Lời cam đoan .i
Lời cảm ơn.ii
Mục lục .iii
Danh mục các từ viết tắt .iiv
Danh mục các bảng.v
Danh mục các hình .vi
MỞ ĐẦU.1
1. Lí do chọn đề tài .1
2. Mục tiêu nghiên cứu .3
3. Phương pháp nghiên cứu .3
4. Nội dung nghiên cứu .4
5. Cấu trúc luận văn.4
Chương 1. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT .5
1.1. Tổng quan về chất bảo vệ thực vật và các phương pháp phân tích.5
1.1.1 Định nghĩa chất bảo vệ thực vật.5
1.1.2. Phân loại chất Bảo vệ thực vật (BVTV).5
1.1.3. Tác hại của hợp chất bảo vệ thực vật .9
1.1.4. Các phương pháp phân tích .10
1.2. Các phương pháp chế tạo nano Ag và ứng dụng.14
1.2.1. Một số phương pháp chế tạo hạt nano Ag.14
1.2.2. Một số ứng dụng của hạt nano bạc.17
1.3. Tán xạ Raman.21
1.3.1. Lý thuyết tán xạ cổ điển .22
1.3.2. Phổ Raman và các chế độ dao động .25
1.3.3. Lý thuyết tán xạ lượng tử .27
1.3.4. Phép đo phổ Raman trong thực tiễn .31
1.3.5. Tán xạ Raman tăng cường bề mặt .32
79 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 26/02/2022 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu chế tạo nano bạc dạng cành lá sử dụng chùm sáng kết hợp ứng dụng trong tán xạ raman tăng cường bề mặt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n.
phản ứng ràng buộc này làm thay đổi cấu trúc phân tử của các phân tử lớn, tạo
ra các lỗ hổng làm thay đổi tính thấm và sự hô hấp của tế bào. Bạc đồng thời tấn
công vào rất nhiều vị trí trong tế bào làm mất khả năng hoạt động của các chức
năng như sự tổng hợp thành tế bào, màng vận chuyển, sự tổng hợp các axit
nucleic, gây bất hoạt enzym và làm rối loạn quá trình sao mã ADN (hình 1.8).
Không có các chức năng này, các vi sinh vật bị kiềm chế hoặc bị chết [30].
Hình 1.8. Ion bạc liên kết với ADN.
1.2.2.2. Ứng dụng nano bạc trong cảm biến sinh-hóa
Do khả năng hấp thụ và tán xạ ánh sáng mạnh nên hạt nano bạc cũng được
nghiên cứu ứng dụng phổ biến trong lĩnh vực cảm biến. Nguyên tắc hoạt động
của các loại cảm biến này là dựa trên hiệu ứng cộng hưởng plasmon bề mặt định
xứ (Localized Plasmon Surface Resonance LPSR) và hiệu ứng tăng cường tán
xạ Raman bề mặt (SERS). Lanlan Sun và các đồng nghiệp đã nghiên cứu ứng
dụng hạt nano bạc trong việc dò tìm ADN sử dụng hiệu ứng SERS. Ở đây họ
khảo sát sự phụ thuộc của thể tích ethanol vào độ tăng cường tán xạ Raman bề
mặt (SERS) và thử nghiệm thành công đế SERS cho việc phát hiện ADN. Trong
một công bố khác, Xiao và các đồng nghiệp đã nghiên cứu đế SERS phát hiện
chất màu MB sử dụng hạt nano bạc [32]. Kết quả của họ cho thấy tín hiệu Raman
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
của MB được tăng cường khi sử dụng đế SiO2 phủ hạt nano bạc với hệ số tăng
cường là 4,3.107. Dựa trên phổ Raman ta quan sát được các đỉnh phổ từ đó đưa
ra được các thành phần cấu tạo nên chất màu có trong dung dịch nước, với chất
màu MB sẽ xuất hiện ba đỉnh tán xạ đặc trưng ở 446, 1385, 1621 cm-1 tương ứng
với các liên kết C-N-C, C-H và liên kết vòng C-C khi AgNPs không có đỉnh tán
xạ đặc trưng. Khi khảo sát các phổ đặc trưng SERS của đế có phủ AgNPs, sẽ có
sự hấp thụ của MR trên đế có phủ hạt nano bạc (nồng độ 500 ppm) với các nồng
độ MB thay đổi trong dải nghiên cứu từ 1-70 ppm [32].
Hình 1.9. (A). Phổ Raman thường của Ag (500 ppm) và chất màu MB [26].
(B). Phổ SERS của MB với các nồng độ từ 1-70 ppm hấp phụ trên
đế phủ hạt nano bạc (500 ppm).
Lúc này các phổ SERS của MB trên đế phủ Ag-NPs xuất hiện các đỉnh
tán xạ tại 450, 1390, 1594 cm-1 tương ứng với các đỉnh đặc trưng của MB. Vị trí
của các đỉnh đặc trưng này xuất hiện một sự dịch nhẹ so với các đỉnh của mẫu
MB trên đế thường, điều này chứng tỏ có sự hấp phụ của MB lên trên bề mặt
các hạt nano bạc. Cường độ của các đỉnh tán xạ tăng khi nồng độ MB tăng do số
phân tử hấp phụ trên bề mặt Ag-NPs tăng lên.
Gần đây, một cảm biến dựa trên hiện tượng tăng cường tán xạ Raman bề
mặt sử dụng hạt nano bạc để phát hiện vi khuẩn trong nước được đưa ra bởi Zhou
[21].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
Hình 1.10. Sơ đồ đầu dò SERS phát hiện vi khuẩn trong nước uống.
1.3. Tán xạ Raman
Tán xạ Raman là một loại bức xạ thứ cấp xảy ra khi ánh sáng tương tác
với và được phân tán bởi các phân tử. Hiện tượng tán xạ ánh sáng này lần đầu
tiên được phát hiện vào năm 1928 bởi Chandrasekhara Venkata Raman. Các kết
quả nghiên cứu của Raman bị ảnh hưởng bởi công trình đầu tiên của Lord
Rayleigh, người đã báo cáo về sự tán xạ ánh sáng đàn hồi trong khí quyển vào
năm 1871. Trong các thí nghiệm đầu tiên của Raman, ông đã sử dụng một loạt
các thấu kính để tập trung ánh sáng mặt trời vào các mẫu chất lỏng hoặc hơi và
ánh sáng quan sát được tán xạ ra khỏi các mẫu đó. Ông quan sát những thay đổi
trong bước sóng của ánh sángtán xạ ra khỏi mẫu và mức độ dịch chuyển bước
sóng phụ thuộc vào loại mẫu. Tán xạ Rayleigh (hoặc tán xạ đàn hồi) là hiệu ứng
tán xạ ánh sáng chiếm ưu thế và kết quả khi ánh sáng tán xạ ra khỏi các phân tử
không có sự thay đổi năng lượng. Tán xạ Raman (tán xạ không đàn hồi) là hiện
tượng tán xạ tương đối yếu xảy ra vì dao động của liên kết. Trong tán xạ Raman,
năng lượng photon được truyền đi khi nó tương tác với các phân tử, gây ra sự
dịch chuyển bước sóng của ánh sáng tán xạ. Cả hai lý thuyết tán xạ Rayleigh và
Raman hiện nay được sử dụng rộng rãi để mô tả cách ánh sáng tương tác với dao
động và tán xạcủa các phân tử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
1.3.1. Lý thuyết tán xạ cổ điển
Khi các electron dao động xung quanh bề mặt của một phân tử, chúng sẽ
dao động với một tần số đặc trưng (ω). Dao động điện tử này có thể được mô
hình hóa như một dao động điều hòa mộtchiều. Dao động với tần số được mô tả
dưới đây:
k
m
(1.2)
Trong đó: ω là tần số đặc trưng, k là hằng sốtrung bình liên kết với electrondao
động và m là khối lượng hiệu dụng của phân tử [15].
Khi ánh sáng tương tác với phân tử, năng lượng sẽ được hấp thụ trong một
thời gian ngắn. Khi năng lượng đến phù hợp với tần số đặc trưng của phân tử,
các electron sẽ được đẩy lên quỹ đạo phân tử cao hơn trongquá trình hấp thụ.
Mặt khác, khi năng lượng đến không phù hợp với tần số đặc trưng của phân tử,
các electron trong quỹ đạo ngoài cùng của phân tử sẽ bắt đầu dao động ở cùng
tần số với sóng ánh sáng tới. Dao động này của đám mây electron phân tách điện
tích và gây ra momen lưỡng cực cảm ứng. Việc sinh ra momen lưỡng cực cảm
ứng sẽ tạo ra các sóng điện từ được truyền đi (hoặc tán xạ) theo một hướng ngẫu
nhiên. Bằng cách sử dụng mô hình đơn giản, các dự đoán có thể được thực hiện
về các đặc tính hấp thụ và tán xạ của phân tử. Hình 1.11 minh họa lý thuyết cổ
điển về sự tán xạ Rayleigh như mô tả ở trên, khi năng lượng của ánh sáng tới
được kí hiệu là Evo và ánh sáng tán xạ được kí hiệu là Es. Khi ánh sáng tới tương
tác với phân tử, một lưỡng cực cảm ứng trong phân tử được hình thành và tạo ra
photon tán xạ đàn hồi.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
Hình 1.11. Mô tả cổ điển về tán xạ Rayleigh [31].
Mức độ mà đám mây electron của phân tử có thể bị ảnh hưởng bởitrường
điện từ được mô tả bằng cách sử dụng thuật ngữ độ phân cực phân tử (α). Trên
thực tế việc tạo ra momen lưỡng cực sẽ tỷ lệ tuyến tính với điện trường của
phân tử (E(t)),độ phân cực phân tử (α(t)) và có thể được mô tả bằng phương
trình [9]:
( ) ( ) ( )ind t t E t (1.3)
Trong đó: ( )ind t momen lưỡng cực thay đổi theo thời gian,
( )t là độ phân cực
phân tử biến đổi theo thời gian và ( )E t là điện trường biến đổi theo thời gian. Phân
tử có độ phân cực lớn sẽ gây ra momen lưỡng cực căm ứng lớn, trong khi các
phân tử có độ phân cực nhỏ sẽ chỉ tạo một lưỡng cực nhỏ. Các liên kết quay và
liên kết dao động sẽ ảnh hưởng đến độ phân cực phân tử. Trong thực tế, khi các
liên kết quay và liên kết dao động xảy ra ở tần số ωint, độ phân cực sẽ thay đổi
giữa max và min . Sự thay đổi trong độ phân cực phân tử là: max min .
Momen lưỡng cực phân tử có thể được biểu diễn bằng phương trình sau [9]:
int 0
1
( ) 2 . os( ) os( )
2
ind t c t E c t
(1.4)
Trong biểu thức này, α là độ phân cực phân tử và E0 là thành phần của điện
trường độc lập với thời gian. Sử dụng khải triển lượng giác biểu thức cuối cùng
được mở rộng và được biểu diễn dưới đây [9]:
Photon ánh sáng
Tán xạ Rayleigh
Es = Evo
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
0 int int
1 1
( ) 2 .cos( t)+ . os( + ) . os( )
2 2
ind t E c t c t (1.5)
Điều quan trọng cần lưu ý là ở dạng này, momen lưỡng cực được tạo thành
từ ba thành phần. Những thành phần này được gọi là tán xạ Rayleigh, tán xạ
Raman Stokes và tán xạ Raman anti - Stokes. Các thành phần tán xạ Raman
Stokes và tán xạ Raman anti - Stokes là kết quả của sự trao đổi năng lượng giữa
những dao động phân tử và phép quay phân tử. Tán xạ Raman Stokes gây ra
momen lưỡng cực dẫn đến tán xạ có bước sóng dài. Mặt khác, tán xạ RamanAnti
- Stokes gây ra momen lưỡng cực cảm ứng dẫn đến tán xạ có bước sóng ngắn
hơn. Hình 1.12 mô tả ba thành phần tán xạ. Trong sơ đồ này, năng lượng của
photon tới được kí hiệu là Evo và năng lượng của photon tán xạ được kí hiệu là
Es.
Hình 1. 12. Mô hình cổ điển của tán xạ Raman
Hình 1.12 cho thấy khi photon tới tương tác với một phân tử nó tạo ra
lưỡng cực phân tử. Ngoài ra sự dao động và quay trong của các electron phân tử
sẽ tạo nên tán xạ không đàn hồi. Đa số các photon trong quá trình tán xạ có tần
số bằng với tần số của photon tới và hiện tượng tán xạ này chủ yếu là tán xạ
Rayleigh.Tuy nhiên có một số ít photon tán xạ Raman Stokes và một số ít photon
Các tán xạ Raman Stokes Es< Evo
Các tán xạ Rayleigh Es = Evo
Các tán xạ Raman Anti - Stokes
Es> Evo
Photon tới
Thành phần
Rayleigh
Thành phần
Raman Anti – Stokes
Thành phần
Raman Stokes
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
hơn nữa là tán xạ Raman anti - Stokes. Trong tổng số 106 - 108 photon tán xạ thì
chỉ có một photon tán xạ Raman [29]. Quá trình tán xạ Rayleigh là quá trình
chiếm ưu thế và hầu hết các photon tán xạ theo cách này. Quá trình này không
làm thay đổi năng lượng của photon và do đó phân tử quay trở về trạng thái ban
đầu. Trong quá trình tán xạ Raman, phân tử ở trạng thái dao động cơ bản có thể
hấp thụ năng lượng và chuyển lên trạng thái dao dộng có kích thích năng lượng
cao hơn. Đó là tán xạ Raman Stokes. Tuy nhiên một số phân tử có thể chiếm
trạng thái kích thích do năng lượng nhiệt và khi tham gia quá trình tán xạ các
phân tử này có thể chuyển từ trạng thái kích thích về trạng thái cơ bản do sự
truyền năng lượng từ phân tử đến photon tán xạ. Sự tán xạ này gọi là sự tán xạ
Raman anti-Stokes. Quá trình tán xạ Raman xảy ra nhỏ như vậy, nên việc loại
bỏ thành phần Rayleigh là rất quan trọng để thu được tín hiệu Raman yếu.
1.3.2. Phổ Raman và các chế độ dao động
Vị trí của các đỉnh Raman Stokes và Raman anti-Stokes là đối xứng nhau
nhưng có cường độ khác nhau. Số lượng các đỉnh trong phổ Raman phụ thuộc
vào số lượng mode dao động của phân tử. Tất cả các mode dao động không nhất
thiết phải nhìn thấy trong phổ Raman bởi vì một vài mode bị suy giảm (do có
cùng mức năng lượng) và bởi vì một vài mode không phải là tích cực Raman. Số
lượng của các mode dao động cho một phân tử có thể được tính toán dựa trên số
lượng nguyên tử chứa trong phân tử đó.
Do tính đối xứng về trục phân tử, số lượng các mode được biểu diễn bởi
các phần tử tuyến tính là:
3 5nv n (1.6)
trong khi số lượng các mode được biểu diễn bởi các phần tử phi tuyến tính là:
3 6nv n (1.7)
Trong đó: vn là số lượng các mode dao động
n là số nguyên tử chứa trong phân tử.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
Hình 1.13. Ví dụ về quang phổ Raman [29].
Phổ Raman điển hình có nhiều đỉnh tương ứng với các mode dao động cụ
thể, cả dải Raman Stokes và Raman anti-Stokes đều được quan sát thấy cùng với
thành phần tán xạ Rayleigh mạnh.Dải tán xạ Raman Stokes có cường độ mạnh
hơn dải Raman anti-Stokes.
Một số mode dao động sẽ là tích cực Raman và một số khác sẽ không tích
cực Raman. Những mode dao động tích cực Raman sẽ có sự thay đổi trong phân
cực của phân tử. Sử dụng lí thuyết nhóm ta có thể xác định được các mode tích
cực Raman của phân tử. Lí thuyết nhóm là một phương pháp toán học sử dụng
để mô hình hóa các đối xứng phân tử và các liên kết trong dao động và quay của
phân tử.
Hình 1.14 cho thấy một loạt các đỉnh Raman thông thường và chuyển động
phân tử liên quan của chúng đã được xác định dựa trên lí thuyết nhóm Mie và
các kết quả thực nghiệm đã xác định tính chính xác của tính toán lí thuyết [14].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
Hình 1.14. Các mode tích cực Raman của các nhóm chức thông thường.
Các nhóm chức có thể được xác định thông qua quang phổ Raman dựa
trên vị trí của chúng so với bước sóng kích thích [22].
1.3.3. Lý thuyết tán xạ lượng tử
Để đưa ra một mô tả sâu hơn về quá trình tán xạ Raman, người ta đã đưa
ra một phương pháp tiếp cận dựa trên cơ học lượng tử. Sử dụng cơ học lượng tử,
tương tác của photon và các phân tử có thể được mô tả với các mức năng lượng
lượng tử cụ thể. Các electron sẽ dịch chuyển giữa các mức năng lượng này tương
ứng với photon kích thích. Khi tần số của ánh sáng tới phù hợp với tần số đặc
trưng của dao động electron trong phân tử, nó sẽ tạo ra sự dịch chuyển của các
electron từ quỹ đạo HOMO sang quỹ đạo LUMO. Quá trình này được minh họa
trong hình 1.15.
Sự dịch chuyển trạng thái này của electron được gọi là quá trình hấp thụ
quang họcvà được sử dụng trong lĩnh vực hóa học và sinh học để phát hiện các
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
phân tử có liên kết liên hợp. Thông qua sự hấp thụ photon, phân tử dịch chuyển
từ trạng thái cơ bản sang trạng thái kích thích có mức năng lượng cao hơn. Năng
lượng từ trạng thái kích thích này có thể bị mất đi dưới dạng nhiệt hoặc các quá
trình chuyển đổi năng lượng khác như huỳnh quang hoặc lân quang. Sự hấp thụ
điện tử và dao động phân tử là các quá trình khác nhau, dẫn đến sự dịch chuyển
từ trạng thái cơ bản sang trạng thái kích thích. Trong quá trình hấp thụ điện tử,
một electron dịch chuyển đến quỹ đạo cao hơn. Mặt khác, trong quá trình dao
động của phân tử, năng lượng được tích trữ trong các liên kết phân tử và bị mất
đi do sự giải phóng năng lượng dưới dạng nhiệt, ánh sáng hoặc các dạng năng
lượng khác.
Hình 1.15. Quá trình hấp thu photon.
Trong quá trình hấp thụ photon các electron chuyển từ quỹ đạo phân tửđược
chiếm đóng cao nhất (HOMO) được kích thích bởi một photon và sau đó dịch
chuyển lên quỹ đạo phân tửkhông được chiếm đóng thấp nhất (LUMO) [10].
Mô tả dựa trên cơ học lượng tử của tán xạ Raman và tán xạ Rayleigh có
thể được minh họa bằng cách so sánh với quá trình huỳnh quang. Sơ đồ Jablonski
được trình bày trong hình 1.16 cho thấy quá trình huỳnh quang, quá trình tán xạ
Rayleigh, quá trình tán xạ Raman Stokes và quá trình tán xạ Raman anti - Stokes.
Trong quá trình huỳnh quang, một phân tử được kích thích bởi một nguồn sáng
phù hợp với tần số cộng hưởng của các phân tử. Khi đó một quá trình dịch chuyển
electron xảy ra và phân tử chuyển sang trạng thái kích thích thứ nhất (S1) là trạng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
thái mà một phần năng lượng bị mất đi do quá trình chuyển đổi bên trong. Sau
thời gian sống huỳnh quang các electron ở trạng thái kích thích thứ nhất (S1)
nhảy xuống trạng thái cơ bản (S0) và sinh ra một photon. Do sự khác biệt về năng
lượng giữa trạng thái kích thích và trạng thái cơ bản nhỏ hơn so với năng lượng
hấp thụ ban đầu nên photon phát xạ ra sẽ có năng lượng nhỏ hơn năng lượng của
photon tới.
Hình 1.16. Sơ đồ Jablonski của các quá trình tán xạ và huỳnh quang [31].
Huỳnh quang và tán xạ là các quá trình cơ bản khác nhau. Huỳnh quang
liên quan đến sự hấp thụ photon theo đó là quá trình chuyển đổi bên trong. Năng
lượng còn lại được chuyển thành năng lượng của photon trong quá trình phát
huỳnh quang. Tán xạ là kết quả từ việc dịch chuyển các electron từ mức có năng
lượng cao tới trạng thái ảo và sự suy giảm ngẫu nhiên của photon trong quá trình
cân bằng động của phân tử.
Khác với quá trình hấp thụ và huỳnh quang, các quá trình tán xạ ánh sáng
như tán xạ Rayleigh và tán xạ Raman không phụ thuộc vào sự dịch chuyển của
các điện tử. Trong quá trình tán xạ ánh sáng, phân tử sẽ được kích thích đến trạng
thái năng lượng ảo (V) là một trạng thái dao độngtrung gian giữa trạng thái cơ
bản (S0) và trạng thái kích thích (S1). Việc dịch chuyển phân tử tới trạng thái ảo
xảy ra khi kích thích không phù hợp với mức năng lượng lượng tử của phân tử,
khi đó phân tử nhận năng lượng và tạo ra momen lưỡng cực cảm ứng. Mức năng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
lượng cao hoặc trạng thái năng lượng ảo (V) bị mất đi thông qua quá trình tán
xạ. Thời gian phân tử ở trạng thái ảo nhỏ hơn so với thời gian nó ở trạng thái
kích thích. Thời gian sống của tán xạ Raman từ khoảng 10-13 đến 10-11s, trong
khi thời gian sống huỳnh quang từ 10-9 đến 10-7s. Sự suy giảm của thời gian sống
ở trạng thái ảo là một trong những lí do mà các đầu dò SERS giảm tẩy quang. Cả
hai quá trình tán xạ Raman Stokes và tán xạ Raman anti – Stokes đều có thể được
mô tả bởi các quá trình dịch chuyển mức năng lượng ảo của chúng. Trong tán xạ
Raman Stokes ánh sáng kích thích chuyển phân tử tới trạng thái ảo (V). Sau thời
gian sống tán xạ, phân tử chuyển về trạng thái dao động (Vib) thay vì đi tới trạng
thái cơ bản (S0). Trạng thái dao động động này (Vib) là kết quả của chuyển động
dao động và quay gây ra bởi ánh sáng tới. Trạng thái dao động (Vib) gần trạng
thái cơ bản nên sự khác biệt năng lượng giữa hai trạng thái này là rất nhỏ. Khi
các electron nhảy từ trạng thái kích thích ảo (V) sang trạng thái dao động (Vib)
thì một photon được phát ra có năng lượng nhỏ hơn năng lượng của photon tới,
hay được gọi là sự dịch đỏ. Ta có thể xác định được các chuyển động dao động
liên kết và quay thông qua nghiên cứu sự dịch đỏ của quang phổ.
Trong tán xạ Raman anti - Stokes, một phần nhỏ các phân tử đã ở trạng
thái dao động có năng lượng cao (Vib), do ở nhiệt độ phòng, tất cả các phân tử
đều có chuyển động liên kết. Khi ánh sáng tớitương tác vào bề mặt của các phân
tử, chúng sẽ kích thích các phân tử chuyển lên trạng thái ảo (V). Sau thời gian
sống tán xạ, các phân tử quay trở lại trạng thái cơ bản (S0), và phát xạ của một
photon có năng lượng cao hơn năng lượng của photon tới, hay được gọi là sự
dịch xanh. Bởi vì có ít phân tử ở nhiệt độ phòng ở trạng thái kích dao động nên
tần số xuất hiện tán xạ Raman anti-stokes nhỏ hơn so với tán xạ Raman Stokes.
Sự suy giảm của tần số tán xạ Raman anti- Stokes không thể giải thích bằng lí
thuyết cổ điển, tuy nhiên có thể được minh họa một cách hiệu quả bằng lý thuyết
tán xạ lượng tử
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
1.3.4. Phép đo phổ Raman trong thực tiễn
Nền tảng lý thuyết của các lý thuyết cơ học cổ điển và lượng tử mô tả sự
tán xạ Raman tạo ra nền tảng cho các ứng dụng dựa trên quang phổ Raman.
Trong phổ Raman, điều quan trọng là phải xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến
cường độ tán xạ Raman. Cường độ tán xạ Raman thường tỷ lệ thuận với nồng độ
của phân tử. Phương trình dưới đây cho biết sự phụ thuộc của cường độ tán xạ
Raman vào một số yếu tố:
0 . .R RI I C L k (1.8)
Trong đó IR là cường độ tán xạ Raman,I0là cường độ của ánh sáng tới, R
là tiết diện tán xạ Raman của phân tử, L là độ dài tiêu cự của hệ Raman, k là chỉ
số thiết bị và C là nồng độ của các phân tử.
Do sự tán xạ Raman rất hiếm xảy ra, độ nhạy của tán xạ Raman rất thấp
và khó có thể thu được phổ Raman của các chất ở nồng độ thấp. Một kỹ thuật
phổ biến để tăng độ nhạy của hệ thống là tăng thời gian chuyển đổi quang. Khi
tăng thời gian chuyển đổi quang tức là tăng thời gian thu các photon tán xạ (tăng
khả năng các photon tán xạ chạm vào detector). Tuy nhiên khi tăng thời gian thu
sẽ có nhược điểm là tăng cả tính nhạy của hệ thống với các nguồn sáng khác và
huỳnh quang.
Một tùy chọn khác để tăng cường độ tán xạ Raman là tăng tiết diện tán xạ
tán xạ Raman ( R ). Tiết diện tán xạ Raman là một đại lượng được tính toán, thể
hiện khả năng tương tác giữa các hạt với nhau như hấp thụ, huỳnh quang và tán
xạ. Bởi vì tiết diện của tán xạ Raman là quá nhỏ, nên khó để thực hiện các phép
đo nhạybằng cách sử dụng kỹ thuật này. Để tăng độ nhạy tán xạ Raman, một số
kỹ thuật đã được sử dụng bao gồm tán xạ Raman kích thích, tán xạ Raman cộng
hưởng và tán xạ Raman tăng cường bề mặt (SERS). SERS là một kĩ thuật được
đặc biệt quan tâm vì không cần phải thay đổi thiết lập hệ thống Raman. Sử dụng
SERS, tiết diện tán xạ Raman được tăng cường để phù hợp với tiết diện huỳnh
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
quang, điều này cho phép SERS được sử dụng trong các ứng dụng đòi hỏi có độ
nhạy cao [12].
1.3.5. Tán xạ Raman tăng cường bề mặt
Tán xạ Raman tăng cường bề mặt (SERS) được phát hiện vào năm 1974
bởi ba nhà khoa học (Fleischmann, Hendra, và McQuillan) tại Đại học
Southampton. Trong các thí nghiệm ban đầu, họ phát hiện ra phổ Raman của
pyridin trên điện cực bạc được tăng cường bất thường.
1.3.5.1. Cộng hưởng Plasmon bề mặt
Khi ánh sáng tới tương tác với bề mặt kim loại, các electron tự do trong
bề mặt kim loại bắt đầu dao động. Khi các electron dao động, điện tích của khối
electron được phân bố lại trên bề mặt và tạo ra một lưỡng cực điện trong mạng
kim loại. Dao động electron bề mặt này có mức năng lượng riêng biệt được gọi
là plasmon. Khi tần số ánh sáng tới phù hợp với tần số dao động plasmon, có
hiện tượng cộng hưởng xảy ra gọi là cộng hưởng plasmon bề mặt (SPR). Tại
trạng thái cộng hưởng này, cường độ của các plasmon bề mặt là cực đại và cường
độ ánh sáng tới được khuếch đại và truyền đi. Khi các kích thước của cấu trúc
kim loại nhỏ hơn bước sóng ánh sáng tới, SPR phụ thuộc nhiều vào hình dạng,
kích thước, khoảng cách và thành phần của cấu trúc nano. Khi kích thích plasmon
xảy ra ở kích thước nano, mật độ electron của toàn bộ cấu trúc sẽ dao động (Hình
1.17). Sự dao động của các electron bề mặt này được gọi là cộng hưởng plasmon
bề mặt định xứ (LSPR). LSPR tạo ra một điện trường khuếch đại gần bề mặt các
hạt và tăng tán xạ và hấp thụ ánh sáng [31].
LSPR có thể được sử dụng để giải thích các thuộc tính tán xạ và hấp thụ
ánh sáng phụ thuộc vào kích thước của các hạt nano vàng và bạc. Bằng cách thay
đổi kích thước của hạt nano, vị trí đỉnh LSPR có thể được dịch chuyển đáng kể,
điều này sẽ ảnh hưởng đến màu sắc quan sát của hạt và đặc tính tán xạ Raman
của các hạt nano kim loại này. Vị trí đỉnh LSPR là bước sóng mà tại đó sự hấp
thụ và tán xạtăng cường được quan sát cho các hạt nano kim loại. Tăng cường
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
điện từ và tăng cường tán xạ ánh sáng sẽ xảy ra khi bước sóng kích thích ở gần
đỉnh LSPR. Điều quan trọng là tối ưu hóa các hạt SERS cho một bước sóng kích
thích cụ thể. Việc tối ưu hóa này có thể được thực hiện bằng cách chế tạo các hạt
nano với các kích thước có thể tạo ra một đỉnh LSPR ở bước sóng kích thích.
Hình 1.17. Cộng hưởng Plasmon bề mặt định xứ [19].
Sự cộng hưởng Plasmon bề mặt định xứ (LSPR) được tạo ra khi bức xạ
điện từ tương tác với các hạt nano kim loại. Khi ánh sáng tương tác với các hạt
này, nó tạo ra lưỡng cực điện trên bề mặt hạt, dao động qua lại để đáp ứng với
sóng tới.
Hình 1.18. LSPR và tiết diện dập tắt của các hạt nano [23].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu và Công nghệ thông tin – Đại học Thái Nguyên
Do kích thước của các cấu trúc này nhỏ hơn bước sóng ánh sáng, các
plasmon bề mặt dao động này chiếm ưu thế đáp ứng của trường điện từ, tạo ra
sự tăng cường độ tán xạ và tăng điệntrường ở gần bề mặt hạt [11],[2].
Về mặt lý thuyết, tiết diện dập tắt chuẩn hóa của các hạt nano vàng từ
20nm – 140nm được tạo ra bằng cách sử dụng các tính toán lý thuyết Mie [22].
Lí thuyết này cho thấy vị trí đỉnh SPR tăng khi kích thước hạt tăng lên. Dữ liệu
cho các đường này được tạo ra bằng cách sử dụng chương trình MiePlot.
Các dự đoán lý thuyết về vị trí đỉnh LSPR có thể được thực hiện bằng lý
thuyết tán xạ Mie. Lý thuyết tán xạ Mie là một phương pháp áp dụng hệ phương
trình Maxwell cho sự lan truyền điện từ đến các hạt hình cầu đẳng hướng đồng
nhất. Kết quả này có thể được sử dụng để dự đoán các vị trí đỉnh LSPR cho các
hạt nano có kích thước, hình dạng và tính chất điện môi khác nhau. Phương trình
sau sử dụng lý thuyết tán xạ Mie và có thể được sử dụng để ước tính các đặc tính
dập tắt phụ thuộc bước sóng của một hạt nano có giới hạn lưỡng cực tĩnh điện
[23].
3 3/2
2 2
24
( )
(10) ( . )
a m i
r m i
N a
E
Ln X
(1.9)
Trong phương trình này ( )E là sự dập tắt ánh sáng phụ thuộc bước sóng
là một tổng của hấp thụ và tán xạ. Na là mật độ diện tích của các hạt nano, a là
bán kính của các hạt nano, m là hằng số điện môi của môi trường xung quanh
hạt nanovà r , i là phần thực và ảo của các hàm điện môi của các hạt nano, X
là chỉ số hình dạng hạt. Chỉ số hình dạng hạt có thể được thay đổi theo mô phỏng
lí thuyết Mie với hình dạng và tỉ lệ khác nhau của hạt. Hình 1.18 cho thấy phổ
dập tắt lý thuyết của các hạt nano vàng hình cầu khi kích thước ngày càng tăng.
1.3.5.2. Cơ chế tăng cường bề mặt của SERS
Có hai lý thuyết khác nhau về SERS hiện nay đang được sử dụng rộng rãi.
Lý thuyết tăng cường tán xạ bằng điện trường dựa trên giả thuyết chất phân tích
được hấp phụ trên bề mặt kim loại và tương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_nghien_cuu_che_tao_nano_bac_dang_canh_la_su_dung_ch.pdf