịt thuê với nhà chánh tổng những năm trước cách mạng. Một mình một thuyền, lão làm chủ cả mấy cánh soi trên soi dưới. Chánh tổng bỏ tiền mua vịt còn bỏ sức và tài nghệ sông nước. Đã chăn chia phải chăn hàng ngàn con mới bỏ”[4, tr.282].Trong dòng độc thoại của lão có thể nghe thấy giọng của thời đại, nghĩa là quan điểm thống trị của thời đại lịch sử mà lão đang sống.
“Này, tôi muốn biết cái “ tập thể” ấy là những ai? Lão Khổ u uất quá nổi xung.
- Có những vấn đề bác chỉ nên biết mình cần phảir chấp hành,thế là đủ và cháu mong bác làm gương cho người khác. Chả gì...”[4, tr.279]
Một điều dễ nhận thấy trong cách xây dựng nhân vật của Tạ Duy Anh là nhà văn ít chú ý đến việc miêu tả ngoại hình nhân vật. Ông củng không tập trung vào tính cách nhân vật. Ông đặc biệt chú trọng tổ chức ngôn ngữ đối thoại, độc thoại của nhân vật. Miêu tả nhân vật khi đang đối thoại, để nhân vật tự nói về mình qua độc thoại là một sở trường nhà văn
“Tại sao lão ác thế?
- Tôi van cậu Tư.Thì nhà ông đã đòi đủ ở tôi rồi mà!
- Chưa được bao nhiêu. Hôm nay lão phải trả nốt.
- Tôi tiến lên,gí thanh nứa vạt đầu vào cổ lão Hứa.Lão địa chủ xưa kia vội đưa tay túm ngang chiêc que.
- Kìa cậu Tư tôi cắn rơm cắn cỏ lạy cậu. Cậu thử hỏi ông nhà xem, có phải co lúc tôi đã tử tế với ông nhà không?
- Còn ông ta và chú ta, lão tử tế thế này à?
- Cậu Tư ơi! Lão Hứa cuống quýt đẩy thanh nứa đang bị tôi ấn mạnh thêm- Cậu cứ lớn lên đi cậu sẽ hiểu tôi chả là cái gì trước số phận,trước thời thế. Tôi có trực tiếp đánh ông cậu đâu. Tôi có trực tiếp chôn sồng chú cậu đâu. Cuộc đời củ nó ắt phải thế”.Qua một cuộc đối thoại của nhân vật nhưng người đọc củng cảm nhận được chế độ của một thời các mối quan hệ trong một làng. Các quan hệ mới và củ như đối đầu lẫn nhau không bên nào chịu nhường bên nào có lẻ con người sống trong mổi thời điểm lịch sử có mổi cách nhìn khác nhau về lối sống củng như cách cư xử vơi nhau sẽ khác.
Qua cách kể của nhân vật tôi hình ảnh người cha xuât hiện rất nhiều trong các truyện ngắn của Tạ Duy Anh và bao giờ nhân vật “tôi” cũng luôn tỏ ra sợ sệt, cam chịu và phản kháng trước những thái độ và hành động của người cha và tất cả những gì có liên quan đến ông hiện diện như một ký ức ẩm ướt,đầy ám ảnh: Trong Ngôi nhà của cha tôi“Nó giống như một cái lô cốt hay cái gì đó hao hao,chẳng hạn ngôi nhà hầm. Nó có vẻ thô kệch,lì lợm của khu phạm nhân lại vừa gợi nét uy nghiêm của pháo đài. Những lỗ nhỏ đen xì trải ra ở khắp nơi luôn luôn ẩm tối suốt thời thời thơ bé”[4, tr.202] hay với Luân hồi “Không phải vô cớ mà hễ thấy tôi, cha tôi thường nghiếng răng trèo trẹo bởi ông phải nhớ những hình ảnh thê thảm mà ông không sao xóa đi được. Chính ông đã cho tôi một ký ức ẩm ướt”[4, tr. 210]
Từ điểm nhìn của nhân vật con người nhưng được mở rộng ra phạm vi xã hội cho ta thấy trong cuộc sống hiện đại con người dường như chỉ đi làm lại những việc vô nghĩa khiến nó như một cái vòng lẩn quẩn không có lối ra và chính con người cứ vô thức làm việc đó mà không biết mình đang làm gì và cò ích gì không. Trong tác phẩm Phở gia truyền thì cũng chẳng có gì đặc biệt nhưng những con người thành thị cứ đổ xô đi chen chúc nhau để ăn được một bát phở trong một ngày: “Ông bê bát phở ra tìm chỗ nhưng mọi dãy bàn cống chạy dọc vỉa hè, nơi cũng có vài người không chiếm được chỗ ngồi như ông đã húp xì sụp, nước mắt mũi chảy ròng ròng. Họ chẳng để ý đến điều gì khác ngoài khoái cảm tạo ra từ cách ăn ngốn ngấu.
Trong cuộc sống hiện tại Tạ Duy Anh còn miêu tả một kiểu người mới mẽ. Đó là sự thờ ơ của con người chỉ mải miết chạy thao cuộc sống đã càng làm cho họ bị mắc những căn bệnh lạ như bệnh “mất vị giác lâu ngày”. Đó là sự trơ lì về mặt xúc cảm, đó là sự bàng quan trước cuộc sồng. Đó là cái mặt lạnh gắn quá lâu mà không thể gỡ ra được bởi: “Ông thật là người có lương tâm nhưng thôi đẻ cái lương tâm ấy sau này đi gặp phật còn bây giờ ông chỉ có cách duy nhất là đeo cái mặt lạ son phấn ấy và cố quên đi nó là mặt giả. Mà theo tôi, hình như nó có khó chịu lắm đâu”. Và cuộc sống vẫn diễn ra : “Ngày mai, không ngay bây giờ tôi sẽ lại phải nghiêm trang trong vai diễn của mình là người khác như một nghiệt án”
Bên ngoài thời gian một con người khác họ sống tích cực. Họ biêt sống và luôn nhìn thấy nhưng mặt lạc quan của cuộc sồng này.Nhân vật có cuộc sống tĩnh lại, yên bình, sồng được như vậy con người sẽ thanh thản hơn mà không phải đau khổ. Một bà cụ đã ngoài tam mươi tuổi mà vẫn khỏe mạng , thanh thoát bởi với cụ giờ đây những bon chen cuộc đời đã không còn nghĩa lí gì nữa. Với cụ bây giờ thời gian không còn là vấn đề bởi cuh luôn có “linh hồn cụ ông” ở bên. Đọc câu chuyện ta cảm tượng như là một câu chuyện kỳ ảo: “ Có lần nói anh đừng cười, ông ấy đến tận chổ con trai cả của ông ấy, khi tôi đang bế cháu cho nó, vào tận chổ tôi năm bảo : Bà định dứt tình với tôi thạt đây à?”.Ở đó hai con người của hai thế giới gặp nhau chia sẻ với nhau và có lẻ dó là niềm an ủi duy nhất để bà cụ sống vui vẻ tuổi già. Cụ là một con người lúc nào cũng đầy lạc quan mà ta luôn nhìn thấy sự hạnh phucstrong mắt và trong từng hành đọng của cụ. Nó ngược lại hoàn toàn với xu thế hiện nay xã hội đua nhau đi tìm những hạnh phúc lớn lao mà họ không biết rằng hạnh phúc có ngay ở những điều nhỏ nhặt nhất. Với quan niệm vô cùng đơn giản: “Nói thì các anh,các chị bảo chúng tôi cổ hủ chứ bây giờ muốn bỏ nhau người ta đêm nạo bénh cái thai trong bụng đi thí tân tiến để lam gi [4, tr.376]. Chính câu nói này đã khái quát được bao hệ lụy của cuộc sống hiện đại, từ con người mà ta vẫn cho là còn lại của quá khứ, lạc hậu ta đã nhận thấy rõ hơn những mặt trái của cuộc sống hiện đai. Và chợt nhân ra: “giữa họ và tôi, ai la người thực sự đang có cuộc sống theo đúng nghĩa linh thiêng của nó”
Điểm nhìn rơi vào nhân vật kẻ thù của dòng họ mình và có lúc anh ta dặt điểm nhìn vào một con trâu già hay vợ chồng đôi chim chào bẻo…Đây là điểm nhìn đặc biệt bởi Tạ Duy Anh đặt cái nhìn vào cả loài vật làm cho câu chuyện trở nên lí thú hơn cả chứng minh cho những câu chuyện mình kể là đúng với thực tế của nó trong thời kì ấy. Ta thấy những đoạn văn miêu tả rât ngây ngô “Hôm ấy đám trẻ chăn trâu chúng tôi mải quần nhau với đôi vợ chồng chèo bẻo mất con. Từ ngọn cây gạo, vợ chồng chèo bẻo thi nhau chửi chúng tôi. Ý chừng nó bảo: Lũ sát nhân kia! Chúng mày giấu con bà ở đâu. Che.p he.p che.p he.p m…bà thì mòc mắt chúng mày ra” [4, tr.54].
Hay cả lúc hai con vật tranh đấu với nhau Tạ Duy Anh đặt điểm nhìn vào bên trong hai nhân vật này “ Cu Nhỡ ghếch cổ lên chào. Sừng Măng gập đầu đáp lễ. Cu Nhỡ hỏi: ông nghĩ kỷ chưa?. Sừng Măng đáp: thằng oắt con lêu lổng xem mày được mấy hơi”
Từ điểm nhìn nhân vật này người đọc được nhìn từ bên trong tâm lý nhân vật hơn góp phần làm tác phẩm trở nên hay và thú vị.
1.2.3. Điểm nhìn không_thời gian
Thật ra tác giả khai thác tác phẩm từ rất nhiều điểm nhìn khác nhau trong một đề tài nhà văn tạo cho người đọc cách hiểu đúng hơn về một thời kỳ lịch sử cũng như những số phận con ngyười trong thời kỳ ấy bằng cách “ghép những mảnh vỡ” đó lại với nhau.
Không gian làng quê gắn với làng Đồng một làng quê với những biến cố thăng trầm trong quá khứ. Trong lịch sử làng Đồng là một không gian khép kín. Như trong tác phẩm Bước qua lời nguyền làng Đồng cải cách ruộng đất, chỉ một không gian này nhưng nó được cày xới lên voái rât nhiều câu chuyện của mỗi con người sống và tồn tại trong đó.
Cả một không gian và thời gian cùng tồn tại đôi khi chúng song song trong tác phẩm đôi khi nó chie nổi bật lên mà thôi. Tác giả ngẫu nhiên dấu nó đi. Thời gian đoi khi la quá khú đôi lúc lại là hiện tại. Thời qua khứ là thời địa chủ thống trị đám dân nghèo cố nông, thời bao cấp, hay thời gian đựợc đẩy gần hơn trong tác phẩm “ Sau trọn mười năm, kể từ ngày khóc thầm ra đi, tôi lại trrở về nơi khi dấu mãi tuổi thơ cay đắng của tôi.” Khi trở về thì mọi thức trở mình và thay đổi khác trước rât nhiều. người cha già đi rất nhiều cô em gái lớn lên như bổng. Làng Đồng thay đổi dữ dội quá duy có điều không thay đổi là họ vẫn thù nhau như xưa thậm chí là hơn xua nữa. Cả những câu chuyện xa xưa được kể lại nhằm khắc sâu mối hận thù khiến cho tâm hồn trẻ thơ vốn nhạy cảm phải kinh hoàng “ Và để tôi ghi mối thù vào xương tủy, mỗi ngày bố tôi lại kể cho tôi nghe một câu chuyện, lời kể của ông tuyệt vời như kể chuyện cổ tích, khiến tâm hồn tôi thấm đẫm những hồi ức khinh hoàng không bao giờ con nong khô được nữa.”[4, tr.41]
Tạ Duy Anh miêu tả trong tác phẩm của mình không thời gian thường gắn đời người. Nó xuyên suốt trong tác phẩm là thời của nhưng quan niệm cứng nhắc và duy lí trí. Cái chê độ sự thù hận ganh đua đến kề miệng lỗ mà các cụ vẫn cồn thù hận nhau ganh đua nhau từng tí một.
Một không gian ngột ngạt tù túng bởi không khí u uất đó.Một lời nguyền được truyền lại từ bao đời.
Tuy nhiên không gian mà tui trẻ con lại lam cho không khí oi bức này dịu hẳn phản phất của tuôit thơ chăn trâu thả diều. Từ điểm nhìn không thời gian mà Tạ Duy Anh xuyên suốt trong tác phẩm là bối cảnh làng quê mỗi cách nhìn mỗi thời điểm khác nhau. Mỗi thế hệ mang trong mình những quan niệm khác nhau nói rỏ hơn là đói nghịch nhau về quan niệm.
Tình yêu hiện hữu bên cạnh sự thù hận bên cạnh cái lời nguyền nó hiện lên trong sáng vượt qua mọi rào cản sức mạnh từ xa xưa vọng về là lời nguyền, vượt qua mọi giao điều trước đó. Phá bỏ hết những gì có trước đó.
Điểm nhìn này Tạ Duy Anh đã giúp người đọc nhìn từ quá khứ đến hiện tại rồi từ hiện taih quay ngược về quá khứ. Nó đồng hiện một cách song song với nhau. Trong Xưa kia chị đẹp nhất làng có một không gian đặc biệt ma nhân vật chỉ thoáng qua thôi là không gian chiến trânh ác kiệt ma anh Kiều đang chiến đấu được thuât lại trong một bức thu gửi cho chị Túc cũng có không gian hư ảo rât nhẹ nhàng của vầng trăng “Tôi…chờ em bước ra từ vầng trăng”
Điểm nhìn không thời gian trong các tác phâm của Tạ Duy Anh là không thời gian đồng hiện giữa quà khứ và hiện tại. Điểm nhìn không thời gian không đứng yên mà luôn dịch chuyển.
Đó cũng là một nét đặc sắc trong nghệ thuât của Tạ Duy Anh nói riêng và của các nhà văn sau đổi mới nói chung lại.
Không thời gian của tác phẩm cùng với những hồi cố kí ức của nhà văn. Nó dịch chuyển liên tục trong dòng hồi ưc đó. Hay không gian trong ngôi nhà cảu bà cụ tám mươi tuổi lại toat lên một quá khứ và tình yêu lac quan không một chút cô đơn trong không gian đo ta biêt được một quá khứ của bà cụ khi ông ccụ chưa qua đời họ đã sống như thế nào. Ông đã diễn tả sự việc theo dòng hồi ức. Chính vì thế mà nó có nhịp độ kể nhanh hay chậm câu chuyện được kể tỉ mĩ hay lướt qua.
Chương 2:
NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CHỌN LỌC TẠ DUY ANH
2.1 Ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn chọ lọc Tạ Duy Anh
2.1.1. Ngôn ngữ đời thường
Một điều mà trong các tác phẩm của mình Tạ Duy Anh đã sử dụng ngôn ngữ rất dung dị, đời thường, bên cạnh đó ngôn ngữ của truyện ngắn Tạ Duy Anh luôn luôn thể hiện bề mặt thô nhám của đời sống bình thường. Đó là thứ ngôn ngữ đời thường nhưng có phần dung tục. Ngôn ngữ này người ta còn gọi là ngôn ngữ “đen”thứ ngôn ngữ suồng sã. Đó là cách nhà văn viết theo kiểu hiện thực để làm người đọc hiểu hơn về tính đa thể của cuộc sống con người.
Với Tạ Duy Anh bạn đọc lắm lúc sởn gai ốc vì những con chữ bạo thường trở nên thô thiển. “Lúc tôi đang tắm thì thấy ông Hổ vạch quần đái vào cây mít. Tôi biết ông ta để ý tôi từ lâu” [4, tr.60]
Con những thuật ngữ thời hiện đại nó cũng dung tục trong các truyện ngắn của ông, đó là cách nhà văn phản ánh cái thật ở Tạ Duy Anh khác với nhà văn khác. Vì cái thật không thể thật nếu nó không được diễn đạt đúng là nó. Bởi thứ ngôn ngữ này mới lột tả hết các loại người trong xã hội. Chẳng han như loại người vì quyền lợi mà có thể vu vạ cho người khác “Hóa ra thằng Chung cho nó mấy gạt thóc, thuê nó làm việc đó để hãm hại chú” [4, tr.70]
Ngôn ngữ người ta dùng để nói chuyện với nhau làm người ngoài cảm thây rung sợ. Họ dành cho nhau những lời lẽ cay độc thậm chí là tục tửu “Đừng tưởng trí thức mà khinh ông này nhé, cứt nhé”[9, tr.176] hay người ta nói với nhau khi họ cùng sống chung một thôn “không hì khốn nạn hơn là sống với quân đầu đường xó chợ”[9, tr.176]. Họ sử dụng hết vốn từ sẵn có của mình, thả lỏng dây cương cho ngôn ngữ thoải mái tuôn ra. Chính lối sống hiện đại, mỗi nhà sống với nhau khép kín làm cho họ không hiểu nhau đúng hơn họ không hiểu được cuộc sống của nhau.
Trong các tác phẩm của mình Tạ Duy Anh nó đời thường tới mức quá ư chi là tục khiến người đọc căng mắt ra tập trung mọi giác quan chú ý từng con chữ “Về cắt mẹ nó đi nhé, thấy chị chàng dừng lại. Tiên sư con “mụ hang bấc, thở mạnh một cái đã đứt bố nó ra, suýt tuột cả quần”[4, tr.217]
Thứ ngôn ngữ này được Tạ Duy Anh sử dụng làm cho các tác phẩm của mình nó thực tới có phần thô thiển “ Đéo chịu được nữa” lời của lão Đình nói có vẻ là bất cần đời này.
Bên cạnh thứ ngôn ngữ này cũng hiện diện của ngôn ngữ ngọt ngào của tình yêu, nó vi phạm mọi nguyên tắc ngữ pháp bởi tình yêu không tuân theo cái gì có sẵn “ Anh vừa mới phát hiện ra cánh đây nữa năm là anh yêu em từ rất lâu rồi”[4, tr.107].
Trong tác phẩm của ông hầu như viết về người nông dân họ vẫn giử được những mộc mạc, chân tình, họ xưng hô với nhau như những người ruột thịt “ Cháu có chuyện này muốn nói với thím, giọng chị Túc phập phồng.
…Đọc xem nào chie có hai thím cháu chư có ai mà sợ
Thím không được hở với ai, chị Túc mặc cả
Con bé này, chuyện trẻ con!”
Chị Túc thở sâu mấy cái rồi bắt đầu đọc
“ Quảng Trị ngày..
Em yêu quý![4, tr.17]. Họ sống với nhau có cái tình và thương yêu đùm bọc nhau.
2.1.2. Ngôn ngữ đối thoại
Đối thoại củng là cách nhà văn dụng để miêu tả tính cách nhân vật qua những lời lẽ, đối thoại với người khác. Đối thoại là cách giao tiếp giữa các nhân vật. Từ đấy ta có thể nhận thấy họ suồng sã, than mật hay thô ráp.
Trong các tác phẩm của ông sử dụng cách đối thoại dày đặc trong tác phẩm có ý nghĩa đặc biệt bởi đối thoại giúp người ta xích lại gần nhau hơn, họ tâm tình hoặc giãi bày tâm sự với nhau. Chẳng hạn chị Túc không biết tâm sự chuyện của chị cho ai ngoài người Thím cuộc đối thoại giữa hai người được nhân vật tôi trần thuật lại.
Nhưng đôi khi đối thaọi cũng đem lại hiệu quả trái ngược nhau không làm họ xích lại gần nhau mà đẩy họ ra xa nhau, không ai hiểu ai, không quan tâm tới cuộ sống của nhau chứ đừng nói đến cảm thong với nhau. Đối thoại này như một kiểu tiêu khiển ngôn ngữ, nhại lại lời nói một cách nhằm chán vô nghĩa nhưng thực chất nó đang phát ra những tín hiệu SOS cảnh tỉnh. Người ta kinh hoàng nhận ra cái chết và nguy cơ hủy diệt của ngôn ngữ.
Nó thể hiện trạnh thái vở vụn, phân ra của thế giới hiện đại, vừa khắc đậm trạng thái cô đơn, tha hóa của nhân vật. Mỗi nhân vật là một thế giới riêng xa lạ với đồng loại với chính mình, con người bị bào mòn, tẩy trắng. Nó thể hiện nổi âu lo về của sự biến mất của cá nhân, người không mặt những vấn nạn của đời sống hiện đại.
“ Này những thằng định hại bố mày nghe đây, quân tử thì chơi trước mặt, tao mà thua tao lạy bằng anh. Tao biết tõng tỉ hạng người chúng màu ra vẻ tử tế là phải coi chừng.
Lão Tây con thấy phủ đầu như thế là đủ, đã định đi xuống. Nhưng nỗi ấm ức do lão tưởng tượng ra rằng lí do thằng oắt con coi thường lão là do lão ít học, khiến lão vỗ mặt thêm một câu
Đừng tưởng trí thức mà khinh được ông nhe, cứt nhé.
…Chàng đích danh lão Tây con lên đối mặt, bằng toàn bộ học vấn của mình, chàng moi móc trong kho tang lời nguyền rủa của loài người tìm lấy những câu độc địa trút lên đầu lão Tây con.”[4, tr.179] tại sao người ta ở cùng với nhau một cái thôn bé tí mỗi sáng họ đều gặp nhau mặt đối mặ nhưng lại dành những lời lẽ cay độc nhât để nói với nhau.
Mỗi cuộc đối thoại như một lời tự thú về tội ác. Nó là sự khát khao tìm lại bản chất thiện đã mất. Nó là cơ hội để bộc lộ tính cách vừa là nguyên cớ để nhân vật phát biểu tư tưởng của mình. Anh Hào tỏ tình với chị Túc bằng một tinh yêu dục tính anh ta không dành được trái tim của chị anh ta liền nảy ra hành đôngh đớn hèn là muốm chiếm đoạt chị.
“ Mày tỏ tình kiểu ấy phải không?, giọng chị Túc sắp bật thành lửa. Tao sẽ trả lời mày theo kiểu của tao
…
Thì ra mảy trốn lủi cái chết là để tạo ra những cái chết khủng khiếp phải không?
Tôi chỉ chứng tỏ tình yêu của tôi.
Tình yêu quỷ sứ! Cút ngay khi tao còn chưa kịp lên đạn.[4, tr.25]
Đối thoại đôi khi chỉ vài ba từ thôi có vẻ cụt lũn như thếnhưng nó lại mang ý nghĩa nhất định nào đó của chủ thể người nói và người tiếp nhận.
“ Tối rồi
Vâng, tối rồi
Chị tìm gì ở đây?
Không gì cả! Chị là sự trở lại
Tôi tin thế
Anh tin gì cơ
Tôi tin chị sẽ trở lại
Thật kỳ lạ”[4, tr.34]
Đôi khi đâu phải nói nhiều mới hiểu nhau bởi con người với nhau luôn cần được sẽ chia họ đồng cảm giữa hai tâm hồn mang chung một nỗi đau do chiến tranh gây ra.
Đối thoại khi còn hé lộ chân dung của người thứ ba không tham gia đối thoại nhưng có thể nói lên bản chất của kẻ đó “Anh vừa nói ông N “hất lên” phải chăng anh nói người này không có nặng lực ở cấp thấp, lại nhảy tót lên cấp cao hơn là điều trái lẽ thong thường ở chế độ ta. [4, t.r90]
2.1.3. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
Nếu đối thoại là một cách miêu tả nhân vật trong sự đối mặt của nó với người khác thì độc thoại là khu vực ngôn ngữ nhạy cảm để nhân vật tự nói với chính mình. Độc thoại nội tâm trở thành thủ pháp nghệ thuật hiểu quả khi diễn tả quá trình tự ý thức của nhân vật, cho phép đi sâu vào thế giới nội tâm đầy bí ẩn của nhân vật.
Lời độc thoại thường gắn với nhân vật tự ý thức với những trạng thái tâm lý tư tương căng thẳng. Có thể thấy nhiều tác phẩm Tạ Duy Anh có điểm song trùng “tôi” nhân vật người kể chuyện và bong hình cái tôi tác giả.
Trong Bước qua lời nguyền, đan xen giữa câu chuyện được kể là dòng hồi ức chiêm nghiệm của nhân vật tôi về người cha của mình. Cái mảnh đất mà in dấu biết bao kỷ niệm của nhân vật “tôi” nhưng cũng mang lại những chấn thương về tinh thần cho nhân vật “ Mảnh đất chết tiệt! Tôi muốn gào thật to vào bầu trời thắm sâu,tôi muốn gào đến tận âm ti địa ngục cho quỷ thần nghe thấy”[4, tr.45]
Lời độc thoại nội tâm của nhân vật là thể hiện những luồng tư tưởng, tình cảm trái chiều phức tạp. Chân dung hiện lên qua những lời độc thoại của nhân vật bởi đây là khu vực nhạy cảm nhất và thoải mái nhất để nhân vật nói lên những suy tư riêng kín của mình.
Đó là nhưng tiếng nói bề sâu tâm hồn của nhân vật do vậy việc tổ chức những tiếng nói khác nhau trong tác phẩm là để nhân vật chìm sâu trong thế giới riêng của mình. Chính nhân vật củng chấp nhận những suy nghĩ sâu kín trong tâm hồn họ, những câu hỏi đặt ra nhưng thường không có câu trả lời “ Nhưng rốt cuộc suốt đêm qua tôi đã nghĩ về nàng nhiều hơn cả năm trời chúng tôi quen nhau. Nàng đi đâu, với ai? Ở cái nơi nào đó không có tôi, họ đã làm gì? Họ đã làm gì khi biến tôi thành kẻ ngoài lề?”[4, tr.79].
Con người với bao toan tính đời thường vụn vặt buộc họ phải luôn tính toán từng đồng cắc một để có thể sống và duy trì cuộc sống của mình. Đôi khi họ thành ra lẩm bẩm. Trong tác phẩm Gã lẩm bẩm nhân vật là một người như thế 30 tuổi gã mới vào đại học, 34 tuổi gã ra trường với tấm bằng loại giỏi rồi như bao người khác gã đi làm. Mặc dù chưa được nhận tháng lương đầu tiên nhưng dã đã nhẩm tính những thứ cần phải mua khi tính ra thành tiền.
“ Hai trăm năm mươi ngàn quy ra phở, loại trung bình, được sáu mươi bát rưỡi, nếu ăn cơm bụi được năm mươi bữa; được chẵn một trăm cóc bia hơi Hà Nội đấu ba mươi phần trăm Việt Hà và ghi là Hà Nội xịn”[4, tr.12] hay đôi khi gã lại nhẫm tính:
“ Được một cái quạt M.D; được một trăm năm mươi cái cặp C
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bai tieu luan.THANH LOAN.doc